Bài tiểu luận vùng văn hóa bắc bộ năm 2024

TÌM HIỂU VỀ NỀN VĂN HÓA CỦA VÙNG CHÂU THỔ BẮC BỘ LỜI MỞ ĐẦU Bắc Bộ là cái nôi hình thành dân tộc Việt, vì thế, cũng là nơi sinh ra các nền văn hóa lớn, phát triển nối tiếp lẫn nhau : Văn hóa Đông Sơn, văn hóa Đại Việt và văn hóa Việt Nam. Từ trung tâm này, văn hóa Việt lan truyền vào Trung Bộ rồi Nam Bộ. Sự lan truyền ấy, một mặt chứng tỏ sức sống mãnh liệt của văn hóa Việt, một mặt chứng tỏ sự sáng tạo của người dân Việt. Văn hoá Bắc Bộ là sự giao hoà giữa thiên nhiên và con người, phát triển dựa trên sự kế thừa và phát huy bản sắc dân tộc kết hợp tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá khu vực và nhân loại. Trong tư cách ấy, văn hóa châu thổ vùng Bắc Bộ có những nét đặc trưng của văn hóa Việt, nhưng lại có những nét riêng độc đáo của vùng.

NHÓM 7 – K44 TC & QLSK TRANG 1 TÌM HIỂU VỀ NỀN VĂN HÓA CỦA VÙNG CHÂU THỔ BẮC BỘ

  1. CÁC KHÁI NIỆM ĐỊNH VÙNG
  2. KHÔNG GIAN VĂN HÓA Không gian văn hoá là khái niệm liên quan chặt chẽ nhưng không đồng nhất với khái niệm lãnh thổ. Nó bao quát tất cả những vùng lãnh thổ mà ở đó dân tộc đã tồn tại qua các thời đại, nghĩa là được xem xét qua một chiều dài thời gian. Khái niệm không gian văn hoá rộng hơn khái niệm không gian lãnh thổ. Như vậy, không gian văn hoá là khái niệm chỉ những vùng lãnh thổ qua sự tích luỹ của bề dày thời gian lịch sử. Nó thường là khái niệm mang tính tương đối, không tách bạch như không gian lãnh thổ, thậm chí không gian văn hoá của hai dân tộc cạnh nhau thường có phần chồng lên nhau có miền giáp ranh. Chẳng hạn, không gian văn hoá Việt Nam có liên hệ mật thiết nhưng không đồng nhất với không gian lãnh thổ. Nó không chỉ giới hạn trong giới hạn lãnh thổ mà có ảnh hưởng qua lại đến văn hoá các dân tộc, lãnh thổ lân cận như Trung Hoa, Lào, Campuchia với các miền giáp ranh tương ứng. II. LÃNH THỔ VĂN HÓA Là khái niệm có liên quan nhưng hẹp hơn khái niệm không gian văn hoá. Khái niệm này

mang tính văn hoá chính trị và thường dùng để chỉ chủ quyền lãnh thổ của một dân tộc, nó được phân định khá rõ với biên giới rõ ràng dựa trên sự chứng minh lịch sử, cư trú - văn hoá các dân tộc. Đề cập tới lãnh thổ văn hoá do đó luôn đặt trong sự phân định rạch ròi với lãnh thổ khác. Lãnh thổ văn hoá gắn bó hữu cơ với lãnh thổ địa chính hành chính do đó “thống nhất lãnh thổ”, “toàn vẹn lãnh thổ” đồng thời mang ý nghĩa văn hoá. Đây cũng là công việc đất nước ta nỗ lực thực hiện sau ngày giành độc lập [1975] hoàn toàn trong cả nước. III. VÙNG VĂN HÓA Khái niệm này đặc trưng cho bản sắc riêng của từng vùng dưới sự thống nhất do cùng cội nguồn tạo ra bản sắc chung. Nó làm nên tính đa dạng cho bức tranh văn hoá dân tộc. Vùng văn hoá do đó chỉ sự khác nhau của đặc trưng văn hoá tộc người theo không gian địa lí trên một lãnh thổ. Những nhóm tộc người khác nhau ở những chỗ khác nhau tạo nên sự phân hoá vùng văn hoá. NHÓM 7 – K44 TC & QLSK TRANG 2 TÌM HIỂU VỀ NỀN VĂN HÓA CỦA VÙNG CHÂU THỔ BẮC BỘ Từ xa xưa, ông cha đã ý thức về việc phân biệt văn hoá vùng miền và ngày càng được chú trọng một cách ý thức trong giới nghiên cứu ngày nay. Tuy nhiên hiện còn nhiều ý kiến không đồng nhất theo từng khuynh hướng, từng tác giả. Trong số này, quan điểm phân chia vùng văn hoá của nhà nghiên cứu Trần Quốc Vượng có nhiều cơ sở rất hợp lí. Theo đó, về tổng quát lãnh thổ Việt Nam chia làm 6 vùng văn hoá:  Vùng văn hoá Tây Bắc Là khu vực bao gồm hệ thống núi non trùng điệp bên hữu ngạn sông Hồng [lưu vực sông Đà] kéo dài tới bắc Thanh Nghệ. Ở đây có trên 20 tộc người cư trú, trong đó, các tộc Thái, Mường có thể xem là đại diện. Biểu tượng cho vùng văn hoá này là hệ thống mương phai ngăn suối dẫn nước vào đồn; là những vật trang trí tinh tế trên chiếc khăn piêu Thái,

chiếc cạp váy Mường, bộ trang phục nữ H’mông; là âm nhạc với các loại nhạc cụ hơi [khèn, sáo ] và những điệu múa xoè.  Vùng văn hoá Việt Bắc Là khu vực bao gồm hệ thống núi non hiểm trở bên tả ngạn sông Hồng. Cư dân vùng này chủ yếu là người Tày, Nùng với trang phục tương đối giản dị, với lễ hội lòng tồng [xuống đồng] nổi tiếng; với hệ thống chữ Nôm Tày được xây dựng trong giai đoạn cận đại.  Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ Có hình một tam giác bao gồm vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, sông Thái Bình và sông Mã với cư dân Việt [kinh] sống quần tự thành làng xã. Đây là vùng đất đai trù phú, bởi vậy nó từng là cái nôi của văn hoá Đông sơn thời thượng cổ, văn hoá Đại Việt thời NHÓM 7 – K44 TC & QLSK TRANG 3 TÌM HIỂU VỀ NỀN VĂN HÓA CỦA VÙNG CHÂU THỔ BẮC BỘ trung cổ với những thành tựu rất phong phú về mọi mặt. Nó cũng là cội nguồn của văn hoá Việt ở nam Trung Bộ và Nam Bộ sau này.  Vùng văn hoá Trung Bộ Vùng văn hoá Trung bộ ở trên một dải đất hẹp chạy dài theo ven biển từ quảng Bình tới Bình thuận. Do khí hậu khắc nghiệt, đất đai khô cằn, nên con người ở đây đặc biệt cần cù, hiếu học. Họ thạo nghề đi biển, bữa ăn của con người cũng giàu chất biển; dân vùng này thích ăn cay [để bù cho cá lạnh]. Trước khi người Việt tới sinh sống, trong một thời gian dài nơi đây từng là địa bàn cư trú của người Chăm với một nền văn hoá đặc sắc, đến nay còn để lại sừng sững những tháp Chàm.  Vùng văn hoá Trường Sơn - Tây Nguyên Vùng văn hoá Trường Sơn - Tây Nguyên nằm trên sườn đông của dải Trường Sơn, bắt đầu từ vùng núi Bình-Trị -thiên với trung tâm là bốn tỉnh Gia Lai, Kontum, Đắc Lắc, Lâm Đồng. ở đây có trên 20 tộc người nói các ngôn ngữ Mô-Khmer và Nam Đảo cư trú. Đây là vùng văn hoá đặc sắc với những trường ca [Khan, H’ămon], những lễ hội đâm

