Xếp liền trên đội tuyển Việt Nam tại khu vực châu Á là Kyrgyzstan [hạng 95] và Palestine [hạng 94]. Đáng chú ý, Palestine sẽ cử đội tuyển U20 sang thi đấu giao hữu với U20 Việt Nam vào ngày 3/9 tới.
Mặc dù kết quả thi đấu của các đội trẻ không thuộc hệ thống tính điểm xếp hạng của FIFA, nhưng khoảng cách sít sao trên Bảng xếp hạng FIFA ở cấp đội tuyển cũng hứa hẹn sẽ tạo ra một trận đấu ngang sức giữa U20 Việt Nam và U20 Palestine.
Xếp hạng tại khu vực châu Á. |
Cũng trong Bảng xếp hạng các đội tuyển thuộc châu Á, không bất ngờ khi Iran [hạng 22 thế giới], Nhật Bản [hạng 24 thế giới], Hàn Quốc [hạng 28 thế giới] nằm trong Top 3 đội dẫn đầu.
Trong khi đó, ở khu vực Đông Nam Á, đội tuyển Thái Lan tiếp tục xếp ở vị trí thứ 2 sau đội tuyển Việt Nam. Tuy nhiên, khoảng cách giữa Việt Nam và Thái Lan trên Bảng xếp hạng FIFA thế giới lên tới 14 bậc.
Các vị trí tiếp theo lần lượt là Philippines [hạng 134 thế giới], Malaysia [hạng 148 thế giới], Indonesia [hạng 155 thế giới], Myanmar [hạng 158 thế giới], Singapore [hạng 159 thế giới], Campuchia [hạng 174 thế giới], Lào [hạng 183 thế giới], Brunei [hạng 190 thế giới] và Timor-Leste [hạng 199 thế giới].
Ở Top 10 thế giới, đội tuyển dẫn đầu vẫn là Brazil với 1837,56 điểm. Xếp các vị trí tiếp theo lần lượt là Bỉ, Argentina, Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Ý, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Đan Mạch.
Tháng 9 tới sẽ diễn ra các loạt trận giao hữu theo lịch thi đấu của FIFA [FIFA days], trong đó, đội tuyển Việt Nam cũng có ít nhất 2 trận giao hữu quốc tế chính thức.
Kết quả của các trận giao hữu quốc tế theo lịch FIFA days thuộc hệ thống tính điểm xếp hạng của FIFA nên chắc chắn sẽ tạo ra những biến động trên Bảng xếp hạng tháng 9/2022, được FIFA công bố vào ngày 6/10/2022.
Chiều ngày 25/8 [theo giờ Việt Nam], Liên đoàn Bóng đá thế giới [FIFA] đã công bố Bảng xếp hạng các đội tuyển quốc gia trong tháng 8/2022. Do trong tháng 7 vừa qua không có loạt trận quốc tế nào thế nên điểm số của các đội không có nhiều thay đổi so với hồi tháng 6.
Với 1218,84 điểm, đội tuyển Việt Nam vẫn duy trì vị trí thứ 97 trên Bảng xếp hạng, đứng số 1 Đông Nam Á. Thái Lan ở ngay sau chúng ta với vị trí thứ 111. Các đội còn lại ở khu vực Đông Nam Á có thứ hạng lần lượt là Philippines hạng 134, Malaysia hạng 148, Indonesia hạng 155, Myanmar hạng 158, Singapore hạng 159, Campuchia hạng 174, Lào hạng 183, Brunei hạng 190 và Timor Leste hạng 199.
Tính trong châu Á, Việt Nam đứng thứ 17. Dẫn đầu là Iran [hạng 22 thế giới], Nhật Bản [hạng 24] và Hàn Quốc [hạng 28]. Ở nhóm dẫn đầu Bảng xếp hạng, đội tuyển Brazil với số điểm 1837,56 vẫn đang xếp thứ nhất. Ngay sau "Các vũ công Samba" là các đội tuyển Bỉ [1821,92 điểm], Argentina [1770,65 điểm] và Pháp [1765,85 điểm].
Sang đến tháng 9, sẽ có quãng nghỉ để đội tuyển của các quốc gia thi đấu giao hữu nên vị trí trên bảng xếp hạng nhiều khả năng sẽ có biến động. Theo kế hoạch, đội tuyển Việt Nam sẽ tập trung trở lại vào ngày 17/9 tới để chuẩn bị cho 2 trận giao hữu diễn ra trên sân vận động Thống Nhất.
Mọi chi tiết về bài viết xin liên hệ số hotline [024 3845 3256] hoặc gửi email về địa chỉ [].
