Bị bỏng bao lâu thì lành

Trẻ nhỏ rất hiếu động, dễ bị bỏng nếu tiếp xúc với các vật nóng, nguồn điện do người lớn vô ý trong quá trình chăm sóc trẻ. Bỏng nước sôi, thức ăn nóng; bỏng lửa, điện, hóa chất... rất thường gặp ở trẻ em. Nếu phụ huynh chăm sóc không đúng cách có thể khiến vết bỏng sưng tấy nhiễm trùng, nặng hơn có thể gây nguy hiểm tính mạng.

Vết bỏng nhiễm trùng, khiến trẻ sốt cao

Bé Thanh An (1,5 tuổi) được mẹ đưa đến Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh Hà Nội vào khoảng tháng 9 trong tình trạng sốt cao không rõ nguyên nhân. Qua thăm khám, bác sĩ Dương Thùy Nga - Phó trưởng khoa Nhi, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh Hà Nội phát hiện bé có vết bỏng ở ngón chân đang sưng tấy, rỉ nước vàng, nhiễm trùng gây sốt.

Vài ngày trước, trong lúc ở nhà, người mẹ vô ý khiến bé bị bỏng nước sôi. Vết bỏng không quá rộng, bé vẫn ăn uống sinh hoạt bình thường. Khi vết bỏng sưng phồng, mụn nước bị vỡ ra, mẹ cũng không để ý vệ sinh cho con. Bác sĩ Nga cho biết, phụ huynh khi thấy con sốt thường nhầm tưởng con viêm họng, trong khi nguyên nhân sốt do vết bỏng bị nhiễm trùng. Để chữa trị, bác sĩ phải tiêm kháng sinh cho bé An trong hai tuần.

"May mắn là phụ huynh đưa bé đến kịp thời, nếu trễ có thể nhiễm trùng toàn thân, gây suy đa tạng rất nguy hiểm", bác sĩ Nga nói. Sau đó, mẹ của bé An được bác sĩ hướng dẫn vệ sinh vết thương đúng cách tại nhà và tái khám theo lịch của bác sĩ.

Theo bác sĩ Nga, trường hợp bỏng trong tai nạn sinh hoạt như bé An rất thường gặp. Trong các ca nhập viện điều trị do bỏng thì tỷ lệ trẻ nhỏ bị bỏng chiếm 2/3, phổ biến nhất là bỏng nước sôi. Một phần do trẻ hiếu động chưa biết phân biệt tình huống không an toàn, một phần do người lớn sơ suất khiến con gặp tai nạn. Những trường hợp không xử lý đúng cách vết bỏng từ nhẹ trở nặng. Thay vì chỉ cần dùng vệ sinh ngoài da, trẻ phải uống kháng sinh vì sốt cao, nhiễm trùng.

Bác sĩ Dương Thùy Nga thăm khám cho trẻ tại Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh Hà Nội.

Những sai lầm phụ huynh thường mắc là thoa kem đánh răng, mật ong, trái cây... vào vết bỏng gây nhiễm trùng. Theo bác sĩ Nga, kem đánh răng không làm dịu vết bỏng như nhiều người thường nghĩ. Kem đánh răng chỉ chứa kiềm nhẹ, thoa lên vết bỏng khiến trẻ đau đớn hơn. Trong trường hợp bỏng axit có thể dùng nhưng phụ huynh cũng không rõ loại nào phù hợp nên tốt nhất là không nên sử dụng kem đánh răng.

Một số người còn chườm đá lạnh có thể khiến vết thương trở nên tệ hơn vì đột ngột gặp lạnh sẽ khiến biểu bì da co rút lại, vết bỏng sẽ càng lâu khỏi và dễ viêm loét. Đắp các loại lá theo cách dân gian để vết bỏng mau lành hơn cũng có thể ảnh hưởng đến vùng da đang nhạy cảm vì bị tổn thương do bỏng. Các loại lá không sạch cũng khiến cho vùng da đang tổn thương dễ bị nhiễm trùng.

Xử trí khi trẻ bị bỏng đúng cách

Bác sĩ Nga khuyên khi trẻ bị bỏng, điều đầu tiên, cha mẹ cần làm là tách trẻ ra khỏi nguyên nhân gây bỏng ngay lập tức. Sau đó, xả nước mát (khoảng 15-20 độ C) vào vết bỏng tối thiểu 10-15 phút. Việc này giúp giảm nhiệt độ bỏng, giảm đau, phù nề, viêm nhiễm và giảm độ sâu của vết thương, hạn chế tổn thương lan rộng. Nếu không, có thể dội nước mát sạch lên đó vài lần. Vì ngay cả khi đã không còn tiếp xúc với tác nhân gây bỏng, lượng nhiệt tích tụ ở vết bỏng vẫn tiếp tục gây tổn thương sâu hơn.

Sau đó, phụ huynh nên bảo vệ vết thương của trẻ để tránh tổn thương và nhiễm trùng thêm bằng cách dùng bằng gạc sạch hoặc vải mỏng băng nhẹ nhàng che phủ vết bỏng, tránh băng quá chặt làm tổn thương, khiến vết bỏng nặng thêm. Nếu vùng bỏng lớn thì không nên cởi bỏ quần áo khiến bị lột da vùng bỏng, nên nhanh chóng dùng kéo cắt áo quần ra tách khỏi vết bỏng tránh việc áo quần dính chặt vào vết bỏng khiến đau rát, dễ viêm nhiễm. Không được tiếp xúc trực tiếp với vết bỏng để tránh nhiễm khuẩn làm cho vết bỏng nặng hơn.