trâu, với loại nhạc cụ không thể thiếu được là những dàn cồng chiêng phát ra những phức hợp âm thanh hùng vĩ đặc thù cho núi rừng Tây Nguyên  Vùng Văn hoá Nam Bộ Vùng Văn hoá Nam Bộ nằm trong lưu vực sông Đông Nai và hệ thống sông Cửu Long, với khí hậu hai mùa [khô - mưa], với mênh mông sông nước và kênh rạch. Các cư dân Việt, Chăm, Hoa tới khai phá đã nhanh chóng hoà nhập với thiên nhiên và cuộc sống của cư dân bản địa [Khmer, Ma, Xtiêng, Chơro, Mnông]. Nhà ở có khuynh hướng trải dài ven kênh, ven lộ; bữa ăn giàu thủy sản; tính cách còn người ưa phóng khoáng; tín ngưỡng tôn giáo hết sức phong phú và đa dạng; sớm tiếp cận và đi đầu trong quá trình giao lưu hội nhập với văn hoá phương Tây IV. TIỂU VÙNG VĂN HÓA Trong mỗi một vùng văn hoá, lại có thể chia làm nhiều tiểu vùng văn hoá. Khái niệm tiểu vùng văn hoá để chỉ những bộ phận hợp thành vùng văn hoá. Mỗi tiểu vùng được xác định với những nét đặc thù bị chi phối bởi không gian địa lí, khí hậu và lịch sử hình thành, phát triển của vùng. Việc phân loại tiểu vùng văn hoá hoàn toàn không phá vỡ tính thống nhất của tổng thể một vùng văn hoá. NHÓM 7 – K44 TC & QLSK TRANG 4 TÌM HIỂU VỀ NỀN VĂN HÓA CỦA VÙNG CHÂU THỔ BẮC BỘ

  1. VÙNG VĂN HÓA CHÂU THỔ BẮC BỘ
  2. KHÔNG GIAN VĂN HÓA CỦA VÙNG  Về vị trí địa lí Vùng nằm ở phía Bắc đất nước, phía Bắc giáp Vùng văn hóa Việt Bắc, Phía Nam giáp vùng văn hóa Trung Bộ, phía Tây giáp vùng văn hóa Tây Bắc, phía Đông giáp biển Đông. Vùng châu thổ Bắc Bộ là tâm điểm của con đường giao lưu quốc tế theo hai trục chính: Tây - Đông và Bắc - Nam. Vị trí này khiến cho nó trở thành vị trí tiền đồn để tiến tới các vùng khác trong nước và Đông Nam Á, là mục tiêu xâm lược đầu tiên của tất cả bọn xâm lược muốn bành trướng thế lực vào lãnh thổ Đông Nam Á. Nhưng cũng chính vị trí địa lí này tạo điều kiện cho cư dân có thuận lợi về giao lưu và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.

NHÓM 7 – K44 TC & QLSK TRANG 5 TÌM HIỂU VỀ NỀN VĂN HÓA CỦA VÙNG CHÂU THỔ BẮC BỘ Vùng có vị trí địa chính trị, địa kinh tế rất đặc biệt: Thủ đô HÀ NỘI - trái tim của cả nước, là đầu não chính trị-hành chính quốc gia, trung tâm văn hóa KH-GD Nó còn là cái nôi của nền văn minh lúa nước, tạo sự tăng trưởng kinh tế và giao lưu của các vùng trong nước và quốc tế.  Về lãnh thổ Đồng bằng Bắc Bộ là vùng đất mang nhiều nét truyền thống của văn hóa Việt Nam. Đây được coi là cái nôi của Văn hoá - Lịch sử dân tộc. Xét về lãnh thổ vùng này có nhiều ý kiến khác nhau nhưng hầu hết các ý kiến cho rằng vùng đồng bằng Bắc Bộ là khu vực của ba hệ thống sông lớn: sông Hồng, sông Thái Bình và sông Mã. Như vậy thì có thể xác định vùng văn hoá đồng bằng Bắc Bộ bao gồm: Nam Định, Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình; thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng; phần đồng bằng của các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Bắc Giang, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Vùng văn hoá có những điểm không đồng nhất với vùng hành chính, vùng quân sự… Việc xét Thanh - Nghệ - Tĩnh vào vùng văn hóa đồng bằng Bắc Bộ là dựa trên những căn cứ về văn hoá và lịch sử.  Về mặt địa hình Châu thổ Bắc Bộ là địa hình núi xen kẽ đồng bằng hoặc thung lũng, thấp và bằng phẳng, dốc thoải từ Tây Bắc xuống Đông Nam, từ độ cao 10 – 15m giảm dần đến độ cao mặt biển. Toàn vùng cũng như trong mỗi vùng, địa hình cao thấp không đều, tại vùng có địa hình cao vẫn có nơi thấp úng như Gia Lương [Bắc Ninh], có núi Thiên Thai, nhưng vẫn là vùng trũng, như Nam Định, Hà Nam là vùng

