Bài thu hoạch học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách hồ chí minh

Bài thu hoạch chuyên đề năm 2022 tư tưởng Hồ Chí Minh

  • Bài thu hoạch chuyên đề năm 2022
  • Chuyên đề năm 2021: Ý chí tự lực tự cường khát vọng phát triển đất nước
    • Về ý chí tự lực, tự cường
    • Về khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
  • Bài thu hoạch 2021 về ý chí tự lực tự cường khát vọng phát triển đất nước
  • Bài thu hoạch ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
  • Bài thu hoạch chuyên đề năm 2020 - Mẫu 1
  • Bài thu hoạch chuyên đề năm 2020 - Mẫu 2
  • Bài thu hoạch chuyên đề năm 2020 - Mẫu 3
  • Nội dung chuyên đề năm 2020

Show

Bài thu hoạch Tìm hiểu tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh 2021

  • Bài thu hoạch Cuộc thi “Tìm hiểu tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” năm 2021
  • Câu hỏi tham khảo dự thi “Tìm hiểu tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” năm 2021

Bài thu hoạch Cuộc thi “Tìm hiểu tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” năm 2021

Câu 1: Trình bày tóm tắt những nội dung cơ bản về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh?

Chủ tịch Hồ Chí Minh là anh hùng dân tộc vĩ đại, lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc Việt Nam, nhà văn hoá kiệt xuất, chiến sĩ cộng sản quốc tế lỗi lạc. Công lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh với dân tộc ta như non cao, biển rộng. Người gắn bó và hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta và dân tộc ta; hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân cho đến hơi thở cuối cùng. Người không chỉ đấu tranh, mưu cầu cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, mà còn để lại cho các thế hệ mai sau một di sản tinh thần vô cùng quý báu, đó là tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Trên con đường phát triển đi lên của đất nước từ ngày có Đảng càng khẳng định, tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi là ngọn đuốc soi đường trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Bộ Chính trị khóa X ban hành Chỉ thị số 06, ngày 7-11- 2006 về tổ chức Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; Bộ Chính trị khóa XI ban hành Chỉ thị 03, ngày 14-5-2011 về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Việc triển khai thực hiện các chỉ thị nêu trên đã đạt những kết quả bước đầu quan trọng. 5 năm qua, các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị đã ban hành đồng bộ hệ thống văn bản cụ thể hóa Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị cho thấy sự vào cuộc đồng bộ, kịp thời, nghiêm túc của cả hệ thống chính trị một cách hiệu quả. Việc học tập, nghiên cứu các chuyên đề đã nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Việc xây dựng, bổ sung, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức mở rộng thêm nội dung, gắn với tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; bám sát hơn những điều kiện thực tế, đặc điểm, nhiệm vụ của địa phương cơ quan, đơn vị, phù hợp với từng đối tượng, vị trí công tác, tạo chuyển biến bước đầu về tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Quá trình thực hiện Chỉ thị số 03 góp phần quan trọng vào kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" và việc thực hiện nhiệm vụ chính trị ở các đơn vị, địa phương; nhiều vấn đề nổi cộm, bức xúc, tồn đọng, yếu kém kéo dài ở cơ sở được giải quyết. Song, vẫn còn không ít cán bộ, đảng viên, có cả cán bộ chủ chốt ở các cấp, các ngành nhận thức chưa đầy đủ, sâu sắc về ý nghĩa, tầm quan trọng, mục đích, yêu cầu của Chỉ thị 03 đối với công tác xây dựng Đảng. Ở nhiều nơi, việc thực hiện Chỉ thị chưa trở thành việc làm thường xuyên, tự giác; kết quả thực hiện còn hạn chế. Tình trạng tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng với biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn,...

Nhằm tiếp tục nâng cao nhận thức ngày càng sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, ngày 15-5-2016, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 05-CT/TW về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Một lần nữa, Bộ Chính trị tiếp tục khẳng định đây là chủ trương lớn của Đảng ta, vừa mang tính cấp bách, vừa có ý nghĩa lâu dài.

Học tập và nghiên cứu nội dung Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị, bản thân tôi nhận thức và quán triệt được về tư tưởng, đạo đức và phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là:

1. Về tư tưởng Hồ Chí Minh:

Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, được thể hiện 9 vấn đề lớn, đó là: Về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; Về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; Về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; Về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng đất nước thật sự của dân, do dân và vì dân; Về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; Về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; Về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; Về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; Về xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã soi đường cho cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng giành được thắng lợi này đến thắng lợi khác, là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và dân tộc ta.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của những năm bôn ba, lăn lộn trong hoạt động thực tiễn, nghiên cứu, học tập, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Từ đó, Hồ Chí Minh đã có những sáng tạo lớn, đặc sắc về lý luận, hiện thực hoá, làm phong phú, giàu có Chủ nghĩa Mác - Lênin.

Tư tưởng Hồ Chí Minh đã đang soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta. Tiếp cận tư tưởng Hồ Chí Minh với tư cách là một hệ thống tri thức tổng hợp với các chuyên ngành Khoa học xã hội và nhân văn, theo tinh thần Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị, cần tập trung đẩy mạnh học tập và làm theo các nội dung cốt yếu nhất, gắn liền với những nội dung cơ bản của công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh theo tinh thần nghị quyết Đại hội XII của Đảng như: (1) Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiến tạo một xã hội vì con người và các giá trị làm người; (2) Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao đời sống nhân dân; (3) Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, xây dựng hệ thống chính trị ở Việt Nam, hình thành một Chính phủ kiến tạo, liêm khiết, quản trị tốt và giải trình trách nhiệm trước nhân dân; (4) Tư tưởng Hồ Chí Minh về hệ thống chính sách xã hội trong điều kiện Việt Nam; (5) Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá con người Việt Nam; (6) Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hội nhập và hợp tác quốc tế.

Đặc biệt, cần chú trọng nắm bắt cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh: Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; độc lập, tự do, hạnh phúc. Đây chính là giá trị nền móng phát triển bền vững, có khả năng giải quyết được những nhiệm vụ thực tiễn của cách mạng Việt Nam.

Giá trị bền vững của tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá, mãi mãi soi đường cho cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội của nhân dân Việt Nam giành thắng lợi.

2. Về đạo đức Hồ Chí Minh:

Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức mới, đạo đức cách mạng, với những phẩm chất tiêu biểu là: tuyệt đối trung thành, kiên định lý tưởng cách mạng, đặt lợi ích của Đảng, của đất nước, dân tộc lên trên tất cả; hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phụng sự nhân dân, tận trung với nước, tận hiếu với dân; hết lòng yêu thương đồng bào, đồng chí, yêu thương con người; cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư, thật sự là công bộc của nhân dân, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội,...; là sự kết hợp đạo đức truyền thống của dân tộc với tinh hoa đạo đức của nhân loại, giữa phương Đông với phương Tây, được hình thành và phát triển từ yêu cầu của sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh là hiện thân của sự hoàn thiện, hoàn mỹ về đạo đức.

Đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu và xuyên suốt toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh. Người không chỉ để lại những tác phẩm lý luận về đạo đức, mà còn là hiện thân mẫu mực của những hành vi đạo đức. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, những giá trị của tư tưởng đạo đức phương Đông và phương Tây, đặc biệt quan trọng là những tư tưởng đạo đức của chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh đã thực sự làm một cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức ở Việt Nam. Trong đó, theo Người đạo đức là gốc, là nguồn, là nền tảng, biểu hiện tập trung thông qua ba mối quan hệ: đối với mình, đối với người và đối với công việc. Đức là gốc, những đức và tài phải kết hợp, phải đi đôi với nhau; người cách mạng phải có cả đức và tài mới hoàn thành được trọng trách Đảng và nhân dân giao cho.

Cuộc đời Hồ Chí Minh là một biểu tượng trong sáng, cao đẹp về chí khí cách mạng kiên cường, tinh thần độc lập tự chủ, lòng yêu nước, yêu nhân dân tha thiết, đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, tác phong khiêm tốn, giản dị. Người để lại cho chúng ta một tấm gương sáng, về lòng nhân hậu, một tình cảm chan chứa yêu thương, vì nước, vì dân, vì Đảng; một trí tuệ anh minh, mẫn tiệp; một tầm nhìn xa rộng, sâu sắc; một mẫu mực tuyệt vời về phong cách tư duy, phong cách diễn đạt, phong cách làm việc; phong cách ứng xử và phong cách sinh hoạt; sự nhất quán giữa tư tưởng và hành động, giữa nói và làm:

3. Về phong cách Hồ Chí Minh:

Phong cách Hồ Chí Minh, phản ánh những giá trị cốt lõi trong tư tưởng, đạo đức của Người và được thể hiện vô cùng sinh động, tự nhiên, độc đáo, có sức thu hút, cảm hóa kỳ diệu trong hoạt động, ứng xử hằng ngày: phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, luôn gắn chặt lý luận với thực tiễn; phong cách làm việc dân chủ, khoa học, kỹ lưỡng, cụ thể, tới nơi, tới chốn; phong cách ứng xử văn hóa, tinh tế, đầy tính nhân văn, thấm đậm tinh thần yêu dân, trọng dân, vì dân; phong cách nói đi đôi với làm, đi vào lòng người; nói và viết ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm; phong cách sống thanh cao, trong sạch, giản dị; phong cách quần chúng, dân chủ, tự mình nêu gương,...

Đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một tấm gương vô cùng trong sáng và cao thượng, kết tinh của tinh hoa văn hoá Việt Nam. Người không chỉ là một nhà tư tưởng lỗi lạc về văn hoá, sáng tạo ra một nền văn hoá mới, văn hoá cách mạng Việt Nam, kiến tạo ra một thời đại mới trong lịch sử phát triển của văn hoá dân tộc, mà chính bản thân Người, cuộc sống của Người, những việc làm bình thường hằng ngày của Người là hiện thân của nền văn hoá Việt Nam, là mẫu mực của con người Việt Nam. Tư tưởng, tâm hồn, cốt cách của Người là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, kết tinh những giá trị văn hoá phương Đông và phương Tây, truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế.

Như vậy, so với các Chỉ thị trước đây của Bộ Chính trị, Chỉ thị 05 có nội dung rộng lớn và phong phú hơn, yêu cầu cao hơn, không chỉ học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, mà còn bao hàm cả nội dung tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Việc học tập và làm theo Người là rất quan trọng và cần thiết, chẳng những đáp ứng yêu cầu cấp bách trước mắt mà còn có ý nghĩa cơ bản, lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Chỉ thị khẳng định: “Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện "tự diễn biến”, "tự chuyển hóa" trong nội bộ, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu”.

Câu 2: Đồng chí hãy phân tích những nội dung cơ bản của xây dựng phong cách làm việc của cán bộ đảng viên theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh? Liên hệ thực tế việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh của bản thân, cơ quan, đơn vị. Đề xuất giải pháp trong việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại cơ quan, đơn vị?

a/ Xây dựng phong cách làm việc của cán bộ đảng viên theo tư tưởng đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh

- Phong cách Hồ Chí Minh được thể hiện trong mọi lĩnh vực sống và hoạt động của Người, tạo thành một chỉnh thể nhất quán, có giá trị khoa học, đạo đức và thẩm mỹ, bao gồm một số nội dung chính là: phong cách tư duy, phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo, phong cách diễn đạt, phong cách ứng xử và phong cách sinh hoạt.

- Phong cách làm việc dân chủ đó là phải tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; Đi đúng đường lối quần chúng,“lắng nghe ý kiến của đảng viên, của nhân dân, của những người “không quan trọng”;Tổ chức việc kiểm tra, kiểm soát cho tốt và Nêu gương.
chính là làm việc khoa học; làm việc có kế hoạch; làm việc đúng giờ; đổi mới, sáng tạo, không chấp nhận lối cũ, đường mòn.

- Phong cách làm việc quần chúng: khiêm tốn, nhã nhặn, lịch thiệp; Chân tình, nồng hậu, tự nhiên; Linh hoạt, vui vẻ, hòa nhã, xóa nhòa mọi khoảng cách. Đối với nhân dân, bạn bè, đồng chí, anh em thì tự nhiên, bình dị, cởi mở, chân tình, vừa chủ động linh hoạt lại vừa ân cần, tế nhị, bình dị, tự nhiên đến mức hồn nhiên, làm cho bất cứ ai được gặp Người đều thấy không khí chan hòa, ấm cúng, thoải mái, không cảm thấy sự cách biệt giữa lãnh tụ và quần chúng.