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
FIFA World Rankings tính đến 6 tháng 10 năm 2022.[1]
20 đội bóng hàng đầu thế giới tính tới 6 tháng 10 năm 2022[1] | |||
1 | 1841.3 | ||
2 | 1816.71 | ||
3 | 1773.88 | ||
4 | 1759.78 | ||
5 | 1728.47 | ||
6 | 1726.14 | ||
7 | 1715.22 | ||
8 | 1694.51 | ||
9 | 1676.56 | ||
10 | 1666.57 | ||
11 | 1650.21 | ||
12 | 1645.64 | ||
13 | 1644.89 | ||
14 | 1638.71 | ||
15 | 1635.92 | ||
16 | 1627.48 | ||
17 | 1611.04 | ||
18 | 1584.38 | ||
19 | 1569.82 | ||
20 | 1564.61 | ||
*Thay đổi so với 25 tháng 8 năm 2022 | |||
Bảng xếp hạng đầy đủ tại FIFA.com |
Bảng xếp hạng FIFA [FIFA World Rankings] là hệ thống xếp hạng dành cho các đội tuyển bóng đá nam trong các Liên đoàn bóng đá, với Brazil hiện đang dẫn đầu danh sách. Các đội bóng quốc gia thành viên của FIFA, nơi điều hành các hoạt động bóng đá trên toàn thế giới, được xếp hạng dựa trên kết quả các trận đấu và đội có nhiều thắng lợi nhất sẽ được xếp hạng cao nhất. 1 hệ thống điểm được sử dụng, điểm được thưởng dựa trên kết quả các trận đấu quốc tế được FIFA công nhận. Trước hệ thống hiện nay, BXH được dựa trên thành tích của đội bóng trong 4 năm gần nhất, với nhiều kết quả gần hơn và nhiều trận đấu quan trọng hơn thì có ảnh hưởng nặng hơn cho việc giúp mang lại vị trí cao cho đội bóng, ví dụ như trận thắng tại World Cup được cộng nhiều điểm hơn trận đấu giao hữu, và chiến thắng trước một đội hạng cao sẽ được cộng nhiều điểm hơn thắng đội hạng thấp.
Bảng xếp hạng được giới thiệu lần đầu vào tháng 12 năm 1992. Hệ thống xếp hạng được sửa chữa sau World Cup 2006 với thông báo quan trọng về chuỗi xếp hạng mới được đưa ra vào ngày 12 tháng 6 năm 2009.
Hệ thống xếp hạng đã được cải tiến. Phiên bản hiện tại của hệ thống được sử dụng lần đầu tiên vào ngày 16 tháng 8 năm 2018, dựa trên hệ thống hệ số Elo dùng trong cờ vua và cờ vây, xếp hạng các đội trên cơ sở tất cả các thời kì. Sự thay đổi trên để đáp lại sự chỉ trích cho rằng những thứ hạng không thể hiện cân xứng với sức mạnh thực tế của các đội tuyển. [xem phần Những sự chỉ trích]. Bảng xếp hạng này vẫn có sự khác biệt so với Bảng xếp hạng Elo bóng đá thế giới [World Football Elo Ratings] và bảng xếp hạng RSSSF [Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation], điều này đã tạo ra nhiều điều chỉnh khác nhau cho bảng xếp hạng FIFA. Tuy nhiên thì bảng xếp hạng này vẫn luôn được mọi người sử dụng và tham khảo phổ biến hơn rất nhiều so với bảng xếp hạng Elo và RSSSF.
Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]
Các đội dẫn đầu bảng xếp hạng FIFA
Vào tháng 12 năm 1992, FIFA lần đầu tiên công bố 1 danh sách thứ tự xếp hạng của các liên đoàn thành viên quy định 1 cơ sở để so sánh sức mạnh của các đội bóng. Từ tháng 8 năm sau, với sự tài trợ từ Coca Cola, danh sách được cập nhật thường xuyên hơn, được công bố trong đa số các tháng.[2] Những thay đổi quan trọng được tiến hành vào năm 1999 và 1 lần nữa vào năm 2006, để chống lại các chỉ trích nhằm vào hệ thống.[3] Số thành viên của FIFA tăng lên từ 167 thành 211 từ khi BXH ra đời. Trong lịch sử có một số trường hợp thành viên bị loại khỏi bảng xếp hạng vì không thi đấu 1 trận đấu quốc tế được công nhận nào trong hơn 4 năm, đó là São Tomé và Príncipe [từ tháng 12 năm 2007 đến tháng 11 năm 2011], Papua New Guinea [từ tháng 7 đến tháng 9 năm 2011] và Quần đảo Cook [từ tháng 7 năm 2019 đến tháng 3 năm 2022]. Hiện tại tất cả 211 thành viên đang được thống kê trong các bảng xếp hạng.
