1g là gì

1G [the first gerneration]:Đây là thế hệ điện thoại di động đầu tiên của  nhân loại. Đặc trưng của hệ thống 1G là:
- Dung lượng [capacity] thấp
- Kỹ thuật chuyển mạch tương tự [circuit-switched]
- Xác suất rớt cuộc gọi cao
- Khả năng handoff [chuyển cuộc gọi giữa các tế bào] ko tin cậy
- Chất lượng âm thanh rất chuối
- Ko có chế độ bảo mật...
2G [bao gồm GSM và CDMA]
Thế hệ đang được dùng trên thế giới:
- Kỹ thuật chuyển mạch số
- Dung lượng lớn
- Siêu bảo mật [High Security]
- NHiều dịch vụ kèm theo như truyền dữ liệu, fax, SMS [tin nhắn],...
3G [WCDMA]
Xuất hiện đầu tiên ở Japan. Đặc điểm nổi bật so với 2 thế hệ trước:
- Truy cập Internet
- Truyền video
Thế nào là công nghệ 3G?
3G là thuật ngữ dùng để chỉ các hệ thống thông tin di động thế hệ thứ 3  [Third Generation]. Đã có rất nhiều người nhầm lẫn một cách vô ý hoăc  hữu ý giữa hai khái niệm 3G và UMTS [Universal Mobile Telecommunications  Systems].
Để hiểu thế nào là công nghệ 3G, chúng ta hãy xét qua đôi nét về lịch sử  phát triển của các hệ thống điện thoại di động. Mặc dù các hệ thống  thông tin di động thử nghiệm đầu tiên đựơc sử dụng vào những năm  1930-1940 trong trong các sở cảnh sát Hoa Kỳ nhưng các hệ thống điện  thoại di động thương mại thực sự chỉ ra đời vào khoảng cuối những năm  1970 đầu những năm 1980. Các hệ thống điện thoại thế hệ đầu sử dụng công  nghệ tương tự và người ta gọi các hệ thống điện thoại kể trên là các hệ  thống 1G.
Khi số lượng các thuê bao trong mạng tăng lên, người ta thấy cần phải có  biện pháp nâng cao dung lượng của mạng, chất lượng các cuộc đàm thoại  cũng như cung cấp thêm một số dịch vụ bổ sung cho mạng. Để giải quyết  vấn đề này người ta đã nghĩ đến việc số hoá các hệ thống điện thoại di  động, và điều này dẫn tới sự ra đời của các hệ thống điện thoại di động  thế hệ 2.
Ở châu Âu, vào năm 1982 tổ chức các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông châu  Âu [CEPT  Conférence Européene de Postes et Telécommunications] đã  thống nhất thành lập một nhóm nghiên cứu đặc biệt gọi là Groupe Spéciale  Mobile [GSM] có nhiệm vụ xây dựng bộ các chỉ tiêu kỹ thuật cho mạng  điện thoại di động toàn châu Âu hoạt động ở dải tần 900 MHz. Nhóm nghiên  cứu đã xem xét nhiều giải pháp khác nhau và cuối cùng đi đến thống nhất  sử dụng kỹ thuật đa truy nhập phân chia theo mã băng hẹp [Narrow Band  TDMA]. Năm 1988 phiên bản dự thảo đầu tiên của GSM đã được hoàn thành và  hệ thống GSM đầu tiên được triển khai vào khoảng năm 1991. Kể từ khi ra  đời, các hệ thống thông tin di động GSM đã phát triển với một tốc độ  hết sức nhanh chóng, có mặt ở 140 quốc gia và có số thuê bao lên tới gần  1 tỷ. Lúc này thuật ngữ GSM có một ý nghĩa mới đó là hệ thống thông tin  di động toàn cầu [Global System Mobile].