- Phong cách làm việc khoa học không ngừng trau dồi về chuyên môn nghiệp vụ để ngày càng làm tốt hơn nhiệm vụ được giao. Tích cực tham gia các cuộc vận động học tập và làm theo gương Bác. Hoàn thành tốt nhiệm vụ của Đảng, Đoàn giao phó. Bản thân luôn đặt mình trong tổ chức, trong tập thể, phải tôn trọng kỷ luật nhà trường, không trục lợi cá nhân, dù ở bất cứ cương vị nào cũng luôn gần gũi với mọi người, học tập những người xung quanh để ngày một tiến bộ

- Phong cách nêu gương, nói đi đôi với làm : luôn có tinh thần xây dựng một tập thể đoàn kết, biết cộng đồng trách nhiệm, biết yêu thương giúp đỡ nhau thì chắc chắn tập thể đó sẽ vững mạnh và sẽ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

b/ Liên hệ với bản thân: Là một đảng viên, giáo viên với nhiệm vụ giảng dạy được nhà trường phân công, tôi nhận thấy cần phải gắn việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào những việc làm cơ bản sau:

* Về tư tưởng chính trị:

- Tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng;

- Tin tưởng và kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;

- Chấp hành tốt mọi chủ chương đường lối, quan điểm, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;

- Tích cực đấu tranh với các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, phai nhạt lý tưởng; bảo vệ lẽ phải, bảo vệ người tốt;

- Gương mẫu thực hiện và có ý thức tuyên truyền, vận động gia đình và nhân dân thực hiện theo đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;

- Bản thân luôn tích cực tìm hiểu, nghiên cứu tài liệu để tự học; tham gia đầy đủ các lớp tập huấn, bồi dưỡng do nhà trường và cấp trên tổ chức, có ý thức học hỏi bạn bè đồng nghiệp để không ngừng nâng cao trình độ lý luận chuyên môn, nghiệp vụ và năng lực công tác.

* Về phẩm chất đạo đức, lối sống:

- Thực hiện tốt “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, có tinh thần hợp tác, giúp đỡ đồng chí, đồng nghiệp;

- Thực hành tiết kiệm, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu; tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, nói không đi đôi với làm, lợi dụng chức vụ để thu vén lợi ích cho bản thân và gia đình;

- Bản thân luôn giữ gìn tư cách, phẩm chất đạo đức cách mạng và tính tiền phong, gương mẫu của người đảng viên; thực hiện tốt các Quy định của Ban chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm;

- Bản thân luôn nêu cao ý thức trách nhiệm và tinh thần phục nhân dân; giải quyết tốt các đề xuất, kiến nghị về quyền và lợi ích chính đáng của đảng viên và quần chúng trong đơn vị tổ; tích cực đấu tranh với các biểu hiện vô cảm, quan liêu, hách dịch, nhũng nhiễu, gây phiền hà đối với nhân dân

- Có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, thẳng thắn, sống sống đoàn kết tập thể, hoà nhã, gần gũi với bạn bè đồng nghiệp và nhân dân nơi cư trú. Quan hệ mật thiết với nhân dân. Tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở;

- Có ý thức trong tự phê bình và phê bình; biết tôn trọng và lắng nghe ý kiến của người khác; tích cực đấu tranh với những biểu hiện chia rẽ, bè .

c/ Đề xuất những giải pháp, ý tưởng:

Để xây dựng được mối đoàn kết nội bộ theo tôi chúng ta cần Đặt lợi ích tập thể lên đầu. Sự đoàn kết, thoải mái trong tư tưởng sẽ khiến con người ta nhiệt tình và yêu mến công việc hơn.

Ngay từ đầu năm học mỗi đoàn thể phải xây dựng cho mình kế hoạch làm việc của năm và phân định công việc cụ thể cho từng tháng, từng kì. Việc xây dựng kế hoạch phải sát với tình hình thực tế, không qua loa, đại khái hay chung chung, có sự phân định trách nhiệm công việc rõ ràng, phân đúng người, đúng việc dựa theo khả năng, sở trường của mỗi người như vậy hiệu quả công việc sẽ cao. Sự rạch ròi trong công việc sẽ khiến mỗi người có trách nhiệm hơn trong công việc của mình, tránh được tình trạng đổ lỗi cho nhau. Dù cá nhân hay tập thể đều phải biết lắng nghe ý kiến đóng góp để tìm ra cái đúng, cái hay mà sửa chữa để hoàn thiện mình.

Mỗi đảng viên chúng ta rất cần thấm nhuần và học theo những phong cách trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chỉ cần một lời chào chân tình, một nụ cười niềm nở, một cử chỉ vượt ngoài quy cách thông thường, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xóa bỏ mọi cách biệt về chức vụ, địa vị, giữa cấp trên cấp dưới, giữa lãnh tụ với nhân dân; đem đến cho mọi người ý thức về sự bình đẳng hoàn toàn. Mỗi chúng ta ai ai cũng cần học bác những đức tính tốt đẹp ấy trong cơ quan đơn vị cũng như với anh em người thân, bà con lối xóm…

Người luôn luôn thể hiện thái độ yêu thương, quý mến, trân trọng, khoan dung, khiêm nhường, độ lượng với con người. Chính vì vậy mà sức cuốn hút, cảm hóa, cảm phục, ngưỡng mộ và thôi thúc mọi người hướng tới cái chân, thiện, mỹ trong cuộc sống và công tác. Cách ứng xử không chỉ dừng lại ở tình thương yêu và sự quan tâm Người dành cho các đối tượng trong giao tiếp, mà nó còn thể hiện thông qua sự nêu gương của Người. Sinh thời, khi nước nhà vừa giành được độc lập năm 1945, đứng trước nạn đói , Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân diệt “giặc đói” bằng một hành động cụ thể, mười ngày nhịn ăn một bữa để lấy số gạo đó cứu những người bị đói và chính Người đã gương mẫu nghiêm túc thực hiện.

Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta, đã hiến dâng tất cả tình cảm, trí tuệ và cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Người đã để lại tài sản vô giá là tư tưởng tấm gương đạo đức trong sáng, mẫu mực, cao đẹp, kết tinh những giá trị truyền thống của dân tộc, của nhân loại và thời đại. Học tập theo gương bác là là niềm vinh dự tự hào đối với mỗi cán bộ đảng viên và mỗi người dân Việt Nam.

Đối với bản thân là một Đảng viên, học theo gương Bác là một nhiệm vụ rất quan trọng và thường xuyên, qua đó để giáo dục, rèn luyện mình, xứng đáng là con cháu của Bác. Nhận biết được điều đó bản thân tôi luôn tự rèn luyện, trau dồi về phẩm chất đạo đức, biết kính trên nhường dưới, cư xử đúng mực, hòa nhã với đồng nghiệp, người thân, bà con lối xóm,; Đồng cảm và sẵn sàng giúp đỡ những người có hoàn cảnh đặc biệt; không kiêu căng, tự cao, tự đại trong mọi trường hợp, đặc biệt không tham gia vào các tệ nạn xã hội, là tấm gương cho con cái noi theo

Học tập đạo đức của Bác Hồ, chúng ta còn có thể học tập qua chính những tấm gương đồng nghiệp, bè bạn xung quanh. Và hãy để việc học tập đó đi vào chính cuộc sống hàng ngày của mỗi chúng ta chứ không phải là những hoạt động có tính chất phong trào. Bởi học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là để giúp chúng ta sống tốt hơn, đẹp hơn

Hôm nay, chúng ta học theo Bác, làm theo Bác chính là học tập và rèn luyện để có một cái Tâm trong sáng. Yêu Bác, học Bác để lòng ta trong sáng hơn, để lòng ta hòa chung với những tâm tư, trăn trở, nỗi niềm của nhân dân, của dân tộc.

Tôi tin, sống giản dị như Bác, học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác để thấy một Việt Nam vững vàng phát triển ở ngày mai. Là những đảng viên, cánh tay phải của xã hội, chúng ta cần học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác. Đó không chỉ là trách nhiệm của cá nhân tôi, cá nhân chúng ta, mà còn vì vận mệnh của đất nước Việt Nam. Sống giản dị như Bác còn là để trả ơn cuộc đời, trả ơn những máu và nước mắt của các thế hệ cha anh đã ngã xuống cho tự do, độc lập hôm nay.

Bài thu hoạch học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh 2021

Bài thu hoạch chuyên đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

07/09/2021 12:08 728

Nội dung bài viết

Bài thu hoạch chuyên đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

Bài thu hoạch học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh kèm theo liên hệ bản thân là bài văn mẫu dự thi kể chuyện tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Bài thu hoạch học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách hồ chí minh năm 2021 này được tổng hợp sau một thời gian vận động trong doanh nghiệp, nhà trường về việc thực hiện quản lý và lối sống theo tấm gương đạo đức của Bác Hồ.

Mời các bạn cùng đọc và tham khảo bài kế hoạch cá nhân học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách hồ chí minh rồi viết bài thu hoạch chủ đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo ý tưởng của mình.

1. Bài thu hoạch chuyên đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là gì?

Bài thu hoạch chuyên đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là mẫu được sử dụng cho cán bộ công nhân viên chức, viết ra để tổng kết, nhìn lại quá trình thực hiện cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của bản thân.

Chủ đề của chuyên đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh năm 2021 là Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc là sự vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện nay, góp phần vào việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Mời các bạn tham khảo mẫu bài thu hoạch dưới đây mà Hoatieu.vn sưu tầm được.

2. Bài thu hoạch chuyên đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh mới nhất 2021

TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH VỀ Ý CHÍ TỰ LỰC, TỰ CƯỜNG VÀ KHÁT VỌNG XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC PHỒN VINH, HẠNH PHÚC

Thứ nhất, về ý chí tự lực, tự cường.

Một là, ý chí tự lực, tự cường là không phụ thuộc vào lực lượng bên ngoài, có quan điểm độc lập trong quan hệ quốc tế. Nguyễn Ái Quốc cho rằng, cách mạng ở các nước thuộc địa (trong đó có Việt Nam) hoàn toàn có thể chủ động giành thắng lợi, không phụ thuộc việc cách mạng ở chính quốc có thắng lợi hay không. Nguyễn Ái Quốc nêu rõ quyết tâm, ý chí, phương pháp cách mạng, thể hiện sâu sắc quan điểm tự lực, tự cường trong đấu tranh cách mạng: “Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”(1).

Hai là, ý chí tự lực, tự cường là phải nhận thức rõ sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Hồ Chí Minh khẳng định, nhân tố mang tính quyết định của cách mạng giải phóng dân tộc chính là sức mạnh của toàn dân tộc.

Trong tác phẩm Đường Kách mệnh (năm 1927), Người viết: “Chỉ ước ao sao đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh rồi thì đứng lên đoàn kết nhau mà làm cách mệnh”(2). Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” nhưng “phải củng cố tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân ta và nhân dân các nước bạn, nhân dân Pháp, nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới”. Người nhấn mạnh vấn đề có tính nguyên tắc: “Muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”(3).

Ba là, ý chí tự lực, tự cường là sự chủ động, chuẩn bị mọi mặt các điều kiện của cách mạng .
Theo Hồ Chí Minh, điều kiện trước hết là phải có một Đảng cách mệnh, “để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”(4).

Cương lĩnh chính trị đầu tiên do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh đấu tranh giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc thực dân và chế độ phong kiến đã suy tàn, thực hiện mục tiêu chiến lược: “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”, “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”(5).

Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, ngày 28/1/1941, lãnh tụ Hồ Chí Minh trở về Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng. Tại Hội nghị Trung ương 8, Người cùng Trung ương Đảng quyết định những vấn đề lớn của cách mạng như hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, xử lý đúng đắn đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, quyết tâm giành cho được độc lập dân tộc.

Bốn là, ý chí tự lực, tự cường là đặc biệt chú trọng phát huy vai trò, sức mạnh của nhân dân.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, “nhân dân” là phạm trù cao quý nhất. Người nói: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”(6). Người khẳng định, dân khí mạnh thì binh lính nào, súng ống nào cũng không địch nổi. “Nếu lãnh đạo khéo thì việc gì khó khăn mấy và to lớn mấy, nhân dân cũng làm được”(7).

Trong Thư kêu gọi tổng khởi nghĩa, Người nêu rõ: “Hỡi đồng bào yêu quý! Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta… Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!”(8). Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”(9).

Trong Lời kêu gọi “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” ngày 17/7/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã nêu rõ: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”(10).

Năm là, ý chí tự lực, tự cường là quyết tâm bảo vệ và giữ vững nền độc lập dân tộc.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyết tâm bảo vệ và giữ vững độc lập dân tộc, “nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, “không có gì quý hơn độc lập tự do”, thể hiện rất rõ khi Tổ quốc bị lâm nguy, khi dân tộc phải đương đầu với những kẻ thù có sức mạnh kinh tế – quân sự vào hàng cường quốc thế giới, chống lại âm mưu áp đặt chế độ áp bức, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc thực dân.

Ngay sau khi nền độc lập ra đời, đất nước ta đã phải chuẩn bị cho một cuộc kháng chiến không thể tránh khỏi. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”(11).