Thay đổi năm 1999[sửa | sửa mã nguồn]
Từ khi BXH ban đầu được giới thiệu, 1 đội nhận được 1 điểm cho 1 trận hòa và 3 điểm cho 1 trận thắng trong các trận thi đấu được FIFA công nhận, cũng tương tự như hệ thống tính điểm trong các giải đấu. Đây là 1 phương pháp tính toán khá đơn giản, nhưng FIFA đã nhanh chóng nhận ra rằng có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến các trận đấu quốc tế. Để đáp ứng các mục tiêu công bằng, khách quan và để so sánh chính xác sức mạnh tương xứng của nhiều quốc gia khác nhau, hệ thống được cập nhật. Các thay đổi chủ yếu như sau:
- bảng xếp hạng điểm được tăng cường bởi 10 nhân tố.
- phương pháp tính được thay đổi để đem vào các nhân
tố tính toán bao gồm:
- số bàn thắng ghi được hay thừa nhận thua.
- trận đấu sân nhà hay sân khách.
- tính quan trọng của trận đấu hay cuộc thi.
- sức mạnh khu vực của đối thủ.
- một số điểm cố định được không nhất thiết trận đó thắng hay hòa.
- đội thua vẫn có thể nhận điểm.
2 danh hiệu mới được giới thiệu như là một phần của hệ thống:
- Đội bóng của năm
- Đội bóng tiến bộ của năm
Sự thay đổi đó làm cho hệ thống BXH phức tạp hơn, nhưng nó giúp cải thiện độ chính xác bởi vì nó đã toàn diện hơn.
Thay đổi năm 2006[sửa | sửa mã nguồn]
FIFA thông báo rằng hệ thống xếp hạng được cải tiến sau World Cup 2006. Thời gian đánh giá được giảm bớt từ 8 năm xuống còn 4 năm, và 1 phương pháp tính toán đơn giản hơn được sử dụng cho đến bây giờ để quyết định vị trí xếp hạng.[4] Lợi thế số bàn thắng ghi được trên sân nhà hay sân khách không còn đem vào để tính toán nữa. Các khía cạnh khác như tầm quan trọng của các loại trận khác nhau đã được xem xét lại. Bộ phương pháp tính toán và bảng xếp hạng sửa đổi đầu tiên được thông báo vào ngày 12 tháng 7 năm 2006.
Sự thay đổi này được bắt nguồn ít nhất là từ một phần của cuộc chỉ trích lan rộng dành cho hệ thống xếp hạng trước kia. Nhiều người yêu bóng đá có cảm giác rằng nó không chính xác, đặc biệt khi so sánh với các hệ thống xếp hạng khác và cho rằng nó không đáp ứng đủ để phản ánh những thay đổi trong thành tích của từng đội bóng. Các thứ hạng cao đầy bất ngờ gần đây của Cộng hoà Séc và Mỹ đã vấp phải sự hoài nghi và ảnh hưởng tiêu cực đến sự tín nhiệm vào hệ thống dưới con mắt của nhiều nhà thể thao. Màn trình diễn nghèo nàn và việc bị loại sớm của 2 đội bóng trên tại vòng chung kết World Cup 2006 làm xuất hiện lên lòng tin vào các chỉ trích.
Thay đổi năm 2018[sửa | sửa mã nguồn]
Vào tháng 9 năm 2017, FIFA tuyên bố họ đang xem xét hệ thống xếp hạng mới và sẽ có quyết định cuối cùng sau khi vòng loại FIFA World Cup 2018 kết thúc nếu có bất kỳ thay đổi nào được thực hiện để cải thiện thứ hạng. FIFA thông báo vào ngày 10 tháng 6 năm 2018, rằng hệ thống xếp hạng mới sẽ được cập nhật sau FIFA World Cup 2018. Bắt đầu với bảng xếp hạng tháng 4 năm 2021, điểm của các đội hiện được tính đến hai điểm thập phân, thay vì được làm tròn đến số nguyên gần nhất.[5]
Các đội dẫn đầu[sửa | sửa mã nguồn]
Từ khi hệ thống được giới thiệu, Đức là đội đầu tiên dẫn đầu sau khoảng thống trị kéo dài của họ khi đã 3 lần lọt vào trận chung kết của 3 VCK World Cup gần nhất và họ đã chiến thắng một trong 3 lần đó. Brasil nắm vị trí dẫn đầu trong hành trình đến World Cup 1994 sau khi thắng 8 và thua một trong 9 trận vòng loại, ghi được 20 bàn và để lọt lưới chỉ 4 bàn. Ý xếp đầu sau đó trong một thời gian ngắn khi đã hoàn thành thành công đợt vòng loại World Cup, sau đó đã bị Đức lấy lại. Sự thành công trong chiến dịch vòng loại dài giúp cho Brasil dẫn đầu BXH trong một thời gian ngắn. Đức lại dẫn đầu trong suốt VCK World Cup 1994, cho đến khi Brasil vô địch kì World Cup đó giúp họ có được một thời gian dẫn đầu rất lâu gần 7 năm cho đến khi họ bị vượt qua bởi Pháp, 1 đội mạnh trong thời gian đó khi đã vô địch World Cup 1998 và Euro 2000. Thành công tại World Cup 2002 giúp cho Brasil lấy lại vị trí đầu và giữ đến tháng 2 năm 2007, khi Ý trở lại dẫn đầu lần đầu tiên kể từ năm 1993 sau khi vô địch World Cup 2006 tổ chức tại Đức. Một tháng sau, Argentina lên thế chỗ Ý nhưng đã bị Ý lấy lại vào tháng 4. Sau chiến thắng tại Copa América 2007 vào tháng 7, Brasil trở lại nhưng chỉ 3 tháng sau vị trí này đã thuộc về Argentina. Vào tháng 7 năm 2008, Tây Ban Nha tiếp quản vị trí dẫn đầu lần đầu tiên sau khi vô địch Euro 2008. Brasil xếp thứ 6 nhưng đã trở lại dẫn đầu sau chiến thắng tại FIFA Confederations Cup 2009.