thấp nhưng vẫn có núi như Chương Sơn, núi Đọi, v.v…  Về khí hậu NHÓM 7 – K44 TC & QLSK TRANG 6 TÌM HIỂU VỀ NỀN VĂN HÓA CỦA VÙNG CHÂU THỔ BẮC BỘ Vùng Bắc Bộ thật độc đáo, khác hẳn những đồng bằng khác. Đồng bằng Bắc Bộ có một mùa đông thực sự với ba tháng có nhiệt độ trung bình dưới 18 độ, do đó mà có dạng khí hậu bốn mùa với mỗi mùa tương đối rõ nét, khiến vùng này cấy được vụ lúa ít hơn các vùng khác. Hơn nữa, khí hậu vùng này lại rất thất thường, gió mùa đông bắc vừa lạnh vừa ẩm, rất khó chịu, gió mùa hè nóng và ẩm.  Về môi trường nước Đồng bằng Bắc Bộ có một mạng lưới sông ngòi khá dày, khoảng 0,5 – l,0km/km2, gồm các dòng sông lớn như sông Hồng, sông Thái Bình, sông Mã, cùng các mương máng tưới tiêu dày đặc. Do ảnh hưởng của khí hậu gió mùa với hai mùa khô và mưa nên thủy chế các dòng sông, nhất là sông Hồng cũng có hai mùa rõ rệt: mùa cạn, dòng chảy nhỏ, nước trong và mùa lũ dòng chảy lớn, nước đục. Ngoài khơi, thủy triều vịnh Bắc Bộ theo chế độ nhật triều, mỗi ngày có một lần nước lên và một lần nước xuống. Chính yếu tố nước tạo ra sắc thái riêng biệt trong tập quán canh tác, cư trú, tâm lí ứng xử cũng như sinh hoạt cộng đồng của cư dân trong khu vực, tạo nên nền văn minh lúa nước,

vừa có cái chung của văn minh khu vực, vừa có cái riêng độc đáo của mình. NHÓM 7 – K44 TC & QLSK TRANG 7 TÌM HIỂU VỀ NỀN VĂN HÓA CỦA VÙNG CHÂU THỔ BẮC BỘ II. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ CHỦ THỂ VĂN HÓA CỦA VÙNG  Lịch sử phát triển Dựa vào những điều kiện tự nhiên thuận lợi và các thành tựu kinh tế đạt được, những cư dân vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã, sông Cả được gọi chung là cư dân Việt cổ, đã phát huy sức lao động và óc sáng tạo của mình để đẩy nhanh sự phát triển của xã hội, vượt qua những hạn chế của thời nguyên thuỷ, đạt đến thời đại văn minh vào các thế kỷ VII-VI TCN. Tồn tại trong khoảng hơn 5 thế kỷ, nền văn minh đó được mệnh danh là văn minh Văn Lang - Âu Lạc, tương ứng với 2 quốc gia nối tiếp tồn tại trên đất bắc Việt Nam đương thời. Bộ máy nhà nước thời Văn Lang và mặt trống đồng Đông sơn Vùng văn hóa Bắc Bộ là vùng đất lịch sử lâu đời nhất của người Việt, nơi khai sinh của vương triều Đại Việt, đồng thời cũng là quê hương của các nền văn hóa Đông Sơn, Thăng Long- Hà Nội. Từ vùng đất thủy tổ là vùng đồng bằng châu thổ Bắc Bộ, văn hóa Đại Việt, Việt Nam phát triển và lang rộng sang các vùng khác và phát triển trên toàn lãnh thổ như hiện nay. Vùng cũng là nơi bắt nguồn của văn hóa Trung Bộ và Nam Bộ. Đây là cái nôi hình thành văn hóa, văn minh Việt từ buổi ban đầu và hiện tại cũng là vùng văn hóa bảo lưu được nhiều giá trị truyền thống trên đường đi tới xây dựng nền văn hóa hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc. NHÓM 7 – K44 TC & QLSK TRANG 8 TÌM HIỂU VỀ NỀN VĂN HÓA CỦA VÙNG CHÂU THỔ BẮC BỘ  Chủ thể văn hóa Dựa vào các thành tựu của khảo cổ học, nhân học, chúng ta có thể biết cư dân nguyên thuỷ sống trên các vùng đồng bằng Bắc Việt Nam đương thời đều thuộc các chủng tộc Nam Á [Việt - Mường, Môn - Khơ me, Hán – Thái]. Với thời gian, các nhóm tộc người đó ít nhiều hoà lẫn vào nhau, có tiếng nói gần gũi nhau, pha trộn. Những di chỉ được phát

hiện chứng tỏ rằng, bấy giờ các nhóm cùng sống với nhau hoặc sống gần gũi nhau đã có số lượng khá đông, cùng lấy nghề nông trồng lúa nước làm nền kinh tế chủ yếu và cũng có ít nhiều phong tục tập quán giống nhau. Trong quá trình phát triển, dần dần nhóm Việt Mường phát triển mạnh hơn các nhóm kia và dần trở thành chủ thể văn hóa chính của vùng. Những giá trị văn hóa của vùng là những sản phẩm từ sự sáng tạo, cần cù của nhóm Việt Mường, trong đó dân tộc Kinh đóng vai trò cốt lỏi. Dân tộc Kinh chính là chủ thể văn hóa chính của vùng Hiện nay, dân số của riêng vùng đồng bằng sông Hồng là 19.577.944 người [thời điểm 1/4/2009], chiếm 22,82% dân số cả nước. Đa số dân số là người Kinh, một bộ phận nhỏ dân tộc Mường. Nhóm ngôn ngữ chính sử dụng thuộc nhóm Việt – Mường. NHÓM 7 – K44 TC & QLSK TRANG 9 TÌM HIỂU VỀ NỀN VĂN HÓA CỦA VÙNG CHÂU THỔ BẮC BỘ  Về kinh tế Nông nghiệp lúa nước trên vùng châu thổ các con sông lớn [Hồng, Mã, Cả, Chu] đã trở thành ngành kinh tế chủ yếu, vừa tạo cơ sở cho định cư lâu dài, vừa tạo ra thứ lương thực cần thiết hàng ngày của người dân ở đây. Cư dân ở đồng bằng Bắc Bộ là cư dân sống với nghề trồng lúa nước, làm nông nghiệp một cách thuần túy. Biển và rừng bao bọc quanh đồng bằng Bắc Bộ nhưng từ trong tâm thức, người nông dân Việt Bắc Bộ là những cư dân “xa rừng nhạt biển”. Nói khác đi là, người nông dân Việt Bắc Bộ là người dân đồng bằng đắp đê lấn biển trồng lúa, làm muối và đánh cá ở ven biển. Hàng ngàn năm lịch sử, người nông dân Việt không có việc đánh cá được tổ chức một cách quy mô lớn, không có những đội tàu thuyền lớn. Nghề khai thác hải sản không mấy phát triển. Các làng ven biển thực ra chỉ là các làng làm nông nghiệp, có đánh cá và làm muối. Ngược lại, Bắc Bộ là một châu thổ có nhiều sông ngòi, mương máng, nên người dân chài