Thứ hai, về khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Một là, xây dựng, phát triển đất nước giàu mạnh, cường thịnh, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài. Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn xây dựng đất nước giàu mạnh, mang lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Tư tưởng của Người đã được nhấn mạnh tại Đại hội II của Đảng (1951): Xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, phú cường. Người nhiều lần nhắc nhở: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(12). Người đặc biệt chú trọng việc nâng cao dân trí, phục vụ công cuộc xây dựng, phát triển đất nước giàu mạnh. “Nay chúng ta đã giành được quyền độc lập. Một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí”(13). Trước lúc đi xa, trong Di chúc Người bày tỏ điều mong muốn cuối cùng, cũng là khát vọng tột bậc: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”(14).

Hai là, thực hiện khát vọng đất nước giàu mạnh, cường thịnh trong điều kiện Đảng cầm quyền, xây dựng chế độ mới, mưu cầu hạnh phúc, ấm no cho nhân dân. Hồ Chí Minh ngay từ khi ra đi tìm đường cứu nước đã mang khát vọng lớn lao: Độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào. Người khẳng định: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”(15). Cả cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh hiến dâng trọn vẹn cho cách mạng, chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân.

Ba là, xây dựng nền tảng kinh tế vững chắc, thực hiện một cách có kế hoạch với sự đồng lòng của Chính phủ và người dân.

Hiện thực khát vọng đất nước phồn vinh, hạnh phúc theo tư tưởng Hồ Chí Minh là phải xây dựng chế độ chính trị dân chủ, tiến bộ, thật sự vì dân, xây dựng đời sống kinh tế, văn hóa – xã hội văn minh, tiến bộ với những giá trị đạo đức tốt đẹp. Muốn vậy, phải xây dựng nền tảng kinh tế vững chắc, có kế hoạch thực hiện với sự đồng lòng của Chính phủ và người dân.

Ngay trong phiên họp đầu tiên của Ủy ban ngày 10/1/1946, Hồ Chí Minh phát biểu mong muốn mọi người đem tài năng tri thức lo bồi bổ về mặt kinh tế và xã hội. Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành.

Bốn là, phát huy tối đa nội lực dân tộc, tranh thủ ngoại lực, có chính sách mở cửa, thu hút đầu tư nước ngoài.

Vấn đề nội lực dân tộc là một điểm quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người chỉ rõ “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Hồ Chí Minh cho rằng, việc mở cửa, hợp tác quốc tế không chỉ nhằm mục đích nhận được sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, mà thông qua đó thu hút ngoại lực, thu hút đầu tư, tạo ra những điều kiện phát huy tiềm năng của đất nước, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân.

Năm là, luôn xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của đất nước, vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn để đưa ra những quan điểm, chủ trương phù hợp; không giáo điều, máy móc trong học tập kinh nghiệm của nước khác.

Theo Hồ Chí Minh, xây dựng, phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa đòi hỏi Việt Nam phải có cách làm, bước đi và biện pháp thích hợp. “Ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác… ta có thể đi con đường khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội”(16). Chúng ta dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác – Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta(17).

HỌC VÀ LÀM THEO BÁC, XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC PHỒN VINH, HẠNH PHÚC

Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi có Đảng, nhất là thực tiễn 35 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng đã thể hiện một cách sinh động ý chí, khát vọng phát triển của dân tộc ta. Đại hội XIII của Đảng đã xác định các quan điểm chỉ đạo công cuộc đổi mới hiện nay, trong đó nhấn mạnh: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hoá, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực… thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước”(18).

Trên tinh thần đó, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nâng cao tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường dân tộc, khát vọng cống hiến, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và người dân, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và nhiệm vụ cách mạng trong các giai đoạn lịch sử.

Để việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong thời gian tới đi vào chiều sâu, chất lượng, thiết thực, cần tập trung làm tốt ba nội dung: Học tập, làm theo Bác và nêu gương của cán bộ, đảng viên, cần thực hiện đồng bộ 8 giải pháp chủ yếu sau:

Một là, cần nhận thức sâu sắc, thấm nhuần tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Coi đây là công việc thường xuyên, không thể thiếu đối với mỗi cán bộ, đảng viên. Nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về nội dung, giá trị và ý nghĩa to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Học tập và làm theo Bác để Đảng ta và mỗi đảng viên xứng đáng với vai trò, sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam và sự tin cậy của nhân dân.

Hai là, các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể đưa nội dung làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào chương trình, kế hoạch hành động thực hiện nghị quyết của đảng bộ cấp mình, gắn với nhiệm vụ chính trị . Kết hợp chặt chẽ giữa học tập với làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi địa phương, đơn vị và công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; giải quyết hiệu quả các khâu đột phá và các vấn đề trọng tâm, bức xúc trong thực tiễn.

Ba là, đẩy mạnh tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, lôi cuốn sự vào cuộc của toàn xã hội. Đẩy mạnh tuyên truyền, gắn việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước của các cấp, các ngành, nhằm lan tỏa, khơi dậy tinh thần cống hiến, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mỗi cán bộ, đảng viên nhận thức sâu sắc và tự giác thực hiện bổn phận, trách nhiệm của bản thân, gắn bó chặt chẽ, liên hệ mật thiết với nhân dân, “trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân”, thực hiện có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội. Nghiên cứu tổ chức cuộc vận động “Toàn Đảng, toàn dân khơi dậy khát vọng phát triển đất nước”, với quyết tâm “sánh vai với các cường quốc” như tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Bốn là, nêu cao trách nhiệm nêu gương trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí, tự lực, tự cường dân tộc, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh trong cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu. Đề cao việc phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, trước hết là các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng theo phương châm cán bộ có chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, khẳng định vai trò lãnh đạo, tính tiên phong, gương mẫu “trên trước, dưới sau”, “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Mỗi cán bộ, đảng viên cần phát huy vai trò nêu gương trong xây dựng ý chí, khát vọng phát triển của bản thân và của cơ quan, đơn vị. Mỗi cán bộ, đảng viên tự nêu gương sáng, hàng triệu đảng viên là những tấm gương sáng, toàn Đảng ta sẽ thực sự trong sạch, vững mạnh, gắn bó máu thịt với nhân dân. Đây là điều kiện tiên quyết để khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong Đảng và xã hội.

Năm là, nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức cách mạng phù hợp với điều kiện mới, làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự giác tu dưỡng, rèn luyện. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình, nêu cao bản lĩnh chính trị, đấu tranh có hiệu quả với mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, bệnh quan liêu, cơ hội, cục bộ, bè phái, “lợi ích nhóm”, mất đoàn kết nội bộ, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, nâng cao ý thức tu dưỡng, “nói đi đôi với làm”, “rèn luyện suốt đời”, thường xuyên “tự soi”, “tự sửa”.

Sáu là, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, theo hướng khoa học, sáng tạo, hiện đại và gắn lý luận với thực tiễn, phù hợp với từng đối tượng. Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới.

Bảy là, nâng cao tính khoa học, tính chiến đấu trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị. Chủ động thông tin kịp thời, chính xác, khách quan, đúng định hướng chính trị để cán bộ, đảng viên và nhân dân tích cực đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Tám là, coi trọng công tác kiểm tra, giám sát. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm cho việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả thực chất. Phát huy vai trò giám sát của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội, báo chí và nhân dân đối với cán bộ, đảng viên trong thực hiện nêu gương./.

___

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H, 2011, t.1, tr. 209.

(2) (3) (4) Hồ Chí Minh: Sđd, t.2, tr. 283, 320, 289.

(5) (8) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 3, tr.1, 596.

(6) (16) Hồ Chí Minh: Sđd, t.10, tr.453, 391.

(7) Hồ Chí Minh: Sđd, t.12, tr. 492.

(9) (11) (12) (13) (15) Hồ Chí Minh: Sđd, t.4, tr. 534, 534, 64, 40, 187.

(10) (14) Hồ Chí Minh: Sđd, t.15, tr.131, 624.

(17) Hồ Chí Minh: Sđd, t.11, tr.92.

(18) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.1, tr.110.

3. Bài thu hoạch chuyên đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

I. SỰ CẦN THIẾT HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

1. Đạo đức và vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội

Đạo đức, hiểu theo nghĩa chung nhất, là một hình thái của ý thức xã hội, bao gồm những nguyên tắc, chuẩn mực và thang bậc giá trị được xã hội thừa nhận.

Đạo đức có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi của mỗi người, phù hợp với lợi ích của toàn xã hội.

Đối với mỗi cá nhân, ý thức và hành vi đạo đức mang tính bổn phận, diễn ra một cách tự giác, chủ yếu xuất phát từ nhu cầu tinh thần bên trong. Đạo đức của mỗi cá nhân chịu sự tác động của dư luận xã hội, sự kiểm tra của những người khác trong xã hội, cũng như sự “tự kiểm tra” bởi chính mình.

Đạo đức có chức năng giáo dục, chức năng điều chỉnh và chức năng phản ánh.

Với chức năng giáo dục, chuẩn mực đạo đức được tập thể và cộng đồng chấp nhận tác động vào ý thức và hành vi đạo đức của mỗi cá nhân, để mỗi cá nhân tự giáo dục rèn luyện, hoàn thiện nhân cách của mình theo chuẩn mực chung của xã hội. Mặt khác, khi nhận xét, đánh giá hành vi đạo đức của người khác, người nhận xét cũng tự điều chỉnh mình và qua đó làm cho chuẩn mực đạo đức chung trong xã hội ngày càng hoàn chỉnh.

Với chức năng điều chỉnh, chuẩn mực đạo đức điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân và mối quan hệ giữa người với người trong xã hội. Trong xã hội, quan niệm và hành vi đạo đức của người này có tác động đến quan niệm và hành vi đạo đức của người khác và ngược lại. Những chuẩn mực đạo đức được cộng đồng và toàn xã hội thừa nhận là công cụ quan trọng để điều khiển hoạt động chung của cả cộng đồng đồng thời với pháp luật và những quy định khác.

Với chức năng phản ánh, đạo đức phản ánh thực trạng xã hội, do tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Những mâu thuẫn đang tồn tại trong xã hội được thể hiện trong đạo đức xã hội. Một xã hội bị tha hoá về đạo đức thể hiện những mâu thuẫn đang tồn tại trong xã hội chưa được giải quyết.

2. Về sự suy thoái đạo đức, lối sống trong xã hội hiện nay

Qua 20 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Việc thực hiện dân chủ trong Đảng và trong xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân có nhiều tiến bộ… Đa số cán bộ, đảng viên phát huy được vai trò tiên phong, gương mẫu, năng động, sáng tạo trong công tác, rèn luyện phẩm chất, năng lực, đóng vai trò nòng cốt trong công cuộc đổi mới.

Tuy nhiên, trong Đảng và trong xã hội ta hiện nay đã xuất hiện tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống. Nghị quyết Đại hội X đã nhận định: “Thoái hoá, biến chất về chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng, kéo dài chưa được ngăn chặn, đẩy lùi…, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Đó là nguy cơ lớn liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ”.

Sự suy thoái về đạo đức, lối sống biểu hiện ở các dạng chủ yếu sau đây:

Một là, chủ nghĩa cá nhân, lối sống vị kỷ, vụ lợi, buông thả, hưởng thụ, thiếu lý tưởng thiếu ý chí phấn đấu xuất hiện trong tất cả các tầng lớp xã hội.

Hai là, tệ tham nhũng, hối lộ, bòn rút của công, lãng phí diễn ra ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, đang “trở thành quốc nạn”, gây bức xúc trong nhân dân.

Ba là, hành động cơ hội, ”chạy chọt” vì lợi ích cá nhân khá phổ biến.

Bốn là, lời nói không đi đôi với việc làm, nói và làm trái với nghị quyết của Đảng; nói nhiều, làm ít; phát ngôn tuỳ tiện, vô nguyên tắc.

Năm là, tệ quan liêu, xa dân, lãnh đạm, vô cảm trước những khó khăn, bức xúc và yêu cầu, đòi hỏi chính đáng của nhân dân.

Sáu là, tình trạng suy thoái về đạo đức trong quan hệ gia đình và quan hệ giữa cá nhân với xã hội, như: gia trưởng, vũ phu, bất hiếu…

Bảy là, đạo đức nghề nghiệp sa sút, ngay cả trong những lĩnh vực được xã hội tôn vinh. Hiện tượng mê tín, dị đoan có chiều hướng lan rộng, ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục và trật tự, an toàn xã hội.

Nguyên nhân của tình trạng trên có cả khách quan và chủ quan.