Mục đích của bảng xếp hạng[sửa | sửa mã nguồn]
BXH được dùng bởi FIFA để xếp hạng sự phát triển và khả năng của các đội bóng thuộc các quốc gia thành viên, và đòi hỏi họ tạo nên "1 thước đo chính xác để so sánh các đội".[2] Chúng được dùng như một phần kết quả tính toán, hay 1 cơ sở toàn bộ để chọn hạt giống cho các giải đấu. Tại vòng loại World Cup 2010, BXH sẽ được sử dụng để chọn hạt giống cho các bảng trong các vòng loại khu vực thành viên bao gồm CONCACAF [sử dụng BXH tháng 5], CAF [sử dụng BXH tháng 7], và UEFA sử dụng BXH tháng 11 năm 2007.
Ngoài ra BXH này còn dùng để quyết định người đoạt 2 giải thưởng cho các đội bóng quốc gia hàng năm dựa trên cơ sở thành tích trong BXH.
Những sự chỉ trích[sửa | sửa mã nguồn]
Từ khi giới thiệu vào năm 1993, BXH FIFA đã là vấn đề của nhiều cuộc tranh luận, đặc biệt là về cách tính kết quả và những cách biệt thông thường về đẳng cấp và thứ hạng giữa một vài đội bóng. Ví dụ như Na Uy được xếp hạng 2 vào tháng 10 năm 1993 và tháng 7-8 năm 1995,[6] và Mỹ xếp hạng 4 năm 2006, thực sự ngạc nhiên ngay cả với các cầu thủ của chính họ.[7] Tuy nhiên, những sự chỉ trích về BXH không chân thực vẫn tiếp diễn ngay cả sau khi đưa ra công thức tính mới, với việc Israel leo lên hạng 15 vào tháng 11 năm 2008 cũng làm cho báo chí nước này rất bất ngờ,[8][9][10] với việc Israel bỏ lỡ cơ hội lớn để chen chân vào top 10 sau khi thua Latvia tại lượt cuối của vòng loại.[11]
Trước tháng 7 năm 2006, một trong những chỉ trích chính là BXH được tính bởi thành tích của đội bóng trong vòng 8 năm, và vị trí xếp hạng của đội không liên quan gì đến thành tích gần đây của đội.[6][12] Sự chỉ trích này được giảm đôi chút với việc giới thiệu công thức tính mới, kết quả được tính trong 4 năm, giới thiệu vào tháng 7 năm 2006.
Sự thiếu sót được nhận thấy trong hệ thống của FIFA đã bắt đầu cho sự hình thành một số BXH khác từ những nhà thống kê về bóng đá [6] bao gồm Hệ số Elo bóng đá và RSSSF [Tổ chức thống kê nghiệp dư bóng đá thế giới].
Phương pháp tính toán gần đây[sửa | sửa mã nguồn]
Vào ngày 10 tháng 6 năm 2018, hệ thống xếp hạng mới đã được FIFA phê chuẩn. Nó dựa trên hệ thống xếp hạng Elo và sau mỗi trận đấu, điểm sẽ được cộng hoặc trừ vào xếp hạng của đội theo công thức:
Trong đó:
: số điểm của đội trước trận đấu
: hệ số quan trọng, được xác định bởi:
- 5: trận giao hữu diễn ra bên ngoài lịch thi đấu giao hữu quốc tế
- 10: trận giao hữu diễn ra trong lịch thi đấu giao hữu quốc tế
- 15: các trận đấu của giải vô địch bóng đá các quốc gia [vòng bảng]
- 20: các trận đấu của giải vô địch bóng đá các quốc gia [vòng play-off và trận chung kết]
- 25: các trận thuộc vòng loại các giải đấu cấp châu lục, vòng loại FIFA World Cup
- 35: các trận thuộc vòng chung kết các giải đấu cấp châu lục [trước tứ kết]
- 40: các trận thuộc vòng chung kết các giải đấu cấp châu lục [tứ kết và sau đó], các trận đấu của Cúp Liên đoàn các châu lục [FIFA Confederations Cup]
- 50: các trận đấu trước tứ kết của FIFA World Cup
- 60: các trận đấu của FIFA World Cup [tứ kết và sau đó]
: hệ số kết quả trận đấu
- 0: thua trong thời gian thi đấu chính thức hoặc hiệp phụ
- 0,5: hòa hoặc thua trong loạt sút luân lưu
- 0,75: thắng trong loạt sút luân lưu
- 1: giành chiến thắng trong thời gian thi đấu hoặc hiệp phụ
: kết quả mong đợi của trận đấu [hay điểm thưởng, được hiểu là "sức mạnh" chênh lệch giữa hai đội trước trận đấu], được tính bởi công thức
trong đó là chênh lệch điểm số giữa hai đội trước trận đấu.