trọng về việc khai thác thủy sản. Tận dụng ao, hồ đầm để khai thác thủy sản là một phương cách được người nông dân rất chú trọng. Đã có lúc việc khai thác ao hồ thả cá tôm được đưa lên hàng đầu như một câu ngạn ngữ: nhất canh trì, nhì canh viên, ba canh điền. Bên cạnh nghề nông, việc trồng rau, trồng cà , trồng cây ăn quả, trồng dâu chăn tằm, nuôi gà, nuôi lợn, chó, trâu bò, cũng rất phát triển. Trong khi đó, đất đai ở Bắc Bộ không phải là nhiều, dân cư lại đông. Vì thế, để tận dụng thời gian nhàn rỗi của vòng quay mùa vụ, người nông dân đã làm thêm nghề thủ công. Ở đồng bằng sông Hồng, trước đây, người ta đã từng đếm được hàng trăm nghề thủ công, có một số làng phát triển thành chuyên nghiệp với những người thợ có tay nghề cao. Một số nghề đã rất phát triển, có lịch sử phát triển lâu đời như nghề gốm, nghề dệt, luyện kim, đúc đồng …ngày càng tạo ra nhiều sản phẩm hơn, phục vụ tốt hơn cho nhu cầu con người. NHÓM 7 – K44 TC & QLSK TRANG 10 TÌM HIỂU VỀ NỀN VĂN HÓA CỦA VÙNG CHÂU THỔ BẮC BỘ Số lượng đồ đồng tăng lên so với nhiều loại dụng cụ như rìu, mũi giáo, mũi tên, liềm, dao, các nhạc cụ bằng đồng như chiêng trống, tượng đồng số lượng đồ gốm cũng phong phú: bát, đĩa, bình, nồi … Làng nghề truyền thống làm lụa ở Hà Đông, Hà Nội  Tổ chức Làng, Xã Làng là đơn vị xã hội cơ sở của nông thôn Bắc Bộ, tế bào sống của xã hội Việt. Nó là kết quả của các công xã thị tộc nguyên thủy sang công xã nông thôn. Các vương triều phong kiến đã chụp xuống công xã nông thôn ấy tổ chức hành chính của mình và nó trở thành các làng quê. Tiến trình lịch sử đã khiến cho làng Việt Bắc Bộ là một tiểu xã hội trồng lúa nước, một xã hội của các tiểu nông. Về mặt sở hữu ruộng đất, suốt thời phong kiến, ruộng công, đất công nhiều là đặc điểm của làng Việt Bắc Bộ. Làng, xã Bắc Bộ là những làng xã điển hình của của nông thôn Việt với sự khép kín rất cao: lũy tre dày, cổng làng đóng mở sáng tối,… NHÓM 7 – K44 TC & QLSK TRANG 11

TÌM HIỂU VỀ NỀN VĂN HÓA CỦA VÙNG CHÂU THỔ BẮC BỘ Do vậy, quan hệ giai cấp ở đây nhạt nhòa, chưa phá vỡ tính cộng đồng, tạo ra một lối sống ngưng đọng của nền kinh tế tư cấp tự túc, một tâm lí bình quân, ảo tưởng về sự “bằng vai”, “bằng vế” như kiểu câu tục ngữ “giàu thì cơm ba bữa, khó thì đỏ lửa ba lần”. Cổng làng và cây đa đầu làng ở một làng quê Bắc Bộ Sự gắn bó giữa con người và con người trong cộng đồng làng quê, không chỉ là quan hệ sở hữu trên đất làng, trên những di sản hữu thể chung như đình làng, chùa làng v.v…, mà còn là sự gắn bó các quan hệ về tâm linh, về chuẩn mực xã hội, đạo đức. Đảm bảo cho những quan hệ này là các hương ước, khoán ước của làng xã. Các hương ước, hay khoán ước này là những quy định khá chặt chẽ về mọi phương diện của làng từ lãnh thổ làng đến sử dụng đất đai, từ quy định về sản xuất và bảo vệ môi trư¬ờng đến quy định về tổ chức làng xã, ý thức cộng đồng làng xã, vì thế trở thành một sức mạnh tinh thần không thể phủ nhận. Nhưng cũng vì thế mà cá nhân, vai trò cá nhân bị coi nhẹ. Chính những đặc điểm ấy của làng Việt Bắc Bộ sẽ góp phần tạo ra những đặc điểm riêng của vùng văn hóa Bắc Bộ. NHÓM 7 – K44 TC & QLSK TRANG 12 TÌM HIỂU VỀ NỀN VĂN HÓA CỦA VÙNG CHÂU THỔ BẮC BỘ III. MỘT SỐ NÉT ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA CỦA VÙNG 1. Sự phân chia thành các tiểu vùng văn hóa của vùng đồng bằng châu thổ Bắc Bộ  Khu vực tiểu vùng duyên hải Vùng đồng bằng sông Hồng Tiểu vùng duyên hải khu vực ven biển phía đông nam của vùng Đồng bằng Sông Hồng, giáp với vịnh Bắc Bộ, bao gồm địa phận các huyện: Yên Mô, Yên Khánh, Kim Sơn [Ninh Bình], Nghĩa Hưng, Hải Hậu, Giao Thủy, Nam Trực, Trực Ninh, Xuân Trường [Nam Định], Vũ Thư, TP Thái Bình, Kiến Xương, Tiền Hải, Thái Thụy, Đông Hưng, Quỳnh Phụ [Thái Bình], Vĩnh Bảo, Tiên Lãng, Kiến Thụy, Đồ Sơn, Cát Bà, An Hải [Hải Phòng]. Đây là phần châu thổ hiện đại phần lớn chỉ cao dưới 1m so với mực nước biển, nơi thủy triều và nước mặn có thể tràn ngập đất đai nếu không có đê ngăn chặn. Quá trình hình thành đồng bằng trong khu vực vẫn đang tiếp diễn nhờ vào việc bồi tụ phù sa của sông

Hồng và các chi lưu chuyển ra biển. Đặc điểm văn hóa nổi bật nhất của vùng chính là sự phân trộn văn hóa do cư dân từ các khu vực khác dồn đến và gắn bó chặt chẽ với quá trình khai hoang các vùng bãi triều. Trong đó độc đáo hơn cả là sự phát triển rộng rãi của đạo Thiên chúa trong khu vực. Trong khi các tiểu vùng khác cúa Đồng bằng Sông Hồng, Phật Giáo gần như chiếm vị trí độc tôn trong đời sống tâm linh của người dân thì ở khu vực duyên hải có sự đan xen giữa Phật Giáo và Công giáo.  Khu vực tiểu vùng trung tâm Đồng bằng sông Hồng Có ranh giới phía Tây là Sông Đáy, phía Đông tới Hải Phòng, phía Bắc từ sông Hồng, sông Đuống thoải dần về phía duyên hải. Châu thổ này được hình thành bởi sự bồi tụ phù sa của hệ thống sông Hồng là chính. NHÓM 7 – K44 TC & QLSK TRANG 13 Nhà thờ đá Phát Diệm - Ninh Bình TÌM HIỂU VỀ NỀN VĂN HÓA CỦA VÙNG CHÂU THỔ BẮC BỘ Người dân tiểu vùng trung tâm châu thổ, đặc biệt là những người dân Thăng Long - Hà Nội vốn rất nổi tiếng là thanh lịch về vốn văn hóa tinh thần, về cách ăn mặc trang nhã, các món ăn chế biến tinh vi, khéo léo. Người dân ăn mặc giản dị trong kiểu cách, nền nã trong màu sắc, tuy nhiên không tự nhiên, xô bồ mà thể hiện sự chọn lựa của những người có trình độ thẩm mỹ cao. Trong ăn uống, người dân ở đây rất sành ăn, tinh tế trong lựa chọn và chế biến món ăn, khi ăn uống luôn giữ vẻ thanh lịch của người đang thưởng thức cái ngon, vẻ đẹp chứ không ăn lấy đủ, lấy no. Ở trong tiểu vùng có rất nhiều những món ăn ngon đã