Cũng trong thời gian kể trên, ở Mỹ các hệ thống điện thoại tương tự thế  hệ thứ nhất AMPS được phát triển thành các hệ thống điện thoại di động  số thế hệ 2 tuân thủ tiêu chuẩn của hiệp hội viễn thông Mỹ IS-136. Khi  công nghệ CDMA [Code Division Multiple Access  IS-95] ra đời, các nhà  cung cấp dịch vụ điện thoại di động ở Mỹ cung cấp dịch vụ mode song  song, cho phép thuê bao có thể truy cập vào cả hai mạng IS-136 và IS-95.
Công nghệ 3G
Do có nhận thức rõ về tầm quan trọng của các hệ thống thông tin di động  mà ở châu Âu, ngay khi quá trình tiêu chuẩn hoá GSM chưa kết thúc người  ta đã tiến hành dự án nghiên cứu RACE 1043 với mục đích chính là xác  định các dịch vụ và công nghệ cho hệ thống thông tin di động thế hệ thứ 3  cho năm 2000. Hệ thống 3G của châu Âu được gọi là UMTS. Những người  thực hiện dự án mong muốn rằng hệ thống UMTS trong tương lai sẽ được  phát triển từ các hệ thống GSM hiện tại. Ngoài ra người ta còn có một  mong muốn rất lớn là hệ thống UMTS sẽ có khả năng kết hợp nhiều mạng  khác nhau như PMR, MSS, WLAN thành một mạng thống nhất có khả năng hỗ  trợ các dịch vụ số liệu tốc độ cao và quan trọng hơn đây sẽ là một mạng  hướng dịch vụ.
Song song với châu Âu, Liên minh Viễn thông Quốc tế [ITU  International  Telecommunications Union] cũng đã thành lập một nhóm nghiên cứu để  nghiên cứu về các hệ thống thông tin di động thế hệ 3, nhóm nghiên cứu  TG8/1. Nhóm nghiên cứu đặt tên cho hệ thống thông tin di động thế hệ thứ  3 của mình là Hệ thống Thông tin Di động Mặt đất Tương lai [FPLMTS   Future Public Land Mobile Telecommunications System]. Sau này, nhóm  nghiên cứu đổi tên hệ thống thông tin di động của mình thành Hệ thống  Thông tin Di động Toàn cầu cho năm 2000 [IMT-2000  International Mobile  Telecommunications for the year 2000].
Đương nhiên là các nhà phát triển UMTS [châu Âu] mong muốn ITU chấp nhận  hệ thống chấp nhận toàn bộ những đề xuất của mình và sử dụng hệ thống  UMTS làm cơ sở cho hệ thống IMT-2000. Tuy nhiên vấn đề không phải đơn  giản như vậy, đã có tới 16 đề xuất cho hệ thống thông tin di động  IMT-2000 [bao gồm 10 đề xuất cho các hệ thống mặt đất và 6 đề xuất cho  các hệ thống vệ tinh]. Dựa trên đặc điểm của các đề xuất, ITU đã phân  các đề xuất thành 5 nhóm chính:
- IMT DS [trải phổ dãy trực tiếp]. Người ta thường gọi các hệ thống này  là UTRA FDD và WCDMA. Trong đó UTRA là từ viết tắt của UMTS Terrestrial  Radio Access.
- IMT MC [nhiều sóng mang]. Đây là phiên bản 3G của hệ thống IS-95 [hiện  nay gọi là cdmaOne]
- IMT TC [mã thời gian]. Về thực chất đây là UTRA TDD, nghĩa là hệ thống  UTRA sử dụng phương pháp song công phân chia theo thời gian.
- IMT SC [một sóng mang]. Các hệ thống thuộc nhóm này được phát triển từ  các hệ thống GSM hiện có lên GSM 2+ [được gọi là EDGE].
- IMT FT [thời gian tần số]. Đây là hệ thống các thiết bị kéo dài thuê  bao số ở châu Âu.
Công nghệ 3G nào cho Việt Nam?