Điểm tiêu cực trong giai đoạn loại trực tiếp của các giải đấu sẽ không làm ảnh hưởng đến xếp hạng của các đội.
Công thức tính toán giai đoạn 1993-1999[sửa | sửa mã nguồn]
Công thức xếp hạng giai đoạn 1993-1999 rất đơn giản và nhanh chóng trở nên được chú ý đến vì thiếu các nhân tố phụ. Các đội nhận được 3 điểm cho 1 trận thắng và 1 điểm cho 1 trận hòa.
Công thức tính toán giai đoạn 1999-2006[sửa | sửa mã nguồn]
Vào năm 1999, FIFA giới thiệu một hệ thống tính toán được sửa đổi, kết hợp nhiều thay đổi trong sự trả lời những sự chỉ trích về bảng xếp hạng không thích hợp. Để xếp hạng tất cả các trận đấu, số bàn thắng và tính quan trọng của trận đấu được ghi lại, và được sử dụng cho thủ tục tính toán. Chỉ các trận của các đội tuyển quốc gia nam lớn tuổi mới được tính. Các hệ thống xếp hạng riêng rẽ được dùng cho các cấp khác như các đội tuyển nữ và tuyển trẻ, ví dụ như Bảng xếp hạng bóng đá nữ FIFA. Bảng xếp hạng bóng đá nữ đã và đang dựa một hệ thống như là một kiểu của Hệ số Elo bóng đá thế giới.[13]
Giải thưởng[sửa | sửa mã nguồn]
Mỗi năm FIFA trao 2 giải thưởng cho các quốc gia thành viên, dựa vào thành tích trên bảng xếp hạng. Đó là:
Đội bóng của năm[sửa | sửa mã nguồn]
Đội bóng của năm được trao cho đội bóng mà có tổng số điểm nhận được trong 7 trận là tốt nhất. Bảng dưới đây cho biết 3 đội bóng hay nhất của từng năm.
1993 | |||
1994 | |||
1995 | |||
1996 | |||
1997 | |||
1998 | |||
1999 | |||
2000 | |||
2001 | |||
2002 | |||
2003 | |||
2004 | |||
2005 | |||
2006 | |||
2007 | |||
2008 | |||
2009 | |||
2010 | |||
2011 | |||
2012 | |||
2013 | |||
2014 | |||
2015 | |||
2016 | |||
2017 | |||
2018 |
Đội bóng tiến bộ nhất của năm[sửa | sửa mã nguồn]
Đội bóng tiến bộ nhất của năm được trao cho đội bóng mà có sự thăng tiến trên bảng xếp hạng tốt nhất trong năm. Trong bảng xếp hạng FIFA, không đơn giản cho đội bóng nào để có thể vươn lên nhiều nhất, nhưng một công thức tính mới được đưa ra để giải thích các sự thật rằng nó trở nên khó kiếm nhiều điểm mà đội bóng có thể.[2] Công thức được dùng là số điểm có vào cuối năm [z] nhân với số điểm nhận được trong năm [y]. Đội nào có chỉ số cao nhất trong công thức này sẽ nhận giải. Bảng dưới đây cho ta thấy top 3 đội tiến bộ nhất trong từng năm.
Giải này không còn là một giải chính thức kể từ năm 2006.
1993 | |||
1994 | |||
1995 | |||
1996 | |||
1997 | |||
1998 | |||
1999 | |||
2000 | |||
2001 | |||
2002 | |||
2003 | |||
2004 | |||
2005 | |||
2006 |
Trong khi giải thưởng này không còn dùng vì sự thay đổi vào năm 2006, FIFA đã đưa ra một danh sách 'Những đội thăng tiến nhất' trong bảng xếp hạng từ năm 2007.[15]. Công thức tính dựa vào sự thay đổi điểm số trong năm [khác với công thức dùng trong thời gian từ 1993 đến 2006]. Kết quả của các năm sau cũng có cônh thức tính cũng tương tự.