trở thành đặc sản cho các địa phương, vừa là những món ăn truyền thống của dân tộc, vừa là sản phẩm tiếp thu và đồng hóa các món ăn ảnh hưởng từ người Trung Quốc, người Châu Âu…  Tiểu khu vực rìa đồng bằng sông Hồng Ranh giới của tiểu vùng có thể giới hạn thuộc địa bàn các huyện giáp ranh với vùng trung du và miền núi phía Bắc thuộc các tỉnh Vĩnh Phúc [Tam Đảo, Lập Thạch, Tam Dương, Bình Xuyên], Hà Nội [Thạch Thất, Phúc Thọ, Ba Vì, Sơn Tây, Quốc Oai, Đông Anh, Sóc Sơn], Bắc Ninh [Yên Phong, Quế Võ, Tiên Du, Từ Sơn], Hải Dương [Kinh Môn, Chí Linh] và Hải Phòng [Thủy Nguyên]. Ở phía Nam, tiểu vùng cũng bao gồm một số huyện thuộc tỉnh Ninh Bình [Tam Điệp, Nho Quan] và một phần thuộc tỉnh Hòa Bình cũ [nay đã được sát nhập về Hà Nội] Đây là nơi tập trung nhiều lễ hội nhất của cả nước với nhiều hoạt động vừa có ý nghĩa vừa thú vị và sôi nổi. Lễ hội của tiểu vùng cũng tương đối đa dạng cả về loại hình. Có những lễ hội liên quan đến sản xuất nông nghiệp, có những lễ hội liên quan đến các danh nhân và di tích lịch sử [Hội Dóng, Hội Lý Bát Đế], lại có những lễ hội gắn với sinh hoạt văn hóa của người dân [Hội Lim, Hội Ó] và những lễ hội gắn với đời sông tâm linh, tín ngưỡng [hội chùa Phật Tích, Hội chùa Bách Môn].  Tiểu vùng văn hóa Thanh – Nghệ - Tỉnh NHÓM 7 – K44 TC & QLSK TRANG 14 Phở Hà Nội TÌM HIỂU VỀ NỀN VĂN HÓA CỦA VÙNG CHÂU THỔ BẮC BỘ Ranh giới của vùng bao gồm vùng đồng bằng và trung du các tỉnh Thanh Hóa – Nghệ An – Hà Tỉnh, vùng miền núi thuộc không gian văn hóa của vùng Tây Bắc. Thanh - Nghệ - Tĩnh từ lâu đã thuộc không gian văn hoá Đông Sơn, trước đó nữa, có những di tích có tính chất của văn hoá Phùng Nguyên, nếu phải nhìn xa hơn thì cồn sò hến Đa Bút, cồn Cổ Ngựa và các di chỉ hang động xứ Thanh là thuộc về không gian văn hoá Hoà Bình, Bắc Sơn. Cả giới địa học và dân tộc học, văn hoá học đều coi miền núi Thanh -Nghệ là sự nối dài cùng một dải của sơn hệ Tây Bắc - Bắc Bộ. Cố nhiên, Thanh -

Nghệ - Tĩnh đã là không gian văn hoá Việt Cổ. Tiểu vùng là vùng đồng bằng và trung du duy nhất ở Trung Bộ không thuộc văn hóa Chăm Pa xưa mà có mối quan hệ khăng khít và lâu đời với vùng châu thổ Bắc Bộ. Do vị trí địa lý nên tiểu vùng đất này có những đặc điểm tách biệt so với các tiểu vùng khác của vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ. Nét đặc trung nhất của vùng đó là tính hai mang, có những nét đặc trưng cơ bản của vùng văn hóa châu thổ nhưng phát triển trên vùng đất miền trung dài hẹp, đầy thiên tai và khắc nghiệt nên mang nét đặc trưng của vùng văn hóa Trung Bộ để thích nghi với môi trường sống khắc nghiệt. 2. Đặc điểm văn hoá vật chất  Văn hoá cư trú [nhà ở] Văn hoá nhà ở là một đặc trưng trong nền văn hoá Bắc Bộ. Nhà ở của cư dân Bắc Bộ thường sử dụng các vật liệu nhẹ, bền. Người nông dân Bắc Bộ thường muốn xây dựng ngôi nhà của mình theo kiểu bền chắc, to đẹp, tuy nhiên vẫn hoà hợp với cảnh quan, vì đối với họ, ngôi nhà là một trong những yếu tố quan trọng nhất để đảm bảo một cuộc sống ổn định. • Hình dáng nhà Nhà của người dân Bắc Bộ thường có mái cong truyền thống. Sau này, mái nhà bình thường được làm thẳng cho giản tiện, chỉ có những công trình kiến trúc lớn mới làm mái cong cầu kì. Ngoài ra, các đầu đao ở bốn góc đình chùa, cung điện cũng được làm cong vút như con thuyền rẽ sóng lướt tới, tạo nên dáng vẻ thanh thoát đặc biệt và gợi cảm giác bay bổng cho ngôi nhà vốn được trải rộng trên mặt bằng để hoà mình vào thiên nhiên. NHÓM 7 – K44 TC & QLSK TRANG 15 TÌM HIỂU VỀ NỀN VĂN HÓA CỦA VÙNG CHÂU THỔ BẮC BỘ Mái cong truyền thống trong kiến trúc nhà của người Việt Bắc Bộ Một số nơi ở Bắc Bộ [ví dụ như Nghệ An] thiết kế ngôi nhà của mình theo kiểu nhà sàn để đối phó với lũ lụt, độ ẩm và ngăn côn trùng. Vào thế kỷ XVII, nhiều ngôi đình như