Như tôi đã trình bày ở trên, hiện nay trên thế giới có tới 5 nhóm công  nghệ được đề xuất cho các hệ thống thông tin di động thế hệ thứ 3 vậy  con đường nào là hợp lý cho Việt Nam? Để trả lời câu hỏi này chúng ta  cần phải xem xét đến 2 khía cạnh, đó là hiện trạng mạng viễn thông Việt  Nam và xu thế phát triển công nghệ của thế giới.
Hiện tại Việt Nam có 3 công ty cung cấp dịch vụ thông tin di động  đã/chuẩn bị hoạt động. Đó là công ty VMS [GSM], VinaPhone [GSM] và  Saigon Postel [cdmaOne]. Tổng số thuê bao của hai nhà cung cấp dịch vụ  GSM khoảng hơn 1 triệu [rất khó tính chính xác con số này bởi vì hiện  tại có tới 70% số thuê bao sử dụng dịch vụ trả tiền trước].
Hầu hết các trạm gốc đều sử dụng dải tần 900 MHz. Saigon Postel sẽ cung  cấp dịch vụ thông tin di động CDMA vào tháng 7 [số thuê bao hiện tại =  0]. Để tiến tới mạng 3G từ mạng GSM thì con đường hợp lý nhất, theo hầu  hết các nhà phân tích là từ GSM -> GPRS -> WCDMA. Theo như quảng  cáo của hầu hết các nhà cung cấp giải pháp viễn thông thì đây là con  đường hiệu quả nhất vì nó cho phép tận dụng tối đa cơ sở hạ tầng của  mạng hiện có. Nhưng theo quan điểm của cá nhân tôi thì để thực hiện bước  chuyển đổi như vậy là rất tốn kém và lãng phí. Xin lấy ví dụ, khi tiến  hành chuyển đổi từ GSM sang GPRS thì cần phải nâng cấp toàn bộ phần giao  diện vô tuyến, các khối điều khiển truy nhập và lắp đặt thêm các khối  hỗ trợ dịch vụ chuyển mạch gói trong mạng [ví dụ GGSN, SGSN].
Tương tự như vậy khi chuyển đổi từ GPRS sang WCDMA ta lại phải tiến hành  một bước nâng cấp và  vứt bỏ. Bản thân tôi cũng đã được tham dự khá  nhiều hội thảo về tiến trình chuyển đổi lên 3G. Tôi rất thích một câu  nói của một nhà cung cấp dịch vụ [người trình bày hội thảo]: Tiến trình  chuyển đổi [GSM->WCDMA] chẳng qua chỉ là cách vẽ trên sơ đồ mà thôi.  Còn về thực chất cái mà bạn có thể tận dụng được chẳng qua chỉ là cái  nhà chứa thiết bị mà thôi.
Do CDMA có rất nhiều ưu điểm so với các phương thức đa truy nhập khác  như hiệu suất sử dụng phổ tần cao, có khả năng chuyển giao mềm, đơn giản  hoá việc phân chia và quản lý tần số nên dù ở châu Âu hay châu Mỹ  người ta cũng đều ngầm hiểu với nhau rằng mạng 3G trong tương lai sẽ là  mạng sử dụng công nghệ CDMA. Những mạng sử dụng công nghệ CDMA hiện tại  [ví dụ mạng của Saigon Postel] sẽ có khả năng chuyển đổi dễ dàng sang  mạng 3G hơn. Con đường là cdmaOne ->cdma2000 1X ->cdma2000 3X.  hoặc cdma2000 RTT1X ->cdma2000RTT3X. Việc chuyển đổi cho phép tận  dụng hầu như toàn bộ các thiết bị sẵn có của mạng mà không cần phải nâng  cấp, lắp đặt thêm nhiều khối chức năng như đối với các hệ thống GSM.
Như vậy, đối với các nhà cung cấp dịch vụ thông tin di động CDMA như  Saigon Postel thì chắc chắn họ sẽ chọn con đường cdmaOne->cdma2000 1x  ->cdma2000 3x hoặc cdmaOne ->cdma2000 3x.