Về khách quan, trước hết do tác động tiêu cực của cơ chế kinh tế thị trường, đặc biệt là khả năng kích thích lối sống thực dụng của cơ chế này. Sự tác động của đạo đức lối sống tư sản, hưởng thụ phương Tây vào nước ta trong điều kiện toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và bùng nổ mạng thông tin toàn cầu. Các thế lực thù địch, phản động đã chủ động khuyến khích lối sống ích kỷ, hưởng thụ, thực dụng trong cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo và gia đình họ, coi đó là một trong những biện pháp thực hiện “diễn biến hoà bình”.

Về nguyên nhân chủ quan, do chúng ta chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc vai trò nền tảng của đạo đức trong ổn định, phát triển xã hội và tác động của cơ chế kinh tế thị trường đến đạo đức xã hội. Trên thực tế, chúng ta chưa coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống; thiếu sự tổ chức, phối hợp các ngành, các cấp. Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, đảng viên và gia đình chưa nêu gương về đạo đức, lối sống.

Tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống nêu trên đã có tác động lớn đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Nó đang làm thay đổi, lệch lạc những chuẩn mực, thang bậc giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc và cách mạng, có tác hại đến sự trường tồn của dân tộc và sự phát triển của đất nước. Sự suy thoái về đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên làm cho nhân dân lo lắng, bất bình, ảnh hưởng xấu đến uy tín và vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng, đến việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thực trạng đó tiềm ẩn nhiều nguy cơ, cùng với các nguy cơ khác dẫn đến mất ổn định chính trị xã hội, liên quan đến “sự sống còn của Đảng, của chế độ”.

Để nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, ngăn chặn và đẩy lùi suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội, Hội nghị Trung ương 3 khoá X của Đảng đã ban hành Nghị quyết “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí”. Ngày 7-11-2006, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 05-CT/TW về tổ chức Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong toàn Đảng và toàn xã hội. Thực hiện tốt Cuộc vận động này sẽ góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh ngăn chặn và đẩy lùi suy thoái về đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội.

II. HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH

1. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và tinh hoa văn hoá của nhân loại; là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và nhân dân ta

Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước, ông cha ta luôn coi trọng đạo đức, hình thành nên các chuẩn mực giá trị đạo đức tốt đẹp trong quan hệ gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với yêu cầu tồn tại, phát triển của dân tộc. Đó là truyền thống yêu quê hương đất nước; gắn bó với thiên nhiên, với cộng đồng; đoàn kết, thuỷ chung nhân ái, quý trọng nghĩa tình; yêu lao dộng; dũng cảm, kiên cường, hiếu học, sáng tạo…

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, được Người kế thừa và phát triển, kết hợp với những tinh hoa văn hoá, đạo đức của nhân loại, cả phương Đông và phương Tây, mà Người đã tiếp thu được trong quá trình hoạt động cách mạng đầy gian lao, thử thách và vô cùng phong phú của mình. Tư tưởng đạo đức đó kết hợp với đạo đức tiên tiến nhất của thời đại là đạo đức cộng sản trong Hồ Chí Minh, từ đó Người đã xây dựng nên những giá trị đạo đức mới, đó là đạo đức cách mạng.

Trong quá trình đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc, xây dựng và bảo vệ đất nước, đạo đức mới – đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng và động lực tinh thần, là nguồn sức mạnh to lớn để Đảng và nhân dân ta vượt qua mọi thử thách, hy sinh, giành độc lập, tự do, thống nhất cho Tổ quốc, xây dựng đất nước theo mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Công cuộc đổi mới đất nước hiện nay đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao trong việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc, giải phóng mọi tiềm năng cho sự phát triển. Phát huy mạnh mẽ những chuẩn mực đạo đức mới, sự năng động, sáng tạo, ý chí độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, quyết tâm không chịu mãi đói nghèo, đưa đất nước tiến lên cùng nhân loại và thời đại, là động lực tinh thần to lớn để đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới.

Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một trong những biện pháp để phát huy những mặt tích cực, khắc phục những tiêu cực về đạo đức, lối sống. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là niềm vinh dự và tự hào đối với mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi người Việt Nam chúng ta. Để xứng đáng là cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, tổ chức và rèn luyện, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người phải trở thành nhiệm vụ hằng ngày của mỗi đảng viên và những người đang phấn đấu vào Đảng.

2. Những nội dung chủ yếu của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh

a) Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí của đạo đức trong đời sống xã hội và của mỗi người

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định đạo đức là gốc của người cách mạng, muốn làm cách mạng phải lấy đạo đức làm gốc. Người viết: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.

Hồ Chí Minh coi đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông, suối, Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.

Hồ Chí Minh quan niệm, đạo đức cách mạng là chỗ dựa giúp cho con người vững vàng trong mọi thử thách, Người viết: “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước… khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hoá”.

Đối với Đảng, đội tiên phong của giai cấp công nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu phải xây dựng Đảng ta thật trong sạch, Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”. Trong bản Di chúc bất hủ, Người viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”.

b) Quan điểm Hồ Chí Minh về những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam

Về những phẩm chất đạo đức của người Việt Nam, quan điểm đạo đức Hồ Chí Minh đã bao quát những mối quan hệ cơ bản của con người trong xã hội, bao gồm:

Một là, với đất nước, dân tộc phải “Trung với nước, hiếu với dân”.

Trung, hiếu là phẩm chất đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam và phương Đông, được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển trong điều kiện mới. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trung với nước, hiếu với dân là điều chủ chốt của đạo đức cách mạng. Trung với nước là trung thành vô hạn với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, đấu tranh giành độc lập dân tộc và làm cho đất nước “sánh vai với cường quốc năm châu”. Nước là của dân, dân là chủ đất nước, cho nên “trung với nước” là trung với dân, trung thành với lợi ích của nhân dân, “bao nhiêu quyền hạn đều của dân”; “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”.

Hiếu với dân là Đảng, Chính phủ, cán bộ nhà nước phải là “đầy tớ trung thành của dân”; phải “tận trung với nước, tận hiếu với dân”.

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trung với nước, hiếu với dân phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, làm cho dân hiểu rõ trách nhiệm và quyền lợi của người làm chủ đất nước.

Hai là, với mọi người phải ”Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình”.

Yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh xuất phát từ truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân loại, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Yêu thương con người thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân trong quan hệ xã hội, là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.

Yêu thương con người là phải quan tâm đến những người lao động bình thường, chiếm số đông trong xã hội. Yêu thương con người phải làm mọi việc để vì con người, vì mục tiêu “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”; dám hy sinh, dám dấn thân để đấu tranh giải phóng con người.

Yêu thương con người phải tin vào con người. Với mình thì chặt chẽ, nghiêm khắc; với người thì độ lượng, rộng rãi, nâng con người lên, kể cả với người lầm đường, lạc lối, mắc sai lầm, khuyết điểm.

Yêu thương con người là giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, sống cao đẹp hơn. Yêu thương con người phải thực hiện tự phê bình, phê bình chân thành, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm.

Ba là, với mình phải thực sự “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”

Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh là mối quan hệ “với tự mình”.

Hồ Chí Minh quan niệm cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cần có của con người, mang một lẽ tự nhiên, như trời có bốn mùa, đất có bốn phương và Người giải thích cặn kẽ, cụ thể nội dung từng khái niệm.

– Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mỗi chúng ta”.

– Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân, của nước, của bản thân mình, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ; “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi, không phô trương, hình thức…”.

– Liêm là “luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân”, “không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”; “không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung sướng, không tham tâng bốc mình…”.

– Chính là không tà, là thẳng thắn, đúng đắn. Đối với mình không tự cao, tự đại; đối với người không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá, lừa lọc, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết. Đối với việc thì để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Được giao nhiệm vụ gì quyết làm cho kỳ được, “việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm; việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh”.

– Chí công vô tư là đem lòng chí công vô tư đối với người, với việc. “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.

Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và với chí công vô tư. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư. Ngược lại, đã chí công vô tư, một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính.

Bốn là, mở rộng quan hệ yêu thương con người đối với toàn nhân loại, người cách mạng phải có ”Tinh thần quốc tế trong sáng”.

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về tình đoàn kết quốc tế trong sáng là sự mở rộng quan hệ đạo đức giữa người với người và với toàn nhân loại vì Người không chỉ là “người Việt Nam nhất” như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định, mà còn là “nhà văn hoá lớn của thế giới”, “chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế”.

Đoàn kết quốc tế trong sáng theo Hồ Chí Minh trước hết là đoàn kết với nhân dân lao động các nước vì mục tiêu chung: đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột. Đó là tình đoàn kết quốc tế giữa những người vô sản toàn thế giới vì một mục tiêu chung, “bốn phương vô sản đều là anh em”; là đoàn kết với các dân tộc vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội.

Đoàn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước chân chính sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng.

c) Quan niệm Hồ Chí Minh về những nguyên tắc xây dựng và thực hành đạo đức

Hồ Chí Minh nêu lên những nguyên tắc xây dựng và thực hành nền đạo đức mới trong xã hội, thể hiện ở ba điểm sau:

Một là, nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức.

Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm.

Nói đi đôi với làm trước hết là sự nêu gương tốt. Sự nêu gương của thế hệ đi trước với thế hệ đi sau, lãnh đạo với nhân viên, đảng viên phải nêu gương trước quần chúng. Người nói: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến.

Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.

Hai là, xây đi đôi với chống.

Cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết phải chống những biểu hiện đạo đức sai trái, xấu xa, không phù hợp với những chuẩn mực của đạo đức mới. Xây đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây.

Xây dựng đạo đức mới trước hết phải tác động vào nhận thức, đẩy mạnh việc giáo dục, từ trong gia đình đến nhà trường, tập thể và toàn xã hội. Những phẩm chất đạo đức chung phải được cụ thể hoá, sát hợp với từng tầng lớp, đối tượng. Trong các bài viết của mình, Hồ Chí Minh đã nêu rất cụ thể các phẩm chất đạo đức cơ bản đối với từng giai cấp, tầng lớp, lứa tuổi và nhóm xã hội.

Trong giáo dục, vấn đề quan trọng là phải khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh trong mỗi người, để mỗi người nhận thức được và tự giác thực hiện. Trong đấu tranh chống lại cái tiêu cực, lạc hậu phải phát hiện sớm, phải chú ý phòng ngừa, ngăn chặn.

Để xây và chống cần phát huy vai trò của dư luận xã hội, tạo ra phong trào quần chúng rộng rãi, biểu dương cái tốt, phê phán cái xấu. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm để biểu dương người tốt việc tốt. Người đã phát động cuộc thi đua “3 xây, 3 chống”, viết sách “người tốt việc tốt” để tuyên truyền, giáo dục về đạo đức, lối sống.

Ba là phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.

Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng phải qua đấu tranh, rèn luyện bền bỉ mới thành. Người viết: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Người dạy: một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi; nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.

Trong rèn luyện đạo đức, Hồ Chí Minh coi tự rèn luyện có vai trò rất quan trọng. Người khẳng định, đã là người thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ xấu, chỗ tốt, ai cũng có thiện, có ác ở trong mình. Vấn đề là dám nhìn thẳng vào con người mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc, thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác để khắc phục. Tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện trong mọi hoạt động thực tiễn, trong mọi mối quan hệ của mình, trong đời tư cũng như trong sinh hoạt cộng đồng.

3. Noi theo tấm gương đạo đức trong sáng, mẫu mực của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương đạo đức của một vĩ nhân, một lãnh tụ cách mạng vĩ đại, một người cộng sản vĩ đại, nhưng đồng thời cũng là tấm gương đạo đức của một người Việt Nam chân chính, bình thường, gần gũi, ai cũng có thể học theo, làm theo, để trở thành một người cách mạng, người công dân tốt hơn trong xã hội. Điều ấy thể hiện trong các điểm sau:

Một là, đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương trọn đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

Ngay từ thuở thiếu thời, Hồ Chí Minh đã lựa chọn một cách rõ ràng mục tiêu phấn đấu là vì nước, vì dân. Trong cả cuộc đời hoạt động cách mạng lâu dài và gian khổ, Người đã chấp nhận mọi sự hy sinh, không quản gian nguy, kiên định, dũng cảm và sáng suốt để vượt mục tiêu đó.

Hai là đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương của ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, vượt qua mọi thử thách, khó khăn để đạt mục đích.

Cuộc đời cách mạng của Hồ Chí Minh là một chuỗi năm tháng đấu tranh vô cùng gian khổ. Vượt qua bao khó khăn, Người kiên trì mục đích của cuộc sống, bảo vệ chân lý, giữ vững quan điểm, khí phách, bình tĩnh, chủ động vượt qua mọi thử thách. Người tự răn mình: “Muốn nên sự nghiệp lớn, tinh thần càng phải cao”.

Ba là, đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương tuyệt đối tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân
Hồ Chí Minh luôn luôn tin ở con người, tin tưởng vào trí tuệ và sức mạnh của nhân dân; dựa vào dân, lấy dân làm gốc, nguyện làm “người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”, “người lính vâng lệnh quốc dân, đồng bào ra mặt trận”.