đình Đình Bảng [Bắc Ninh], đình Chu Quyến [Hà Tây] vẫn làm theo lối nhà sàn. • Cấu trúc nhà ở Tiêu chuẩn ngôi nhà Việt Nam nói chung và của vùng Bắc Bộ nói riêng là “nhà cao cửa rộng”, cấu trúc mở. Nhà cao gồm hai yếu tố: sàn [nền] cao so với mặt đất và mái cao xo với sàn [nền]. Người Việt xưa thường ở nhà sàn. Nhà sàn đáp ứng yêu cầu thứ nhất, có tác dụng ứng phó với môi trường. Nhà Việt Nam nay đã chuyển sang nhà đất, nhưng nhà đất lí tưởng vẫn phải có nền cao. Cửa nhà không cao mà phải rộng, tránh nắng chiếu và mưa hắt, đón gió mát. Đầu dưới mái nhà [thường được đưa ra khá xa so với mái hiên. Đầu hồi nhà thường có khoảng trống hình tam giác để thoát hơi nóng và khói. Dân Bắc Bộ có kinh nghiệm không làm cửa và cổng thằng hàng tránh gió độc, gió mạnh. NHÓM 7 – K44 TC & QLSK TRANG 16 TÌM HIỂU VỀ NỀN VĂN HÓA CỦA VÙNG CHÂU THỔ BẮC BỘ • Chọn hướng nhà, chọn đất Đây là biện pháp quan trọng thứ hai để ứng phó với môi trường tự nhiên. Hướng nhà tiêu biểu ở Bắc Bộ là hướng Nam. Vì Bắc Bộ ở gần biển, trong khu vực gió mùa. Hướng Nam [hoặc Đông Nam] vừa tránh được nóng từ phía Tây, bão phía Đông và gió rét từ phía Bắc lại vừa tận dụng được gío mát vào mùa nóng [gió nồm]. Tuỳ thuộc vào địa hình, địa vật xung quanh, vào sự có mặt của núi, của sông, của con đường mà ảnh hưởng của gió nắng sẽ khác nhau. Vì thế, phải chọn đất làm nhà. Khi chọn đất, người Bắc Bộ chú ý tới phong thuỷ, vì khí hậu của ngôi nhà. Ngoài ra, người Việt Bắc Bộ thường có câu: “Bán anh em xa, mua láng giềng gần”, chọn đất cũng phải quan tâm đến việc chọn hàng xóm láng giềng. Trong thời kì phát triển nền kinh tế hàng hoá, khi chọn đất, người ta thường chọn những nơi gần đường giao thông, thuận lợi cho đi lại, làm ăn, buôn bán. • Cách thức kiến trúc

Nhà ở của người Bắc Bộ có đặc điểm là rất đông và linh hoạt, thường là loại nhà không có chái, hình thức nhà vì kéo phát triển. Bộ khung của nhà thường được liên kết với nhau theo một không gian ba chiều: đứng, ngang, dọc. Theo chiều đứng, lực dồn vào đá tảng, theo chiều ngang các cột nối với nhau tạo các vì kèo; theo chiều dọc, các vì kèo được nối với nhau bằng xà, tạo thành bộ khung. Các chi tiết của ngôi nhà được ghép với nhau bằng mộng. • Hình thức kiến trúc Ngôi nhà Bắc bộ phản ánh truyền thống văn hoá của vùng. Tính cộng đồng thể hiện ở việc không chia phòng biệt lập. Giữa hai nhà ngăn bằng rào cây thấp để dễ liên hệ với nhau. Truyền thống thờ cúng tổ tiên và hiếu khách thể hiện ở bàn thờ ở gian giữa [phía trong là bàn thờ, phía ngoài là bàn ghế tiếp khác]. Sau nữa là truyền thống coi trọng bên trái [phía Đông] với chiếc đòn nóc có đầu gốc ở phía Đông, bếp ở phía đông, Trong kiến trúc nhà ở Bắc Bộ, nguyên tắc coi trọng số lẻ cũng được tôn trọng, thể hiện qua số NHÓM 7 – K44 TC & QLSK TRANG 17 TÌM HIỂU VỀ NỀN VĂN HÓA CỦA VÙNG CHÂU THỔ BẮC BỘ gian, số cổng, số toà đều là số lẻ [có câu: Ngọ Môn 5 cửa 9 lầu, Cột cờ 3 cấp]. Đây là do quan niệm của người xưa: lẻ là số dương, dành cho người sống.  Văn hoá ẩm thực [ăn – uống] Ẩm thực cũng là một bộ phận cấu thành quan trọng của văn hoá Bắc Bộ. Giống như ở mọi vùng miền khác trên đất Việt, cơ cấu bữa ăn của cư dân Việt trên châu thổ Bắc Bộ bộc lộ rất rõ dấu ấn của truyền thống văn hoá nông nghiệp lúa nước, bao gồm có cơm, rau, cá, thịt, cơm là thức ăn cho cơ thể. Đặc biệt, ở đây

các gia vị có tính chất chua, cay, đắng không được ưa chuộng như ở vùng Trung Bộ và Nam Bộ. Có người đã từng nói rằng Bắc Bộ là “nơi quần tụ văn hoá ẩm thực, văn hoá vùng miền”. Không thể kể hết những món ăn Bắc Bộ vô cùng đa dạng và độc đáo. Nào là bánh cáy Thái Bình, bánh dứa Hưng Yên, bánh đậu xanh Hải Dương, bánh phu thê Bắc Ninh, bánh tôm Hà Nội, bánh nhãn Nam Định, Mỗi loại bánh mang những hương vị khác nhau, đặc trưng cho mỗi miền quê. Đến với vùng văn hoá này, người ta cũng không thể quên có một nghệ thuật ẩm thực Hà Nội sành điệu, tinh tế, ngon từ chế biến khéo léo, hương vị quyến rũ, màu sắc hài hoà đến sự sạch sẽ, tinh khiết. Người Hà Nội coi trọng chất ít nhưng phải ngon. Một là bánh cuốn Thanh Trì, một bìa đậu Mơ rán giòn, một bát bún ốc chua cay bốc khói, một gói cốm vòng xanh mướt để lại dư vị khó quên tỏng lòng thực khách. Thường là người Việt Bắc Bộ muốn trồng cây cối quanh nơi cư trú, tạo ra bóng mát cho ngôi nhà ăn uống của cư dân Việt trên châu thổ Bắc Bộ vẫn như mô hình bữa ăn của người Việt trên các vùng đất khác : cơm + rau + cá, nhưng thành phần cá ở đây chủ yếu hướng tới các loại cá nước ngọt. Hải sản đánh bắt ở biển chủ yếu giới hạn ở các làng ven biển, còn các làng ở sâu trong đồng bằng, hải sản chưa phải là thức ăn chiếm ưu thế. Cư dân đô thị, nhất là Hà Nội, ít dùng đồ biển hơn cư dân ở các đô thị phía Nam như Huế, Nha Trang, Sài Gòn. Thích ứng với khí hậu ở châu thổ Bắc Bộ, người Việt Bắc Bộ có chú ý tăng thành phần thịt và mỡ, nhất là mùa đông lạnh, để giữ nhiệt năng cho cơ thể.  Văn hoá trang phục NHÓM 7 – K44 TC & QLSK TRANG 18 Thành phần chính bữa ăn: Cơm, Rau, Cá TÌM HIỂU VỀ NỀN VĂN HÓA CỦA VÙNG CHÂU THỔ BẮC BỘ Cách ăn mặc của người dân Bắc Bộ cũng là một sự lựa chọn, thích ứng với thiên nhiên châu thổ Bắc Bộ. Trang phục truyền thống người Việt qua các thời kỳ Vào thời kỳ Hùng Vương, sự phát triển của nghề trồng dâu nuôi tằm, kéo tơ, dệt lụa giúp cho người Việt cổ Bắc Bộ ăn mặc ngày càng đẹp hơn. Nữ thường mặc váy,