Còn đối với VNPT [nhà cung cấp dịch vụ viễn thông lớn nhất Việt Nam thì  sao?. Có hai lựa chọn cho họ. Thứ nhất, phát triển mạng GSM hiện tại lên  GPRS rồi lên WCDMA -> Cách này tương đối tốn kém. Cách thứ 2: hiện  tại mạng GSM mới chỉ dùng các băng tần 900 MHz và số lượng các thuê bao  chưa phải là rất lớn, có thể triển khai song song dịch vụ CDMA ở dải tần  1800 MHz - 1900 MHz. Cùng với thời gian, mạng này sẽ nở dần ra và cung  cấp các dịch vụ 3G trong tương lai. Đề xuất cụ thể: triển khai ngay mạng  CDMA sử dung công nghệ cdma2000 1X [2.5G].
Các nhà cung cấp dịch vụ VNPT sẽ chọn con đường nào?
Từ xưa đến nay có một nguyên tắc quan trọng nhất trong việc điều hành  công việc ở Việt Nam, đó là nguyên tắc ổn định là trên hết. Với tâm lý  trên thì dường như các nhà lãnh đạo VNPT thiên về giải pháp an toàn tức  là phát triển mạng 3G từ mạng GSM hiện tại và tất nhiên con đường đi sẽ  là GSM ->GPRS->WCDMA. Với cách đi này thì khả năng đổ vỡ sẽ thấp  nhưng hiệu quả đương nhiên cũng sẽ không cao. Nhưng không ai lai muốn bị  cắt chức như tổng giam đốc Vietxo Petro.
Khi nào triển khai công nghệ 3G là hợp lý?
Một lần nữa vấn đề chính sách lại được đặt ra. Hiện tại, giá cước viễn  thông Viêt Nam do Bộ Bưu chính Viễn thông quy định. Giá cước như hiện  nay là quá cao so với hầu hết các nước trong khu vực cũng như là quá cao  so với chi phí sản xuất thực tế bỏ ra. Nếu triển khai dịch 3G thì mức  giá chắc chắn sẽ phải cao hơn giá các dịch vụ 2G hiện tại và như thế là  quá cao so với mức thu nhập của người Việt Nam. Theo một số tài liệu mà  tôi có thì hiện nay nêu triển khai dịch vụ 3G, chỉ cần thu mỗi thuê bao  tối thiểu từ $15-$20 là nhà cung cấp dịch vụ đã có lãi, vấn đề là cần có  cơ chế hợp lý [tự do hoá thì tốt quá]. Ngoài ra, vấn đề về nội dung  dịch vụ cũng không kém phần quan trọng. Ở Nhật Bản, khi triển khai dịch  vụ iMode [dịch vụ sử dụng màn hình màu cho phép người sử dụng truy cập  vào các trang Web đặc biệt cung cấp các thông tin về thời tiết, giao  thông] chỉ sau 1 năm triển khai người ta đã thu hút được tới 13 triệu  thuê bao. Dịch vụ 3G là dịch vụ gắn liền với các dịch vụ số liệu, đặc  biệt là Internet vì vậy vấn đề phát triển nội dung là vấn đề hết sức  quan trọng [chẳng hạn Việt hoá các trang Web, cung cấp thêm nhiều thông  tin]. Bên cạnh đó còn có một yếu tố hết sức quan trọng nữa quyết định  đến sự thành công của việc triển khai, đó là nâng cao nhận thức của  người sử dụng. Có một thực trạng đáng buồn trong xã hội Việt Nam, đó là  thực trạng sợ công nghệ cao, điều này đặc biệt xảy ra ở lớp những người  cao tuổi [nhưng đây chính là những người nhiều tiền, có khả năng chi trả  cho dịch vụ 3G]. Để việc triển khai dịch vụ thành công thì cần phải có  chiến lược marketing thích hợp, nâng cao nhận thức của người sử dụng đối  với các dịch vụ công nghệ cao, làm cho họ thấy được 3G chỉ mang đến cho  họ sự thuận tiện chứ không phải phiền toái.