2007 | |||
2008 | |||
2009 | |||
2010 | |||
2011 | |||
2012 | |||
2013 | |||
2014 | |||
2015 | |||
2016 | |||
2017 | |||
2018 |
Lịch trình xếp hạng[sửa | sửa mã nguồn]
Bảng xếp hạng bóng đá được công bố hàng tháng, thường vào ngày thứ Năm. Hạn chót cho các trận đấu để được cân nhắc là ngày thứ Năm trước ngày công bố.[16] Bảng xếp hạng cập nhật ngày 19 tháng 7 năm 2018 đã bị hủy sau khi triển khai phương pháp tính toán mới.
Lịch công bố BXH 202222 tháng 12 |
Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]
- Bảng xếp hạng bóng đá nữ FIFA
- Hệ số Elo bóng đá thế giới
- Tìm hiểu về Bóng đá là gì
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ a b c d e “Bảng xếp hạng FIFA/Coca-Cola thế giới”. FIFA. 6 tháng 10 năm 2022. Truy cập 6 tháng 10 năm 2022.
- ^ a b c “Thủ tục trong Bảng xếp hạng FIFA”. FIFA.com. Fédération Internationale de Football Association. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 4 năm 2020. Truy cập 28 tháng 3 năm 2008.
- ^ “Bảng xếp hạng FIFA sửa lại”. FIFA.com. Fédération Internationale de Football Association. 6 tháng 7 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 12 năm 2008. Truy cập 28 tháng 3 năm 2008.
- ^ “Sự mong đợi to lớn”. FIFA.com. Fédération Internationale de Football Association. 17 tháng 5 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 6 năm 2008. Truy cập 28 tháng 3 năm 2008.
- ^ “Italy, Denmark climb as qualifiers make their mark”. FIFA.com. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2021.
- ^ a b c “Điều khó hiểu trong bảng xếp hạng”. BBC Sport. 21 tháng 12 năm 2000.
- ^ “FIFA sửa lại bảng xếp hạng mới”. AP. 2 tháng 6 năm 2006.
- ^ “Chủ tịch FIFA khen ngợi sự làm việc của IFA”. The Jerusalem Post. 29 tháng 8 năm 2008. Truy cập 13 tháng 2 năm 2009. Blatter cũng được hỏi về vị trí không chính xác của Israel. Mặc dù không có tham gia 1 cuộc thi đấu quan trọng nào trong 38 năm, Israel vẫn được xếp hang 16 thế giới, xếp trên cả một số đội như Hi Lạp, Thụy Điển, Đan Mạch và Anh, vừa mới tụt 2 bậc.
- ^ “Bóng đá: Bảng xếp hạng FIFA chứng kiến Israel leo lên hạng 15 một cách đầy bất ngờ”. The Jerusalem Post. 13 tháng 12 năm 2008. Truy cập 13 tháng 2 năm 2009. Israel tiếp tục thăng tiến trên BXH của FIFA, leo lên hạng 15-vị trí tốt nhất của họ. Điều ngạc nhiên là một đội bóng chưa từng lọt vào bất kì giải đấu lớn nào trong 38 năm qua kể từ World Cup 1970, lại xếp trên một số đội như Hi Lạp [18], Nigeria [22], Thụy Điển [29], Scotland [33], Đan Mạch [34] và CH Ai Len [36].
- ^ “Lời mới nhất: Đã đến lúc giải thoát cho bảng xếp hạng FIFA”. The Jerusalem Post. 14 tháng 11 năm 2008. Truy cập 13 tháng 2 năm 2009. Israel vươn lên hạng 16 trong BXH mới nhất của FIFA, trên cả Mexico [25], Nigeria [22], Mỹ [24] và Colombia [40], chỉ đáp ứng một phần cho tính hiệu quả của BXH.
- ^ “Xem lại bảng xếp hạng FIFA tháng 11 năm 2008 [II]”. Football-Rankings.info. 20 tháng 10 năm 2008. Truy cập 13 tháng 2 năm 2009. Israel sẽ cải thiện [một lần nữa!] vị trí tốt nhất của họ, vượt qua hạng 15. Nếu họ thắng [thay vì hòa] trong trận gặp Latvia, họ sẽ ngang bằng với Nga [hạng 8].
- ^ “FIFA Rankings”. Travour.com. 1 tháng 6 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 6 năm 2006. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2009.
- ^ “Hệ thống xếp hạng bóng đá nữ”. FIFA.com. Fédération Internationale de Football Association. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 1 năm 2009. Truy cập 28 tháng 4 năm 2008.
- ^ Top các đội thăng tiến nhiều nhất trong năm Lưu trữ 2009-03-20 tại Wayback Machine trên website của FIFA[PDF]
- ^ Men's Ranking Procedure Lưu trữ 2018-06-05 tại Wayback Machine on the FIFA website
- ^ “FIFA/Coca-Cola World Ranking”. FIFA.com.