loại ngắn hoặc dài, đôi lúc có khâu thêm một mảnh vải vuông vắn có trang trí hoa văn ở trước bụng; phụ nữ thường mặc yếm; áo cánh hoặc áo chui đầu. Ngày lễ hội, họ mặc váy xoè, cắm thêm lông chim hoặc cả lá cây. NHÓM 7 – K44 TC & QLSK TRANG 19 TÌM HIỂU VỀ NỀN VĂN HÓA CỦA VÙNG CHÂU THỔ BẮC BỘ Tóc ít khi để tóc mà thường được búi lên ở đỉnh đầu hoặc tết theo nhiều kiểu khác nhau. Có lúc họ buộc một tấm khăn cởi trần, mặc khố, đầu cạo trọc. Dân sống ven sông thường có tục vẽ mình để tránh “giao long” làm hại. Các lạc hầu, lạc tướng có áo giáp đồng hộ than khi đi chiến đấu. Nối tiếp truyền thống làm đẹp của tổ tiên, người Việt cổ thích trang sức các dây chuyền bằng vỏ ốc, hạt đá hoặc đeo hoa tai, vòng tay bằng đá. Thời phong kiến, trang phục của phụ nữ Bắc Bộ là: váy đen, yếm trắng, áo tứ thân, đầu chít khăn mỏ quạ, thắt lưng hoa lý. Đàn ông với y phục đi làm là chiếc quần lá toạ, áo cánh màu nông sồng. Phụ nữ cũng chiếc váy thâm, chiếc áo nâu, khi đi làm, Bộ lễ phục củ phụ nữ gồm ba chiếc áo, ngoài cùng là áo dài tứ thân bằng the thâm hay màu nâu non, kế đến là chiếc áo màu mỡ gà và trong cùng là chiếc áo màu cánh sen. Khi mặc, cả ba chiếc áo chỉ cài khuy bên sườn, phần từ ngực đến cổ lật chéo để lộ ba màu áo. Bên trong chiếc yếm thắm. Đầu đội nón trông rất duyên dáng và kín đáo. Lễ phục của đàn ông là chiếc quần trắng, áo dài the, chít khăn đen. Tới nay, trang phục truyền thống của người Việt Bắc Bộ đã thay đổi. Bộ âu phục dần thay thế cho bộ đồ truyền thống của đàn ông. Chiếc NHÓM 7 – K44 TC & QLSK TRANG 20 TÌM HIỂU VỀ NỀN VĂN HÓA CỦA VÙNG CHÂU THỔ BẮC BỘ áo dài của phụ nữ ngày càng được cải tiến và hoàn thiện hơn như ngày nay, mặt khác do yêu cầu của lao động, công việc, không phải lúc nào phụ nữ cũng mặc áo dài mà chỉ

những ngày trang trọng, ngày vui thì mới có dịp để “thể hiện mình”.  Về các làng nghề Khi nói về nét đẹp văn hoá vùng châu thổ Bắc Bộ, người ta không thể không nhắc đến những làng nghề thủ công đã có lịch sử phát triển cách đây hàng trăm năm. Đầu thế kỷ 20, nhà nghiên cứu Piere Gourou đã đếm được 108 nghề thủ công ở 7000 làng thuộc vùng châu thổ sông Hồng. ở đây có tới 500 làng nghề, tập trung nhiều nhất ở Nam Định, Hà tây, Thái Bình, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Hà Nam, Hà Nội. Đặc biệt, Thăng Long - Hà Nội là nơi “đát lành chim đậu”, hội tụ tài hoa, thu hút những thợ cả, thợ giỏi từ mọi miền đến sinh cơ lập nghiệp. Hà Nội có Ngũ Xã Tràng, nổi tiếng với nghề đúc đồng, do dân năm làng gốc ở huyện Siêu Loại, xứ Kinh Bắc lập nên từ thế kỷ XVII, là tác giả của những pho tượng đồng vào loại quý giá nhất nước Nam. Đó là tượng Trấn Vũ bằng đồng đen cao 4m, nặng 4 tấn được đúc năm 1681, là quả chuông đồng cao gần 1,5m treo ở tam quan đền, là tượng Di Đà cao 3,95m, nặng 10 tấn với toà sen đặt tượng nặng 1,6 tấn đồng. NHÓM 7 – K44 TC & QLSK TRANG 21 Trang phục lễ hội TÌM HIỂU VỀ NỀN VĂN HÓA CỦA VÙNG CHÂU THỔ BẮC BỘ Hà Nội có làng gốm sứ Bát Tràng có lịch sử 500 năm, do những người thợ gốm tài ba từ Thanh Hoá ra gây dựng từ cuối thế kỷ XV. Và tất nhiên, nhắc tới Hà Nội, người ta cũng không quên một làng giấy phía Nam Hồ Tây, đã rất nổi tiếng trong câu ca dau “Mịt mù khói toả ngàn sương, Nhịn chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ”, làng Thậm Thình, có truyền thống lịch sử 500 năm. Từ Hà Nội ngược về phía Đông Bắc, ta đến với miền đất trù phú “bên kia sông Đuống”, với làng tranh Đông Hồ. Tranh Đông Hồ, từ chất liệu đến đề tài, tư tưởng, phong cách nghệ thuật đều rất dân gian và đậm đà màu sắc dân tộc. Đề tài tranh Đông Hồ rất đỗi bình dị, phản ánh đời sống lao động, sinh hoạt thường ngày của người dân quê Việt Nam, tiêu biểu là tranh “đánh ghen”, “hứng dừa”, “đám cưới chuột” Xuôi về phía Nam, ta đến với các làng nghề lụa Hà Đông [Hà Tây], đũi Nam Cao [Thái Bình], Muôn bàn tay khéo léo tài hoa đã hội tụ lại trên mảnh đất châu thổ trù phú này, thời nào cũng thế, đã vun đắp làm đẹp cho đời, làm phong phú cuộc sống, giàu có tâm hồn, nối