Bốn là, đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương của lòng nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu, hết mực vì con người.

Hồ Chí Minh có tình thương yêu bao la với tất cả mọi kiếp người, chia sẻ với mỗi người những nỗi đau. Người nói “Mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng và gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi”

Năm là đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường.

Hồ Chí Minh sống thật sự cần, kiệm, giản dị, coi khinh sự xa hoa, không ưa chuộng những nghi thức trang trọng. Suốt đời Người sống trong sạch, vì dân, vì nước, vì con người, không gợn chút riêng tư. Người đã đề ra tư cách người cách mạng cho cán bộ, đảng viên phấn đấu và tự mình gương mẫu thực hiện.

Bấy nhiêu đức tính cao cả chung đúc lại trong một con người làm cho tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trở nên siêu việt, vô song “khó ai có thể vượt hơn”. Nhưng cũng chính từ sự kết hợp của những đức tính đó, Người là tấm gương cụ thể, gần gũi mà mọi người đều có thể noi theo.

4. Nội dung học tập và làm theo tấn gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay

Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, mỗi cán bộ, đảng viên cần làm tốt các mặt sau đây:

Một là, thực hiện “trung với nước, hiếu với dân”, mỗi cán bộ, đảng viên phải trung thành vô hạn với mục tiêu lý tưởng của Đảng, của dân tộc, tham gia tích cực vào việc đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Suốt đời hy sinh phấn đấu vì nước, vì dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có một mong muốn, mong muốn tột bậc là đất nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hưởng tự do, “đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh chúng ta cần:

– Trung thành vô hạn với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nền văn hoá, bảo vệ Đảng, chế độ và sự nghiệp đổi mới, bảo vệ lợi ích của đất nước, dân tộc.

– Luôn luôn quan tâm đến lợi ích của nhân dân, tôn trọng dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, giải quyết kịp thời những yêu cầu, kiến nghị của dân, biết tập hợp nhân dân, phát huy sức mạnh của dân, tổ chức, động viên cho nhân dân phấn đấu thoát khỏi đói nghèo, “làm giàu cho mình, cho đất nước”.

– Có ý chí vươn lên, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng nước kém phát triển, phấn đấu đến năm ………… nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

– Có ý thức giữ gìn đoàn kết dân tộc, đoàn kết trong Đảng, trong nhân dân; kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng trước mọi mưu đồ chia rẽ dân tộc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, chia rẽ Đảng với nhân dân của các thế lực thù địch, cơ hội.

– Có tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc, có lương tâm nghề nghiệp trong sáng; ham học hỏi, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

– Giải quyết đúng đắn mối quan hệ cá nhân – gia đình – tập thể – xã hội; quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi theo lời dạy của Bác: “Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”.

Hai là, thực hiện đúng lời dạy: ”Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, nêu cao phẩm giá con người Việt Nam trong thời kỳ mới.

– Tích cực lao động, học tập, công tác với tinh thần lao động sáng tạo có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao; sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn của Nhà nước, của tập thể, của chính mình một cách có hiệu quả.

– Quý trọng công sức lao động và tài sản của tập thể, của nhân dân; không xa hoa, lãng phí, không phô trương, hình thức.

– Kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, không để cho lợi ích cá nhân chi phối. Chống thói chạy theo danh vọng, địa vị, giành giật lợi ích các mình, lạm dụng quyền hạn, chức vụ để chiếm đoạt của công; cục bộ địa phương, thu vén cho gia đình, cá nhân.

– Thẳng thắn, trung thực, bảo vệ chân lý, bảo vệ đường lối quan điểm của Đảng, bảo vệ người tốt; chân thành, khiêm tốn; không chạy theo chủ nghĩa thành tích, bao che, giấu giếm khuyết điểm…

– Kiên quyết chống bệnh lười biếng, chạy theo lối sống hưởng thụ, vị kỷ, nói không đi đôi với làm, nói nhiều, làm ít, làm dối, làm ẩu. Có thái độ rõ ràng, lên án và quyết đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, loại trừ mọi biểu hiện vô liêm, bất chính ra khỏi đời sống xã hội.

Ba là nâng cao ý thức dân chủ và kỷ luật, gắn bó với nhân dân, vì nhân dân phục vụ

– Mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải đặt mình trong tổ chức, trong tập thể, phải tôn trọng nguyên tắc, pháp luật, kỷ cương.

– Gần dân, học dân, có trách nhiệm với dân, khắc phục cho được thói vô cảm, lãnh đạm, thờ ơ trước khó khăn, thắc mắc, những đau khổ của nhân dân.

– Coi trọng tự phê bình và phê bình, “phải nghiêm khắc với chính mình”. Phê bình có mục đích trong sáng, có lý, có tình. Khắc phục bệnh chuộng hình thức, thích nghe lời khen (thậm chí xu nịnh), tâng bốc nhau, không dám nói thẳng, nói thật… để giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, đồng thời, cần phê phán những biểu hiện xuất phát từ những động cơ cá nhân, vụ lợi mà “đấu đá”; nhân danh phê bình để đả kích, lôi kéo, chia rẽ, làm rối nội bộ.

Bốn là học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần phát huy chủ nghĩa yêu nước gắn chặt với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.

Thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá với tinh thần Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.

– Tôn trọng độc lập, chủ quyền của các nước khác, mở rộng hợp tác cùng có lợi, cùng nhau phấn đấu vì hoà bình, phát triển, hợp tác, chống chiến tranh, đói nghèo, bất công, cường quyền, áp đặt trong quan hệ quốc tế. Với những vấn đề của quá khứ, lịch sử cần xoá bỏ mặc cảm, hận thù, nhìn về tương lai, xây dựng tình hữu nghị giữa các dân tộc.

– Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nguồn lực bên trong với nguồn lực bên ngoài để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phấn đấu đến năm ………… nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

– Nâng cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, tự hào, tự tôn dân tộc; đấu tranh chống biểu hiện của dân tộc hẹp hòi, tự ti; đồng thời phê phán tư chủ nghĩa tư tưởng ngoại lai, vong bản, vọng ngoại, ảo tưởng trước chủ nghĩa tư bản.

4. Bài thu hoạch chuyên đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh 2020

“Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”

– Họ và tên:………………………………………………………………………………

– Chức vụ:………………………………………………………………………………..

– Đảng viên: ………………………………………………………………………….…

– Tổ chuyên môn:……………………………………………………………………..

– Đơn vị Công tác:……………………………………………………………………..

Câu hỏi:

Đồng chí hãy nêu nội dung cơ bản của chuyên đề năm ………… về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Liên hệ với chức trách nhiệm vụ cơ bản của bản thân và đề ra phương hướng phấn đấu làm theo.

Bài làm

Nội dung cơ bản của chuyên đề năm …………:

– Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

– Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh đáp ứng yêu cầu giai đoạn cách mạng mới.

Liên hệ với chức trách nhiệm vụ cơ bản của bản thân và đề ra phương hướng phấn đấu làm theo.

Căn cứ vào nội dung chuyên đề năm …………: “Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” nhằm tiếp tục nâng cao nhận thức của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân về những nội dung cơ bản, giá trị to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tiếp tục đưa nội dung học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người trở thành nền nếp, gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Bản thân tôi là một đảng viên và là một người giáo viên đã làm được và đưa ra phương hướng như sau:

1. Những kết quả đã làm được:

– Về ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức thường xuyên: Tôi luôn luôn gương mẫu rèn luyện phẩm chất tư cách, làm tròn nhiệm vụ được Đảng và chính quyền giao phó. Sống cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, hòa nhã thân ái với mọi người, hết lòng vì nhân dân phục vụ. Tự rèn luyện trau dồi phẩm chất đạo đức, lối sống, tác phong của người Đảng viên.

– Về ý thức trách nhiệm tâm huyết với công việc nghề nghiệp. Luôn tham gia các hoạt động chuyên môn của nhà trường cũng như của Ngành. Thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.

+ Về ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức thường xuyên: Tôi luôn cập nhật thông tin trên mọi thông tin đại chúng để chắt lọc, tìm kiếm những tấm gương đạo đức tốt để học hỏi.

+ Thẳng thắn, trung thực bảo vệ công lý, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ người tốt; Chân thành, khiêm tốn, không chạy theo chủ nghĩa thành tích, không bao che, giấu khuyết điểm ….

+ Luôn có ý thức giữ gìn đoàn kết cơ quan đơn vị. Luôn nêu gương trước đảng viên quần chúng. Nêu cao ý thức trách nhiệm công việc.

– Về ý thức tổ chức, kỷ luật, thực hiện tự phê bình và phê bình theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh:

+ Bản thân tôi tự luôn đặt mình trong tổ chức, trong tập thể, phải tôn trọng nguyên tắc, pháp luật, không kéo bè kéo cánh để làm rối loạn gây mất đoàn kết nội bộ.

+ Luôn có ý thức coi trọng tự phê bình và phê bình. Luôn phê phán những biểu hiện xuất phát từ những động cơ cá nhân. Luôn động viên những người thân trong gia đình giữ gìn đạo đức, lối sống, xây dựng gia đình văn hoá.

2. Những mặt chưa làm được hoặc còn tồn tại, hạn chế.

Bên cạnh những ưu điểm, bản thân tôi nhận thấy mình cũng còn những nhược điểm như đôi lúc làm việc còn chưa khoa học, chưa hệ thống. Và tinh thần làm việc đôi lúc chưa thật sự sâu sát, tỉ mỉ. Làm việc còn nhiều lúc hình thức chưa lắng nghe ý kiến góp ý của đồng nghiệp. Trong công tác chuyên môn nhiều lúc phê bình đồng nghiệp còn nóng nảy, gay gắt chưa khéo léo.

3. Phương hướng phấn đấu, rèn luyện tu dưỡng đạo đức lối sống của bản thân theo gương chủ tịch Hồ Chí Minh:

Phấn đấu hoàn thành tốt và giữ vững những kết quả đã đạt được. Luôn là người gương mẫu xứng đáng với niềm tin. Luôn gương mẫu trong các hoạt động, tích cực vận dụng sáng tạo trong giải quyết công việc được giao, phải luôn nêu gương về mặt đạo đức, giữ vững lập trường.

Trong thâm tâm của bản thân cũng như trong mọi hành động, tôi luôn quán triệt tư tưởng sâu sắc trong việc đấu tranh với bản thân để noi theo tấm gương vĩ đại của Người. Song song với việc xây dựng Đảng tùy theo sức và vị trí của mình, bản thân tôi cũng luôn nâng cao tinh thần cảnh giác, chống những luận điệu xuyên tạc và cơ hội về Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Không ngừng nâng cao trình độ của bản thân để thích ứng với điều kiện xã hội mới, áp dụng triệt để và linh hoạt các nguyên tắc của Người tùy theo vị trí của mình như: Tập trung dân chủ, Tự phê bình và phê bình, kỷ luật nghiêm minh tự giác, trong cơ quan cũng như trong cuộc sống cộng đồng.

Đẩy mạnh công tác tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao nghiệp vụ chuyên môn của bản thân. Luôn nêu gương trước đồng nghiệp, học sinh. Tuyên truyền đường lối chính sách pháp luật của Đảng, của nhà nước đến quần chúng nhân dân. Không ngừng tự học để nâng cao chuyên môn nghiệp vụ. Chống các biểu hiện suy thoái về phẩm chất đạo đức. Luôn tu dưỡng đạo đức phẩm chất nhà giáo, không ngừng tự học suốt đời.

………….., ngày…… tháng …… năm …………

Người viết thu hoạch

5. Bài thu hoạch học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách hồ chí minh

Qua học tập tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh chuyên đề năm 2016 về “Trung thực, trách nhiệm, gắn bó với nhân dân, đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh”, tôi xin trình bày những nhận thức của mình về “Trung thực, trách nhiệm, gắn bó với nhân dân, đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh”; tự liên hệ bản thân về chủ đề “Trung thực, trách nhiệm, gắn bó với nhân dân, đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh” theo tư tưởng Hồ Chí Minh như sau:

I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ “TRUNG THỰC, TRÁCH NHIỆM; GẮN BÓ VỚI NHÂN DÂN; ĐOÀN KẾT, XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH”

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về trung thực, trách nhiệm

1.1. Về trung thực,”nói thì phải làm”

Trung thực là một phẩm chất đạo đức, thể hiện sự thống nhất giữa tư tưởng và hành động, nhận thức và việc làm; giữa tư tưởng đạo đức và hành vi đạo đức của mỗi người. Trong quan hệ giữa người với người, Hồ Chí Minh coi trung thực là nói đi đôi với làm. Nói đi đôi với làm là nguyên tắc thực hành đạo đức, là phương châm hoạt động, là biểu hiện sinh động cụ thể của việc quán triệt sâu sắc nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, giữa suy nghĩ và hành động trong một con người.