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
- Bảng xếp hạng mới nhất trên FIFA.com [để xem các đội có thứ hạng thấp, chọn các trang từ 2 đến 5] Lưu trữ 2018-12-24 tại Wayback Machine
- Cách tính điểm cho bảng xếp hạng Lưu trữ 2020-04-18 tại Wayback Machine
EA Sports đã xác nhận 100 cầu thủ được đánh giá cao nhất hàng đầu và số liệu thống kê đầy đủ của họ trong FIFA 22 Ultimate Team trước ngày phát hành của trò chơi vào thứ Sáu ngày 1 tháng 10 năm 2021.
Tải video
Video không có sẵn
Xem đoạn giới thiệu tiết lộ cho EA Sports 'FIFA 22
EA Sports hôm nay đã phát hành xếp hạng và số liệu thống kê đầy đủ cho 100 người chơi được đánh giá cao nhất trong FIFA 22, nhưng dường như có một vấn đề với các động tác kỹ năng.
22 cầu thủ được đánh giá cao nhất S trong FIFA 22 đã được EA Sports công bố vào thứ Hai, với siêu sao Paris Saint-Germain Lionel Messi được đánh giá cao nhất với 93 tổng thể, tiếp theo là tiền đạo của Bayern Munich Robert Lewandowski, người được đánh giá ở mức 92.
Tiền đạo của Manchester United Cristiano Ronaldo, Kevin de Bruyne, Kylian Mbappe, Neymar JNR và Jan Oblak đều được đánh giá 91 trong FIFA 22, sau Messi và Lewandowski.
Vào thứ Sáu, EA Sports đã phát hành toàn bộ cơ sở dữ liệu Top 100, chứa các số liệu thống kê đầy đủ cho 100 người chơi hàng đầu, bao gồm các động tác kỹ năng và xếp hạng chân yếu.
Tuy nhiên, mọi người chơi dường như có một động tác kỹ năng sao ít hơn họ nên có, với Messi có kỹ năng ba sao và những người như Neymar, Mbappe và Ronaldo có kỹ năng bốn sao, ít hơn bạn mong đợi.
Đây dường như là một lỗi về phía EA Sports, bởi vì không chắc rằng kỹ năng di chuyển dữ liệu là chính xác trong danh sách.
CẬP NHẬT [16; 44 BST vào thứ Sáu ngày 17 tháng 9]: @easportsfifa hiện đã khắc phục sự cố di chuyển kỹ năng, với cơ sở dữ liệu được cập nhật chính xác hiện đang trực tiếp trên trang web chính thức của EA.
Kiểm tra danh sách đầy đủ của 100 người chơi được đánh giá cao nhất hàng đầu trên FIFA 22 dưới đây.
Xếp hạng FIFA 22 - 100 người chơi được đánh giá cao nhất hàng đầu trong FIFA 22
- Lionel Messi-Paris Saint-Germain-RW-93 được xếp hạng
- Robert Lewandowski - Bayern Munich - ST - 92 được xếp hạng
- Cristiano Ronaldo - Manchester United - ST - 91 được xếp hạng
- Kevin de Bruyne - Thành phố Manchester - CM - 91 được xếp hạng
- Kylian Mbappe-Paris Saint-Germain-ST-91 được xếp hạng
- Neymar JNR-Paris Saint-Germain-LW-91 được xếp hạng
- Jan Oblak - Atletico Madrid - GK - 91 được xếp hạng
- Harry Kane - Tottenham Hotspur - ST - 90 được xếp hạng
- N'Golo Kante - Chelsea - CDM - 90 được xếp hạng
- Manuel Neuer - Bayern Munich - GK - 90 được đánh giá
- Marc-Andre Ter Stegen-Barcelona-GK-90 được xếp hạng
- Mohamed Salah - Liverpool - RW - 89 được xếp hạng
- Gianluigi Donnaruma-Paris Saint-Germain-GK-89 được xếp hạng
- Karim Benzema - Real Madrid - CF - 89 được xếp hạng
- Virgil van Dijk - Liverpool - CB - 89 được xếp hạng
- Joshua Kimmich - Bayern Munich - CDM - 89 được xếp hạng
- Heung-min Son-Tottenham Hotspur-LM-89 được xếp hạng
- Alisson - Liverpool - GK - 89 được xếp hạng
- Thibaut Courtois - Real Madrid - GK - 89 được xếp hạng
- Casemiro - Real Madrid - CDM - 89 được xếp hạng
- Ederson - Thành phố Manchester - GK - 89 được xếp hạng
- Sadio Mane - Liverpool - LW - 89 được xếp hạng
- Luis Suárez - 88 được xếp hạng
- Sergio Ramos - 88 được xếp hạng
- Bruno Fernandes - 88 được xếp hạng
- Romelu Lukaku - 88 được xếp hạng
- Raheem Sterling - 88 được xếp hạng