tiếp truyền thống của nền văn minh sông Hồng, văn minh Đại Việt, góp phần xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiến vào thiên niên kỷ thứ ba.  Di tích lịch sử - văn hoá NHÓM 7 – K44 TC & QLSK TRANG 22 Một nghệ nhân cao tuổi của làng Tượng đồng Trấn Vũ, một kỳ tích của TÌM HIỂU VỀ NỀN VĂN HÓA CỦA VÙNG CHÂU THỔ BẮC BỘ Mặt khác, nói tới văn hoá ở châu thổ Bắc Bộ là nới tới một vùng văn hoá có một bề dày lịch sử hàng ngàn năm cũng như mật độ dày đặc của các di tích văn hoá. Các di tích khảo cổ, các di sản văn hoá hữu thế tồn tại ở khắp các địa phương. Đền Hùng [Lâm Thao, Phú Thọ] gồm 4 đền, 1 chùa và 1 lăng mộ tổ Hùng Vương thứ VI. Có khả năng vào thế kỷ thứ X người Việt Nam đã xây nên Đền Hùng và tổ chức ngày giỗ tổ Hùng Vương với những nghi thức, phong tục đầy bản sắc dân gian Việt Nam. Thời Lý - Trần, Đền Hùng là một khu di tích khá đẹp do làng Cổ Tích dựng lên. Trong một số hố đào thám sát tại đây, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều hiện vật: bát đĩa men ngọc, nhiều viên ngọc trang trí, có cả lon đựng sơn thuộc thời Lý - Trần. Kiến trúc ở Đền Hùng có từ thời Lý - Trần đã được tôn tạo qua nhiều thời kỳ, đến nay chỉ còn lại một kiến trúc khá cổ là Gác Chuông, Tam Quan và Đền Hạ có từ thời Hậu Lê, những phần còn lại chủ yếu là các kiến trúc được xây dựng vào thời Nguyễn. NHÓM 7 – K44 TC & QLSK TRANG 23 TÌM HIỂU VỀ NỀN VĂN HÓA CỦA VÙNG CHÂU THỔ BẮC BỘ Đền Gióng thuộc làng Gióng [xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội], thời Thánh Gióng, người có công dẹp giặc Ân thời Hùng Vương. Từ xa xưa, đền là một thảo am. Đến thế kỷ XI, Lý Thái Tổ tạo và xây dựng khang trang, kiến trúc “nội công ngoại quốc” trên một thế đất đẹp có hồ bán nguyệt và thuỷ đỉnh ở trước cổng. Bên trong có nhà tiên tế, đến chính và nhà giãi vũ. Trong đền còn lưu giữ ược nhiều cổ vật quý: Tượng Thánh Gióng cao 2m, có hàng trăm năm nay và các tác phẩm điêu khắc gố: cuốn thư, hoành phi, câu đối bàn thờ; các tác phẩm điêu khắc đá: rồng đá, nghê đá, giếng đá, liềm đá, Chùa Một Cột tên chữ là Diên Hậu tự, nằm giữa hồ Linh Chiểu [nay thuộc phố Chùa Một

Cột]. Chùa dựng năm 1049, phỏng theo giấc mơ của Lý Thái Tông [1028 - 1054] thấy Phật Bà Quan Âm ngồi trên toà sen mời vua bước lên. Vua bèn cho xây chàu theo hình hoa sen để thờ và cầu xin tuổi thọ. Chùa xây dựng một cột giữa lòng hồ nên có tên Một Cột. Cụm di tích cố đô Hoa Lư tại xã Trường Yên, huyện Hoa Lư [Ninh Bình] là kinh đô đầu tiên của nước Đại Việt, do Đinh Tiên Hoàng xây dựng năm 968. Khu di tích đền - miếu được chia thành hai khu: Khu thứ nhất [bên tả] thờ Đinh Bộ Lĩnh và ba người con trai của ông là thái gử Đinh Hạ Lang, Hoàng tử Đinh Toàn và Hoàng tử Đinh Liễn [sau này nối ngôi cha]; Khu thứ hai thờ vua Lê Đại Hành, Hoàng hậu Dương Vân Nga và Hoàng tử Lê Long Đĩnh [vua cuối cùng của triều Tiền Lê]. Nhiều di tích khảo cổ mang đậm dấu ấn của các nền văn minh Văn Long - Âu Lạc và văn minh Đại Việt. NHÓM 7 – K44 TC & QLSK TRANG 24 Khuê Văn Các – Quốc Tử Gíam Chùa Diên Hựu [Chùa Một Cột] TÌM HIỂU VỀ NỀN VĂN HÓA CỦA VÙNG CHÂU THỔ BẮC BỘ 3. Đặc điểm văn hoá tinh thần Cùng với các di sản văn hóa hữu thể, các di sản văn hóa vô thể của đồng bằng Bắc Bộ cũng khá đa dạng và phong phú.  Phong tục tập quán • Giao tiếp: miếng trầu là đầu câu chuyện, kính lão, khiêm nhường trong giao tiếp. • Giỗ tết, tế lễ: thờ cúng mọi vật được coi là biểu tượng của vị thần hay nhân thần nào đó. • Tết nguyên đán: giao thừa và lễ trừ tịch, lễ cúng thổ công,1 số lễ hội như hái lộc xông nhà • Tục lễ đầu xuân: có lễ động thổ, lễ khai hạ, lễ thần nông, lễ thượng nguyên • Tết thanh minh: có tục đi viếng mộ gia tiên và làm lễ cúng gia tiên sau cuộc tảo mộ - Cúng giỗ mang ý nghĩa "uống nước nhớ nguồn" • Tang lễ: quan niệm "nghĩa tử là nghĩa tận" tang lễ được tổ chức lớn và cầu kỳ. • Lễ cưới hỏi: linh đình và náo nhiệt, không kém phần cầu kỳ.

 Văn hoá dân gian Vùng châu thổ Bắc Bộ có một kho báu vô giá truyền từ đời nọ sang đời kia. Đó là một kho tàng di sản văn hoá phi vật thể đa dạng và phong phú: là nguồn ca dao, ngạn ngữ, huyền thoại, truyện cổ tích, truyện cười, giai thoại, , là các lễ hội truyền thống lâu đời đặc sắc, là cái nôi của ca nhạc dân gian, trò diễn, Có thể nói Bắc Bộ là mảnh đất màu mỡ cho văn hoá nghệ thuật của dân tộc Việt ươm chồi, nảy lộc. Trên đất nước Việt Nam, đất nước của ca dao, thần thoại, văn học dân gian Bắc Bộ là một trong những viên ngọc quý giá nhất, mang nhiều nét đặc trưng. Vùng có một kho tàng đồ sộ những tích truyện, truyện cổ dân gian, truyền thuyết, truyện cười với những hình ảnh ông bụt, cô Tấm, những chàng Sơn tinh, Thuỷ Tinh đã đi vào tâm khảm người Việt hàng thế kỷ qua.  Sân khấu dân gian Ở đây, các thể loại thuộc nghệ thuật sân khấu dân gian cũng khá đa dạng và mang sắc thái vùng đậm nét, bao gồm hát chèo, hát chầu văn, hát quan họ, múa rối, NHÓM 7 – K44 TC & QLSK TRANG 25

Chủ Đề