Trung thực trước hết là với Đảng với cách mạng. Xây dựng, rèn luyện bản lĩnh vững vàng, có niềm tin vào mục tiêu lý tưởng cách mạng của Đảng, thì dù phải trải qua những tình huống phức tạp, những bước ngoặt hiểm nghèo, vẫn luôn luôn trung thực với mình, trung thành với Đảng, với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, vì tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Phải nói và làm đúng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, chống chủ nghĩa cá nhân, không được vì lợi ích cá nhân mà xuyên tạc, nói sai, làm sai. Nắm vững mục tiêu lý tưởng của Đảng và được cụ thể hóa thành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong từng giai đoạn để thực hiện cho đúng, để tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân làm theo cho đúng.

Trung thực, thống nhất giữa lời nói và việc làm, “không được nói một đàng, làm một nẻo” là sự thể hiện sự trung thực với chính mình. Nếu chính mình tham ô mà bảo người khác liêm khiết thì không được và là sự giả dối. Nếu kêu gọi mọi người cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư, mà bản thân mình lại lười biếng, không cần, kiệm, không hoàn thành những công việc được giao, luôn tìm cách tham ô tiền của Nhà nước và nhân dân, sống hoang phí, xa hoa…, là giả dối, không trung thực.

Đối với chính mình, phải đúng mực với người khác, không được “hứa mà không làm”. Mỗi cán bộ, đảng viên “Nói ít, bắt đầu bằng hành động”; “tốt nhất là miệng nói, tay làm, làm gương cho người khác bắt chước”. Cán bộ, đảng viên “cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh… phải thật thà nhúng tay vào việc”.

Đối với Đảng, phải luôn luôn tự đổi mới, tự chỉnh đốn để hoàn thành trách nhiệm, lời hứa trước nhân dân. Khi mắc sai lầm, khuyết điểm thì dũng cảm nhận lỗi trước dân và kiên quyết dựa vào dân để sửa chữa khuyết điểm.

1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về trách nhiệm

Trách nhiệm là việc phải làm không thể thoái thác, dù ở cương vị nào, to hay nhỏ, lớn hay bé, mỗi người đều có ‘bổn phận”. Ý thức trách nhiệm là tự ý thức được về các công việc phải làm, “nhận rõ phải, trái, đúng sai”, tự mình xác định việc cần làm. Trên cơ sở có ý thức đúng đắn, tự giác, tích cực thực hiện trách nhiệm của mình là “có tinh thần trách nhiệm cao”.

Trước hết là trách nhiệm với Tổ quốc. Theo Hồ Chí Minh, mọi cán bộ, đảng viên, công chức luôn có trách nhiệm thiêng liêng, cao cả đối với Tổ quốc, với sự sống còn của quốc gia, dân tộc. Trách nhiệm ấy được thể hiện ở tinh thần đấu tranh quên mình cho độc lập, tự do, thống nhất đất nước; phấn đấu cho đất nước giàu mạnh, phấn đấu cho CNXH.

Trách nhiệm đối với nhân dân. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, công chức với nhân dân được bắt nguồn từ nguyên lý: “Nước lấy dân làm gốc”, “Sự nghiệp cách mạng là do nhân dân tiến hành”, “Nhân dân là người làm ra lịch sử”… Cán bộ, đảng viên, công chức phải “hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân”. Để làm được việc đó, cán bộ, đảng viên công chức còn phải thường xuyên tuyên truyền, giáo dục cho nhân dân nắm vững quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; lãnh đạo quần chúng nhân dân thực hiện thắng lợi các đường lối, chính sách ấy, Người chỉ rõ: “Mỗi đảng viên là một người thay mặt cho Đảng trước quần chúng, giải thích chính sách của Đảng và của Chính phủ cho quần chúng hiểu rõ và vui lòng thi hành”. Cán bộ, đảng viên, công chức phải sâu sát, gần gũi quần chúng, chăm lo giúp đỡ quần chúng về mọi mặt; phải “trọng dân, sát dân, tin dân”, phấn đấu sao cho “dân phục, dân tin, dân yêu”; phải “… lắng nghe ý kiến và nguyện vọng của nhân dân, học hỏi kinh nghiệm của nhân dân, “việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc với dân chúng, giải thích cho dân chúng… Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết”.

Trách nhiệm của cán bộ, đảng viên là phải nêu gương trước quần chúng về mọi mặt. Sự gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên có vai trò rất to lớn để biến đường lối, chủ trương của Đảng thành hiện thực. “Người đảng viên – dù công tác to hay nhỏ, địa vị cao hay thấp – ở đâu cũng phải làm gương mẫu cho quần chúng… Muốn cho quần chúng nghe lời mình, làm theo mình, thì người đảng viên, từ việc làm, lời nói đến cách ăn ở đều phải gương mẫu”; phải kính trọng dân, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, tuyệt đối không được có thái độ “vác mặt làm quan cách mạng”, không được hách dịch, nhũng nhiễu nhân dân.

Trách nhiệm đối với Đảng. Tất cả đảng viên phải kiên định với tôn chỉ, mục đích, mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Đảng viên phải quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc đường lối, chủ trương, nghị quyết do Đảng đề ra; thực hiện tốt các nhiệm vụ của người đảng viên; chấp hành nghiêm Điều lệ, kỷ luật Đảng; tích cực tham gia xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh; luôn giữ vững tính tiền phong, gương mẫu của người đảng viên. Mỗi đảng viên phải ra sức học tập chủ nghĩa Mác – Lênin để nâng cao trình độ giác ngộ, để hăng hái đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng, luôn đặt lợi ích của Đảng lên trên, lên trước lợi ích của cá nhân mình.

Trách nhiệm với bản thân, gia đình, quê hương

Là một thành viên của xã hội, của tổ chức, mỗi người giữ một vị trí xã hội nhất định, hoạt động trong một lĩnh vực nhất định và thực hiện một công việc nhất định. Do vậy, hoàn thành nhiệm vụ được giao là kết quả thực hiện tốt trách nhiệm với bản thân, gia đình, quê hương. Cán bộ, đảng viên, công chức phải chăm lo xây dựng gia đình, dòng họ, quê hương… Phải giáo dục cho các thế hệ trong gia đình, dòng họ về lòng yêu nước, về trách nhiệm xã hội, về ý chí vươn lên trong học tập và công tác, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Đặc biệt, tất cả đảng viên phải quan tâm giáo dục cho con cháu về đạo đức, lối sống lành mạnh, nhất là tinh thần cần kiệm, liêm chính, lòng nhân ái, tình đoàn kết cộng đồng; biết kế thừa, phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình, dòng họ, quê hương và của toàn dân tộc.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về gắn bó với nhân dân

Theo Hồ Chí Minh nhân dân là nguồn gốc của mọi sức mạnh. Người viết: “…Trong bầu trời không gì quí bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. “Cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người”. Khi nói về thắng lợi của Cách mạng tháng 8/1945, Hồ Chí Minh nói: “Nhất là vì lực lượng của cuộc toàn dân đoàn kết. Tất cả các dân tộc, các giai cấp, các địa phương, các tôn giáo đều nổi dậy theo lá cờ Việt Minh để tranh lại quyền độc lập cho Tổ quốc. Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết…, “Trong công cuộc kháng chiến kiến quốc, lực lượng chính là ở dân.

Để gắn bó với dân, giữ vững mối liên hệ giữa cán bộ, đảng viên và nhân dân, Người yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên, công chức phải:

– “Nhận rõ phải, trái. Giữ gìn lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân. Mọi việc thành hay bại là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay là không”.

+ Cán bộ của Đảng, Nhà nước “cần phải xung phong, gương mẫu trong sản xuất và trong công tác, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, luôn luôn trau dồi đạo đức cách mạng, cần kiệm, liêm chính”.

+ Với mỗi đảng viên “Bất kỳ khó khăn đến mức nào cũng kiên quyết làm đúng chính sách và nghị quyết của Đảng, làm gương cho quần chúng. Mọi đảng viên phải nâng cao tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, trước Đảng, phải kiên quyết chống lại chủ nghĩa cá nhân”;

“…Vô luận trong hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết. Nếu lợi ích của Đảng và lợi ích cá nhân mâu thuẫn với nhau, thì lợi ích cá nhân phải tuyệt đối phục tùng lợi ích Đảng”.

+ “Cán bộ đảng viên phải nâng cao tinh thần phụ trách trước Đảng và trước quần chúng, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Phải kính yêu nhân dân. Phải tôn trọng thật sự quyền làm chủ của nhân dân. Tuyệt đối không được “kiêu ngạo, công thần, tự cao, tự đại”… Người dạy: “Cơm của chúng ta ăn, áo của chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng đều là mồ hôi, nước mắt của nhân dân mà ra. Vì vậy chúng ta phải đền ơn xứng đáng cho nhân dân. Chớ vác mặt làm quan cách mạng để dân ghét, dân khinh, dân không ủng hộ”.

3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh

3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết

Tư tưởng đoàn kết nổi bật của Người là: “Đoàn kết làm ra sức mạnh”, “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”; “Đoàn kết là thắng lợi”; ” Đoàn kết là then chốt của thành công”. “Đoàn kết” là điểm mẹ, điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt. “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.

Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng; phải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ trương của của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong mọi giai đoạn cách mạng. Đại đoàn kết toàn dân là mục đích phấn đấu của Đảng Cộng sản, “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm 8 chữ là ” đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”. Khái niệm dân, nhân dân, đồng bào là một tập hợp đông đảo quần chúng, là “mọi con dân nước Việt”,”mỗi một người con Rồng cháu Tiên”, không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, “già, trẻ, gái trai, giàu nghèo, quý tiện”. Hồ Chí Minh nhiều lần nêu rõ: “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”.

Đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết của dân tộc. Đại đoàn kết dân tộc dựa trên nền tảng của khối liên minh công nông, tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Hồ Chí Minh viết “Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất”. Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc với lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng.

Đoàn kết toàn dân là đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Người nêu rõ: “Chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ các tầng lớp nhân dân.. .; phải đoàn kết tốt các đảng phái, các đoàn thể, các nhân sĩ trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thực hiện hợp tác lâu dài, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau tiến bộ; phải đoàn kết các dân tộc anh em, cùng nhau xây dựng Tổ quốc.. .; phải đoàn kết chặt chẽ đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hoà thuận, ấm no, xây dựng Tổ quốc”. “Đoàn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thật sự nghĩa là vừa đoàn kết vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau, phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân”.

Đảng Cộng sản vừa là thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận, có trách nhiệm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng vững chắc. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là của giai cấp công nhân, vừa là của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Vì vậy, “đại đoàn kết dân tộc.. . thành vấn đề máu thịt của Đảng”. Muốn quy tụ được cả dân tộc, Đảng phải: “Vừa là đạo đức, vừa là văn minh”; “Đảng phải thực sự đoàn kết nhất trí”; “được nhân dân thừa nhận”. Người viết: “Đảng không thể thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”.

3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh

3.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng

Theo Hồ Chí Minh, vai trò của Đảng chính trị không chỉ trong cuộc đấu tranh giai cấp mà cả trong đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, công tác xây dựng Đảng chiếm một vị trí quan trọng. Người luôn khẳng định, trong sự nghiệp đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước luôn luôn đòi hỏi một Đảng trong sạch, vững mạnh, có tầm cao trí tuệ, sức chiến đấu, gắn bó với nhân dân, đủ năng lực lãnh đạo nhân dân trong mọi giai đoạn của cách mạng.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng tập trung vào những điểm chủ yếu sau:

Một là, cách mạng cần có Đảng. Cách mạng Việt Nam muốn thắng lợi “trước hết phải có đảng cách mệnh”. “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt”. “Chủ nghĩa” mà Người đề cập ở đây là chủ nghĩa Mác – Lênin.

Hai là, xây dựng Đảng là phải thực hiện tốt các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng. Vận dụng và phát triển những nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng vô sản kiểu mới do V.I.Lênin đề ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu các nguyên tắc chủ yếu là: Nguyên tắc tập trung dân chủ; Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; Nguyên tắc tự phê bình và phê bình; Kỷ luật nghiêm minh, tự giác.

Ba là, quan tâm xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài để Đảng xứng đáng “là đạo đức, là văn minh”.

Đây là sự phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh học thuyết của V.I.Lênin về đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Để đảng thực sự”là đạo đức, là văn minh” phải quan tâm xây dựng đội ngũ đảng viên của Đảng có phẩm chất, tư cách và năng lực hoạt động.