Quý III/2009: Việt Nam sẽ chính thức có dịch vụ 3G đầu tiên
Theo cam kết trong hồ sơ thi tuyển, hai mạng di động của Tập đoàn Bưu  chính Viễn thông Việt Nam VNPT là VinaPhone và MobiFone sẽ cung cấp dịch  vụ 3G sớm nhất. Đặc biệt, VinaPhone sẽ là mạng đầu tiên cung cấp dịch  vụ, vào đầu quý 3/2009.
Phó Giám đốc VinaPhone, ông Hoàng Trung Hải cho biết, Ban đầu VinaPhone  sẽ cung cấp dịch vụ này tại những thị trường lớn như Hà Nội, Đà Nẵng,  TP.HCM... sau đó mới mở rộng ra các tỉnh. Hiện chúng tôi đang dốc toàn  lực phát triển mạng lưới 3G để có thể cung cấp dịch vụ này sớm nhất.
Còn mạng di động MobiFone sẽ phủ sóng 100% đô thị đông dân thuộc 63  tỉnh, thành phố trên toàn quốc sau 3 tháng kể từ ngày chính thức nhận  giấy phép. Dự kiến vào thời điểm chính thức cung cấp, MobiFone sẽ hoàn  thành lắp đặt và phát sóng 2.400 trạm BTS 3G và trong vòng 3 năm sẽ hoàn  thành lắp đặt khoảng 7.700 trạm.
Ông Đỗ Vũ Anh - Giám dốc MobiFone cho biết, 3G là băng rộng còn 2G là  băng hẹp. Khách hàng 3G của MobiFone sẽ được sử dụng các dịch vụ gia  tăng đòi hỏi tốc đọ truy cập cao một cách dễ dàng, điều mà trước đây họ  chỉ có thể làm được trên máy tính. Hiện giờ, nhà mạng này cũng đang có  kế hoạch phối hợp với những nhà cung cấp thiết bị đầu cuối với kỳ vọng  cung cấp tới người dùng những dịch vụ, sản phẩm 3G trọn gói với chất  lượng tốt nhất.
Muộn hơn cả là Viettel và Liên danh EVN Telecom - HaNoi Telecom, dự kiến  sẽ cung cấp dịch vụ sau 9 tháng nhận giấy phép, tương với khoảng giữa  năm 2010.

[b]Gần đây, đâu cũng nói về 3G cùng những dế thông minh. Thế nhưng, bản chất của công nghệ 3G, hay những công nghệ tiền... Xem thêm Nếu máy khách hàng hỗ trợ 3G và đang được thiết lập chế độ Dual Mode, tùy chất lượng sóng tại từng thời điểm mà máy... Xem thêm Máy đầu cuối của khách hàng hiện lên chữ 3G/3,5G hay H trên cột sóng phía trên màn hình [thường là ở góc bên trái] Xem thêm

Về sóng thì mình thấy Vietel có lẽ là ổn nhất, còn giá cả thì Mobi thấy  hợp lý hơn.

......Khỏi nói nhiều, về sóng nhanh và ổn định thì viettel đứng nhất, sau đó là vinaphone, cuối cùng là con rùa mobi... Xem thêm E960: Giá 1.630.000 VNĐ + 1 SIM 3G KM Chuyên dụngThu nhat la pan phai cai dat 3G cho sim da.soan tin 3G dau cach ON gui 161.sau do vao phan chon mang chon UMTS.vay la... Xem thêm 3G hay 4G có nghĩa là gì? Đây  là từ mà chúng ta nghe hàng ngày trên các kênh thông tin, truyền hình,  quảng... Xem thêm 3G hay 4G có nghĩa là gì? Đây  là từ mà chúng ta nghe hàng ngày trên các kênh thông tin, truyền hình,  quảng... Xem thêm

Video liên quan

Chủ Đề