- Toni Kroos - 88 được xếp hạng
- Erling Haaland - 88 được xếp hạng
- Keylor Navas - 88 được xếp hạng
- Marquinhos - 87 được xếp hạng
- Rúben Dias - 87 được xếp hạng
- Leon Goretzka - 87 được xếp hạng
- Andrew Robertson - 87 được xếp hạng
- Thomas Müller - 87 được xếp hạng
- Sergio Agüero - 87 được xếp hạng
- Paulo Dybala - 87 được xếp hạng
- Luka Modric - 87 được xếp hạng
- Jadon Sancho - 87 được xếp hạng
- Frenkie de Jong - 87 được xếp hạng
- Ángel di maría - 87 được xếp hạng
- Trent Alexander -Arnold - 87 được xếp hạng
- Paul Pogba - 87 được xếp hạng
- Marco Verratti - 87 được xếp hạng
- Wojciech Szczęsny - 87 được xếp hạng
- Ciro bất động - 87 được xếp hạng
- Hugo Lloris - 87 được xếp hạng
- Lorenzo Insigne - 86 được xếp hạng
- Sergio Busquets - 86 được xếp hạng
- João hủy bỏ - 86 được xếp hạng
- Mats Hummels - 86 được xếp hạng
- Fabinho - 86 được xếp hạng
- Riyad Mahrez - 86 được xếp hạng
- Gerard Moreno - 86 được xếp hạng
- Raphaël Varane - 86 được xếp hạng
- Milan Škriniar - 86 được xếp hạng
- Marcos Llorente - 86 được xếp hạng
- Samir Handanovič - 86 được xếp hạng
- Aymeric laporte - 86 được xếp hạng
- Casteels Koen - 86 được xếp hạng
- Parejo - 86 được xếp hạng
- Kalidou Koulibaly - 86 được xếp hạng
- Giorgio Chiellini - 86 được xếp hạng
- Rodri - 86 được xếp hạng
- Jordi Alba - 86 được xếp hạng
- Thiago - 86 được xếp hạng
- Jamie Vardy - 86 được xếp hạng
- Bernardo Silva - 86 được xếp hạng
- Kingsley Coman - 86 được xếp hạng
- Jorginho - 85 được xếp hạng
- Leonardo Bonucci - 85 được xếp hạng
- Antoine Griezmann - 85 được xếp hạng
- Serge Gnabry - 85 được xếp hạng
- Thiago Silva - 85 được xếp hạng
- Memphis Depay - 85 được xếp hạng
- ̇Lkay Gündoğan - 85 được xếp hạng
- Eden Hazard - 85 được xếp hạng
- Stefan de Vrij - 85 được xếp hạng
- David Silva - 85 được đánh giá
- Achraf Hakimi - 85 được xếp hạng
- Marco Reus - 85 được xếp hạng
- Wilfred Ndidi - 85 được xếp hạng
- Lautaro Martínez - 85 được xếp hạng
- Mikel Oyarzabal - 85 được xếp hạng
- Kasper Schmeichel - 85 được xếp hạng
- Sergej Milinković -Savić - 85 được đánh giá
- Pémter Gulácsi - 85 được xếp hạng
- Marcus Rashford - 85 được xếp hạng
- Kyle Walker - 85 được xếp hạng
- Koke - 85 được đánh giá
- Matthijs de Ligt - 85 được xếp hạng
- Alejandro Gómez - 85 được xếp hạng
- Yann Sommer - 85 được xếp hạng
- Edinson Cavani - 85 được xếp hạng
- Pierre -Emerick Aubameyang - 85 được xếp hạng
- Dani Carvajal - 85 được xếp hạng
- Roberto Firmino - 85 được xếp hạng
- David Alaba - 84 được xếp hạng
- Nicolò Barella - 84 được xếp hạng
- Luke Shaw - 84 được xếp hạng
Bạn có thể kiểm tra cơ sở dữ liệu đầy đủ trên trang web chính thức của EA.
FIFA 22 sẽ là trò chơi mới nhất trong nhượng quyền trò chơi video FIFA nổi tiếng của EA, sẽ được phát hành trên toàn thế giới vào thứ Sáu, ngày 1 tháng 10 năm 2021, với trò chơi có sẵn trên Xbox One, PS4, PS5, Xbox Series X, Xbox Series S, Stadia và MÁY TÍNH.
Người hâm mộ FIFA có thể chơi FIFA 22 trước ngày này thông qua truy cập sớm của EA Play, nơi cung cấp thử nghiệm 10 giờ bắt đầu từ thứ Tư, ngày 22 tháng 9 năm 2021, nhưng bạn phải đăng ký EA Play và trả phí hàng tháng để truy cập thử nghiệm.
Người hâm mộ FIFA vẫn có thể sử dụng ứng dụng web và ứng dụng đồng hành để bắt đầu các hành trình nhóm cuối cùng của họ trước khi phát hành chính thức FIFA 22, với ứng dụng web được xác nhận sẽ được phát hành vào ngày 22 tháng 9, trong khi ứng dụng đồng hành sẽ được phát hành vào ngày hôm sau vào tháng 9 23.