Bốn là, tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với dân, vì “Đảng là con nòi của dân tộc”; mục đích của Đảng là “Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”. Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Mỗi đảng viên phải bằng hành động thực tế của mình để có niềm tin yêu của nhân dân, chứ không phải “dán lên trán hai chữ cộng sản” là được dân tin, dân yêu, dân kính, dân phục. Đảng thường xuyên lắng nghe ý kiến của nhân dân, hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; tổ chức và vận động nhân dân tham gia xây dựng Đảng. Đảng phải nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với dân; phải “…không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.

Năm là, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn là yêu cầu của sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Trong điều kiện cách mạng chuyển sang giai đoạn mới càng cần quan tâm đến công tác xây dựng Đảng; “việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng…”

3.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết trong công tác xây dựng Đảng

Trong công tác xây dựng Đảng, Hồ Chí Minh khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của đoàn kết. Nội dung đoàn kết xây dựng Đảng trong tư tưởng Hồ Chí Minh tập trung lại gồm các điểm sau:

II. NHẬN THỨC VỀ “TRUNG THỰC, TRÁCH NHIỆM; GẮN BÓ VỚI NHÂN DÂN; ĐOÀN KẾT, XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH” THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

1. Về trung thực, trách nhiệm

2. Về gắn bó với Nhân dân

3. Về đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh

Tăng cường đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh cần tập trung vào những nội dung, công việc chính sau đây:

Một là, nâng cao phẩm chất trí tuệ của Đảng, xây dựng, hoàn thiện đường lối đổi mới, đề ra các chủ trương, giải pháp phù hợp cho giai đoạn phát triển mới

Hai là, quan tâm đến công tác xây dựng Đảng, thực sự coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt ở tất cả các cấp, các ngành.

Ba là, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng

Bốn là, giải quyết tốt mối quan hệ với dân.

III. LIÊN HỆ

1. Đối với bản thân

Là đảng viên, Bí thư chi bộ, Trưởng phòng Chế độ BHXH, bản thân tôi nhận thấy học tập và làm theo tâm gương đạo đức Hồ Chí Minh về “Trung thực, trách nhiệm, gắn bó với nhân dân; đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh” là chuyên đề quan trọng về tính trung thực, tinh thần trách nhiệm; đoàn kết, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, một tài liệu học tập rất bổ ích, thiết thực của mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và lao động hợp đồng trong hệ thống BHXH tỉnh Gia Lai để tu dưỡng phẩm chất đạo đức, rèn luyện phương pháp và tác phong làm việc, nhằm thực hiện ngày càng tốt hơn nhiệm vụ công tác của mình.

2. Đối với tập thể đơn vị

Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn của Đảng và nhà nước, là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, bị thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc bị chết, góp phần giữ vững trật tự, an toàn xã hội và chính sách an sinh xã hội của Đảng và nhà nước. Với ý nghĩa mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc đó, ngành bảo hiểm xã hội nói chung, bảo hiểm xã hội tỉnh Gia Lai nói riêng đã khắc phục mọi khó khăn, đoàn kết, thống nhất, tích cực thực hiện các chế độ BHXH, BHYT đảm bảo kịp thời, đầy đủ, đúng quy định của pháp luật, đem lại niềm tin và đáp ứng được quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của người lao động tham gia BHXH, BHYT và người hưởng các chế độ BHXH, BHYT. Để thực hiện tốt nhiệm vụ có ý nghĩa lớn lao đó, trong những năm qua, Cấp uỷ Chi bộ, đảng viên, viên chức phòng Chế độ BHXH với tinh thần trách nhiệm cao đã lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng quy định các chế độ BHXH cho người lao động, góp phần thực hiện hiện thắng lợi nhiệm vụ của ngành và nhiệm vụ chính trị trên địa bàn tỉnh.

Tiếp tục thực hiện cuộc vận động “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về trung thực, trách nhiệm, gắn bó với nhân dân; đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh”, Cấp uỷ chi bộ, cán bộ quản lý và toàn thể đảng viên, viên chức phòng chế độ BHXH xây dựng chương trình hành động, kế hoạch thực hiện tập trung vào một số vấn đề cơ bản sau:

III. MỘT SỐ NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CUỘC VẬN ĐỘNG HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VỀ “TRUNG THỰC, TRÁCH NHIỆM, GẮN BÓ VỚI NHÂN DÂN; ĐOÀN KẾT XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH”

1. Về trung thực, trách nhiệm, gắn bó với nhân dân

Thường xuyên giữ mối quan hệ chặt chẽ và tranh thủ sự quan tâm chỉ đạo của BHXH Việt Nam, Cấp ủy, Chính quyền địa phương; sự phối hợp của các Sở, Ban, Ngành liên quan từ tỉnh đến huyện. Xác định công tác BHXH có tính chất chính trị, kinh tế, xã hội tổng hợp nhằm phục vụ người lao động tham gia và người hưởng các chế độ BHXH.

Phải coi công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, chế độ BHXH là một trong những nhiệm vụ cơ bản, quan trọng hàng đầu trong công tác BHXH. Các chính sách, chế độ BHXH phải được tổ chức thực hiện đầy đủ, chính xác, kịp thời, đúng quy định. Tăng cường kiểm tra công tác giải quyết và chi trả các chế độ BHXH; quản lý chặt chẽ hồ sơ, theo dõi, quản lý dữ liệu người hưởng các chế độ BHXH.

Tập trung phát triển đối tượng tham gia BHXH, hướng đến mục tiêu mọi người lao động đều được tham gia BHXH theo Chương trình số 55-CTr/TU của Tỉnh ủy Gia Lai thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW của Bộ chính trị “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012-…………”. Phấn đấu đến năm ………… có 15% lực lượng lao động tham gia BHXH.

Đảm bảo chi trả các chế độ BHXH cho các đối tượng thụ hưởng kịp thời, đầy đủ, chính xác. Tiếp tục ký hợp đồng dịch vụ chi trả và quản lý người hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng qua hệ thống Bưu Điện nhằm phục vụ người hưởng ngày càng tốt hơn.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền chính sách, pháp luật về BHXH, BHYT; đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, để mọi tầng lớp nhân dân nhận thức đầy đủ về quyền lợi khi tham gia BHXH, BHYT như tuyên truyền, phổ biến chính sách, chế độ BHXH, BHYT trên các phương tiện thông tin đại chúng, tờ rơi, pa-nô, áp-phích, nhất là tổ chức thực hiện đối thoại trực tiếp với đơn vị sử dụng lao động, người lao động và nhân dân.

Thẩm định, xét duyệt hồ sơ hưởng chế độ BHXH cho người lao động kịp thời, đúng quy trình, quy định. Tiếp tục rà soát đơn vị và người tham gia BHXH, hướng đến xây dựng cơ sở dữ liệu tập trung đối tượng tham gia.

Tiếp công dân và giải quyết kịp thời đơn thư khiếu nại tố cáo của công dân theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo; hạn chế tình trạng khiếu kiện của công dân về giải quyết chế độ chính sách. Kiểm tra việc thực hiện luật BHXH tại các đơn vị theo kế hoạch kiểm tra hàng năm.

Đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng phần mềm công nghệ thông tin trong công tác tiếp nhận, giải quyết chế độ chính sách và các lĩnh vực công tác khác; Triển khai nhiều giải pháp để thực hiện chương trình cắt giảm số giờ giải quyết thủ tục hành chính về BHXH chỉ còn 49,5 giờ theo mục tiêu Chính phủ giao cho Ngành.

Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo đức, lối sống; nâng cao trình độ nghiệp vụ, năng lực quản lý, năng lực thực hiện cho cán bộ, viên chức, nhất là đội ngũ cán bộ, viên chức quản lý; nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần phục vụ người lao động tham gia và người hưởng các chế độ BHXH.

Giữ vững sự đoàn kết, thống nhất trong tập thể cơ quan, đơn vị; thực hiện đầy đủ Quy chế dân chủ ở cơ sở; quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ, viên chức; thực hiện tốt công tác thi đua, khen thưởng và nêu gương, biểu dương các điển hình tiên tiến.

Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy, xây dựng quy hoạch cán bộ quản lý giai đoạn 2016 – …………. Thực hiện đầy đủ các chế độ đối với cán bộ, công chức, viên chức và lao động hợp đồng theo quy định. Đào tạo, đào tạo lại đội ngũ công chức, viên chức đáp ứng yêu cầu phát triển Ngành.

Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo tinh thần chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị, coi đây là nhiệm vụ quan trọng của ngành.

2. Về đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh

Xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng trên cơ sở quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng, Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng cấp trên.

Đoàn kết thống nhất trong Đảng dựa trên cơ sở tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ. Thường xuyên bồi dưỡng tình thân ái, tình đồng chí cho cán bộ, đảng viên. Thái độ chân thành, cởi mở, tôn trọng lẫn nhau, tính khiêm tốn, biết thông cảm, hết lòng giúp đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ là những nét tiêu biểu của tình đoàn kết cộng sản. Việc thiết thực nhất để rèn luyện đạo đức cách mạng trong giai đoạn hiện nay là cấp ủy chi bộ và đảng viên, viên chức nghiêm túc thực hiện và thực hiện hiệu quả, chất lượng việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.

Thường xuyên nghiêm túc tự phê bình và phê bình là một phương pháp rất căn bản để tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng nhằm giải quyết hài hòa những mâu thuẫn, tạo nên sự nhất trí cao trong Đảng. Xác định rõ mục đích của tự phê bình và phê bình là nhằm phát huy ưu điểm, tìm ra khuyết điểm để giúp nhau sửa chữa, nâng cao nhận thức, giải quyết những bất đồng nội bộ. Mặt khác, cần nghiêm khắc phê phán lợi dụng phê bình để đả kích lẫn nhau. Tự phê bình phải gắn với “tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”, nhưng càng yêu bao nhiêu lại càng phải “yêu cầu” bấy nhiêu.

Đổi mới và nâng cao chất lượng nội dung sinh hoạt chi bộ, tổ chức sinh hoạt chuyên đề mỗi quý một lần. Trong sinh hoạt chi bộ cần động viên, khuyến khích và tạo thuận lợi phát huy khả năng, trí tuệ, sáng tạo và tinh thần đóng góp ý kiến của mỗi đảng viên để giải quyết những vấn đề vướng mắc, bất cập, trên cơ sở đó xây dựng nghị quyết của chi bộ đảm bảo chất lượng, khả thi. Tích cực đào tạo, bồi dưỡng, giúp đỡ viên chức rèn luyện, phấn đấu trở thành quần chúng ưu tú để phát triển đảng viên. Đăng ký thi đua hàng năm làm cơ sở cho công tác đánh giá chất lượng đảng viên và xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh.

TÓM LẠI

Ngày nay đất nước ta đang đứng trước những thời cơ và những thách thức đan xen, việc xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh đủ sức lãnh đạo cách mạng giành thắng lợi mới là điều quan trọng. Muốn vậy phải tăng cường công tác giáo dục đạo đức trong Đảng về tính trung thực, tính trách nhiệm về sự gắn bó máu thịt với nhân dân, đoàn kết xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đẩy mạnh và thường xuyên thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng đảng”, đặc biệt là đấu tranh chống suy thoái về chính tri, tư tưởng, đạo đức lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.

Việc xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh có vai trò quyết định đến việc bảo vệ chế độ Chính trị, con đường phát triển của đất nước lên Chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để xây dựng Đảng vững mạnh, ngang tầm với đòi hỏi của dân tộc và thời đại, Đảng phải luôn tự chỉnh đốn mình, đoàn kết và có quan hệ máu thịt với nhân dân, phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, kiên quyết giải quyết dứt điểm hiện tượng gây mất đoàn kết trong nội bộ Đảng. Mỗi cán bộ đảng viên chúng ta – với tư cách là người lãnh đạo, thì người lãnh đạo ấy phải có trách nhiệm xây dựng Đảng, với tư cách là đảng viên, thì người đảng viên ấy phải gương mẫu tự mình rèn luyện phẩm chất, tư cách…

Trong giai đoạn cách mạng hiện nay chúng ta cần tiếp tục vận dụng và phát triển những quan điểm, tư tưởng về “trung thực, trách nhiệm, gắn bó với nhân dân; đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh” của Hồ Chí Minh để xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch vững mạnh, ngang tầm với nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng trong giai đoạn cách mạng mới. Đặc biệt là tổ chức thực hiện hiệu quả, chất lượng Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần thứ XV và Nghị quyết Đại hội lần thứ VII Đảng bộ cơ sở BHXH tỉnh Gia Lai gắn với việc thực hiện chủ đề “Tăng cường kỷ cương, trách nhiệm, hiệu quả, thực hiện tốt chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế” và năm chuẩn mực đạo đức đối với cán bộ, công chức, viên chức, lao động hợp đồng của Ngành Bảo hiểm xã hội./.

6. Bài thu hoạch học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

Thấm nhuần tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Người luôn chăm lo giáo dục và rèn luyện cho cán bộ Đảng viên và mọi người dân về phẩm chất đạo đức cách mạng. Người là tấm gương sáng về đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính”. Người luôn luôn vận động mọi người dân chúng ta thi đua thực hành tiết kiệm để xây dựng tổ quốc!

Hồ Chủ tịch đã dạy chúng ta: “Tiết kiệm không phải là bủn xỉn, gặp việc đáng làm cũng không làm, đáng tiêu cũng không tiêu. Tiết kiệm không phải là ép bộ đội, cán bộ và nhân dân nhịn ăn, nhịn mặc. Trái lại, tiết kiệm cốt để giúp tăng gia sản xuất, mà tăng gia sản xuất mà để dần dần nâng cao mức sống của bồ đội, cán bộ và nhân dân. Nói theo lối khoa học, thì tiết kiệm là tích cực, chứ không phải là tiêu cực”

– Theo lời dạy của Bác Hồ, chúng ta phải hiểu rằng: Tiết kiệm không có nghĩa là không chi tiêu, nhịn ăn, nhịn mặc. Tiết kiệm là sử dụng các nguồn lực và chi tiêu một cách hợp lý, phù hợp với hoàn cảnh gia đình, không hoang phí.

Người dân Việt Nam đã có truyền thống tốt đẹp về cần cù, chịu thương, chịu khó và tiết kiệm.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cao 4 đức tính tốt đẹp “Cần, kiệm, liêm, chính” để thầy rằng “kiệm” đã trở thành 1 trong 4 đức tính tốt đẹp của con người, dù là khi đất nước còn khó khăn hay khi đất nước đã phồn thịnh. “Cần” và “Kiệm” phải đi đôi với nhau. Cần mà không kiệm thì làm chứng nào, xào chừng ấy. Kiệm mà không cần thì không tăng thên, không phát triển được.

Nền kinh tế nước ta qua 20 năm đổi mới đã có bước phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện. Tuy nhiên, cho đến nay, nước ta vẫn là một nước nghèo, đời sống một bộ phận người dân vẫn còn khó khăn, thiếu thốn. Để xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, đảm bảo đời sống người dân thì nền kinh tế của nước ta cần được phát triển. Muốn xây dựng và phát triển kinh tế, thì phải có tiền của để làm vốn. Muốn có vốn thì chúng ta phải vừa đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, vừa thực hành tiết kiệm để tăng thêm tích luỹ cho nền kinh tế quốc gia cũng như kinh tế gia đình. Vì vậy, việc thực hành tiết kiệm có một ý nghĩa to lớn nhằm góp phần tích luỹ để thúc đẩy và phát triển sản xuất.

Ông cha ta có câu: “Miệng ăn núi lở”, ý nói: Nếu một người có một núi của cải mà chỉ biết sử dụng, không lo làm ăn, không biết tiết kiệm đề bù đắp, tăng thêm thì dần dần cũng dẫn đến đói nghèo.

Đặc biệt, hiện nay tiết kiệm đã trở thành chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Luật chống tham nhũng và Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí đã được ban hành cho thấy vai trò to lớn của vấn đề TK, tiết kiệm được coi là quốc sách.

Chúng ta có thể thực hành tiết kiệm ở tất cả các lĩnh vực của cuộc sống hàng ngày, từ sản xuất đến tiêu dùng, từ gia đình đến cộng đồng, xã hội. Bất kể lĩnh vực nào cũng có thể thực hành tiết kiệm được.

Để thực hành tiết kiệm theo tấm gương của Hồ Chí Minh và chủ trương của Đảng, Nhà nước, chúng ta phải:

Thấm nhuần đạo đức tư tưởng Hồ Chí Minh bản thân tôi đang sống và làm việc tại xí nghiệp may 3 Công ty 20. Tôi luôn luôn tự nhủ mình phải sống và rèn luyện cho bản thân mình theo tấm gương sáng của Hồ Chí Minh. Luôn xây dựng tinh thần đoàn kết nội bộ thi đua thực hành tiết kiệm, không xa hoa lãng phí, biết tiết kiệm vật chất cũng như thời gian làm việc, lao động sản xuất có hiệu quả có chất lượng cao đem lại nhiều lợi ích cho xí nghiệp. Không đi muộn về sớm, không né tránh “dễ làm, khó bỏ” hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được tổ chức giao phó. Luôn luôn học hỏi sáng tạo trong công việc để tiết kiệm được nhiều của cải vật chất cho xí nghiệp. Sẵn sàng giúp đỡ những đồng sự yếu kém cùng tiến bộ. Vận động mọi người thi đua thực hiện tốt mọi nội quy, quy chế của xí nghiệp và công ty đề ra. Lao động có kỹ thuật, kỷ luật và đạt năng suất cao.

Hoàn thành vượt mức kế hoạch được giao. Xây dựng Công ty may 3 trở thành xí nghiệp vững mạnh toàn diện, xứng đáng lá cờ đầu của công ty 20 đã và đang phát triển hùng mạnh trong thời kỳ đổi mới.

Mời bạn đọc cùng tham khảo thêm tại mục giáo dục đào tạo trong mục biểu mẫu nhé.

Chia sẻ

  • Đã sao chép

Bài thu hoạch chuyên đề năm 2021 học tập và làm theo tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh

THPT Sóc Trăng Send an email

0 49 phút

Bài thu hoạch học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách hồ chí minh

THPT Sóc Trăng mời các bạn tham khảo bài thu hoạch học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh năm 2021 trong bài viết này. Chuyên đề năm 2021 là xây dựng ý thức tôn trọng Nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống Nhân dân theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Bài thu hoạch chuyên đề 2021 – Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc

Bài viết gần đây

  • Bài thu hoạch học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách hồ chí minh

    Đáp án cuộc thi Bác Hồ với Thái Bình Thái Bình làm theo lời Bác

  • Bài thu hoạch học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách hồ chí minh

    Đáp án thanh niên với văn hóa giao thông 2021 – Tuần 3

  • Bài thu hoạch học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách hồ chí minh

    Cuộc thi tìm hiểu “Bác Hồ với Thái Bình – Thái Bình làm theo lời Bác”

  • Bài thu hoạch học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách hồ chí minh

    Mẫu bài dự thi cuộc thi “Tìm hiểu Bộ luật Hình sự năm 2015” trên địa bàn tỉnh Lào Cai năm 2018

Nội dung

  • 1 Bài thu hoạch học tập và làm theo tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh
    • 1.1 1. Hướng dẫn làm bài thu hoạch học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh 2021
    • 1.2 2. Bài thu hoạch học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh 2021 (Mẫu 1)
    • 1.3 3. Bài thu hoạch tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh (mẫu số 2)
    • 1.4 4. Bài thu hoạch tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh (mẫu số 3)
    • 1.5 5. Bài thu hoạch tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh (mẫu số 4)

Download Bài thu hoạch học tập và làm theo phong cách Hồ Chí Minh - Bài thu hoạch từ cuộc vận động học tập phong cách sống Bác Hồ

Học tập và làm theo tấm gương đại đức Hồ Chí Minh là cuộc vận động lớn của toàn Đảng toàn quân và toàn dân ta với nhiều nội dung kiến thức phong phú có tính thực tiễn thiết thực. Nội dung tài liệu hay về bài thu hoạch học tập và làm theo phong cách Hồ Chí Minh dưới đây sẽ là tài liệu bổ ích dành cho các bạn đọc giả trong quá trình học tập, nghiên cứu.

Phong cách Hồ Chí Minh là một hệ thống chỉnh thể, có mối quan hệ chặt chẽ logic và gắn bó với nhau, đi từ phong cách tư duy đến phong cách diễn đạt, biểu hiện cụ thể rõ nét trong phong cách làm việc, phong cách ứng xử và phong cách sinh hoạt hằng ngày của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.

Cũng có nhiều nội dung tương tự là bài thu hoạch học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh với những tổng hợp nội dung về việc học tập theo tư tưởng và đạo đức Bác Hồ vĩ đại, nội dung chính của bài thu hoạch học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh nhấn mạnh vào việc Đảng viên rút ra được những gì qua việc học tập hệ tư tưởng Hồ Chí Minh trên nhiều phương diện, từ đó rút ra những bài học cho mình.

Bài thu hoạch học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách hồ chí minh

Bài thu hoạch học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách hồ chí minh

Bài thu hoạch học tập và làm theo phong cách Hồ Chí Minh trình bày nêu rõ 3 phong cách tiêu tiểu trong tư tưởn đạo đưc của người là: Phong cách dân chủ, phong cách quần chúng, phong cách nêu gương.

Thấm nhuần tư tưởng qua quá trình học tập nghiên cứu theo phong cách của Chủ tich Hồ Chí Minh đê lại cho người học nhiều nhận thức cụ thể:

+ Phong cách quần chúng: Nguồn gốc của phong cách này là bắt nguồn từ quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, quần chúng chính là người sáng tạo nên lịch sử, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, người luôn chăm lo cho quần chúng, coi quần chúng chính là nguồn sức mạnh to lớn nhất mang tới thắng lợi cho sự nghiệp cách mạng. Bởi vậy Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu các cán bộ Đảng viên phải luôn gần với dân, hiểu được tâm tư của dân, nắm được nguyện của người dân, bên cạnh đó là người chiến sĩ cán bộ Đảng Viên phải phải biết hy sinh vì lợi ích của tập thể, hy sinh vì lợi ích của nhân dân, đây được đánh giá là một ý nghĩa hết sức quan trọng đối với cán bộ Đảng viên trong giai đoạn phát triển hiện nay.

+ Phong cách dân chủ: Phong cách dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện rõ nét ở việc người luôn yêu cầu các cán bộ Đảng Viên của mình phải biết đặt mình vào tập thể, phải biết lắng nghe ý kiến của tập thể, biết vận dụng phát huy sức mạnh của tập thể như vậy mới có được những thắng lợi to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Là người lãnh đạo phải nắm được ưu điểm, khuyết điểm của bản thân mình, coi trọng yếu tố dân chủ để phát huy được sức mạnh của tập thể, phải biết nhận trách nhiệm về bản thân mình, luôn cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ mà tập thể giao phó, tuân thủ theo nguyên tắc tập trung dân chủ.

+ Phong cách nêu gương: Nêu gương trong phong cách Hồ Chí Minh, người luôn nhấn mạnh bản thân mình không được tự cao, tự mãn, không được kiêu ngạo, luôn biết học tập, phấn đấu, biết tự kiểm điểm để phát triển bản thân, giữ thái độ khiêm tốn, chân thành, không được dối trá, lười lọc, lừa dân. Nói phải đi đôi với làm.

Kế hoạch học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cũng là một trong những nội dung quan trọng nhất trong quá trình phấn đấu rèn luyện của Đảng viên, nội dung của bản kế hoạch học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh gồm có các cam kết về tinh thần trách nhiệm trong công việc và phong cách đạo đức.

Các bạn tham khảo bài thu hoạch nghị quyết Trung ương 5 khóa XII của Đảng viên cũng là một bài thu hoạch quan trọng với nội dung về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ngoài ra trong bài thu hoạch nghị quyết Trung ương 5 khóa XII của Đảng viên các Đảng viên sẽ bày tỏ quan điểm, cách nhìn nhận về những nội dung có trong Nghị quyết.

Trong giai đoạn phát triển hiện nay, học tập và làm theo tấm gướng đạo đức Hồ Chí Minh, bản thân mỗi tổ chức Đảng, cán bộ, đảng viên, cán bộ công nhân viên phải luôn có ý thức tự giác tu dưỡng, rèn luyện, thể hiện được cả trong suy nghĩ lẫn hành động, trong quan hệ với dân, với đồng chí, đồng nghiệp. Nội dung mẫu bài thu hoạch học tập và làm theo phong cách Hồ Chí Minh đươc Tải Miễn Phí cập nhật chọn lọc, cụ thể nhiều nội dung hay, bạn đọc có thể tham khảo hoặc tải về máy tính để làm tài liệu nghiên cứu lâu dài.

Bên cạnh bài thu hoạch này, thì bài thu hoạch chính trị hè cũng được nhiều người quan tâm, đặc biệt là các cán bộ đảng viên nằm trong danh sách học chính trị hè và bài thu hoạch chính trị hè sẽ giúp các cán bộ hoàn thiện được bài viết của mình về cả hình thức lẫn nội dung.

Hay bạn có thể tham khảo mẫu bản đăng ký học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, biểu mẫu được sử dụng cho cán bộ công nhân viên chức, để thực hiện cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, bạn đọc cùng tham khảo thêm mẫu bản đăng ký học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để hiểu hơn nhé.

Mới nhất hiện nay là mẫu bài thu hoạch chính trị hè 2017 dành cho các cán bộ giáo viên sau mỗi dịp học tập chính trị, chúng tôi cung cấp bài thu hoạch chính trị hè 2017 với đầy đủ nội dung cũng như cách trình bày một bài thu hoạch để các bạn tham khảo.