Tùy theo vết bỏng nặng hay nhẹ mà phụ huynh có thể đưa trẻ đi đến bệnh viện hay không. Cha mẹ có thể căn cứ vào ba cấp độ vết bỏng như sau:

- Ở cấp độ một: vết bỏng nhẹ nhất, diện tích da bị bỏng nhỏ, chỉ có lớp da bên ngoài tổn thương, đỏ như kiểu cháy nắng, thường 3-5 ngày sau sẽ lành, ít khi gây phồng rộp.

- Ở cấp độ hai: vùng da tổn thương sâu hơn, không còn chỉ là lớp da biểu bì trên cùng, phồng rộp và sưng tấy. Ở bỏng độ hai đa dạng phụ thuộc vào kích thước, độ sâu, tuổi và sức khỏe người bệnh nói chung. Với tất cả các loại bỏng, việc theo dõi, xử lý nhiễm trùng rất quan trọng. Bỏng độ hai có thể loại bỏ sẹo sau khi chữa khỏi.

- Ở cấp độ ba: vết bỏng nặng nhất, diện tích lớn, có thể lan tận vào da, cơ mô mềm... Các khu vực có thể chấm hồng đen, xuất hiện khô và trắng.

Vùng da bỏng lớn (trên năm cm), phụ huynh nên đưa trẻ đến bệnh viện thăm khám. Ảnh: Shutterstock.

Trường hợp bỏng độ hai, ba, sau khi xả dưới vòi nước sạch, băng gạc, phụ huynh nên cho trẻ đi bệnh viện để thăm khám và điều trị. Đặc biệt, vết bỏng nhiễm trùng, chảy máu, kích thước lớn (trên năm cm), ở vùng nhạy cảm (như mặt, mắt, tai, bộ phận sinh dục...) trẻ cần được đưa đến bệnh viện sớm.

Trường hợp bỏng điện rất nguy hiểm, khó đánh giá được tổn thương bên trong, có nguy cơ ảnh hưởng đến thần kinh, tính mạng của bé. Vì vậy, phụ huynh cần thăm khám và theo dõi trẻ sát sao tại nhà. Bỏng hóa chất ít gặp hơn nếu bé không ở gần nơi thí nghiệm, xử lý chất hóa học... Bỏng hóa chất, dù ở bộ phận nào cũng cần được bác sĩ xử lý kịp thời.

Trong quá trình chăm sóc vết bỏng, mẹ phải vệ sinh hàng ngày tại nhà cho con theo hướng dẫn của bác sĩ. Giữ vệ sinh sạch sẽ giúp vết bỏng mau lành, không nên buộc băng gạc quá chặt, chọc vỡ bóng nước vì có nguy cơ nhiễm trùng, tăng khả năng vi khuẩn xâm nhập. Nếu thấy vùng da bỏng ngày càng sưng tấy hơn, nhiễm trùng, rỉ nước vàng cần thăm khám cho trẻ.

Bác sĩ Nga giải thích không có chuyện "thịt độc" nên da lâu lành hơn "thịt mát" như cách nói dân gian. Vùng da bị tổn thương hồi phục nhanh hay lâu là do mức độ bỏng, quá trình chăm sóc của phụ huynh. Gia đình có con nhỏ nên có thuốc trị bỏng (dạng xịt, bôi) dự phòng. Các thuốc có lớp kháng khuẩn phòng nhiễm trùng và làm khô se vết thương nhanh hơn. Lưu ý về việc dùng kháng sinh nếu không cần thiết.

Trường hợp vết bỏng độ một, hai, trẻ không cần ăn uống kiêng khem. Chế độ ăn đa dạng, đủ chất giúp các bé khỏe mạnh, vết bỏng cũng nhanh lành hơn.

Cách phòng bỏng cho trẻ nhỏ

Để tránh những tai nạn đáng tiếc do bỏng gây ra cho trẻ, người lớn luôn để mắt đến các bé. Các gia đình thường có trường hợp trẻ lớn (dưới 10 tuổi) trông chừng trẻ nhỏ cũng không nên, vì các bé còn quá nhỏ chưa thể đánh giá được những mối nguy có thể xảy ra. Trong khi người lớn nấu canh, lẩu, thức ăn nóng, bình siêu tốc cần tránh xa trẻ. Các đồ vật nóng nên để trẻ trên cao, tránh xa tầm với của các bé.

Các vật dụng nóng nên để tránh xa tầm với của trẻ. Ảnh: Shutterstock.

Phòng tránh bỏng do điện, cha mẹ nên có phần che chắn cho ổ điện trong nhà, các phích cắm điện không xài nên cất gọn. Người lớn cũng thường vô ý để dây sạc điện thoại thòng lòng khi sau khi sạc xong. Không ít trường hợp trẻ bị điện giật do nguyên nhân này ảnh hưởng đến tính mạng.

Khi cho con lên và xuống xe cần có người lớn giúp đỡ tránh va chạm vào pô xe máy. Pô xe sau khi đi về cũng cần được che chắn cẩn thẩn, không cho trẻ chơi ở gần đó. Khi con ra ngoài trời nắng gắt, phụ huynh có thể thoa kem chống nắng tránh bị bỏng da, không nên cho trẻ tắm nắng vào lúc trời nắng gắt.

Tên nhân vật đã được thay đổi

Ngọc An

Khi bị bỏng do bất kỳ tác nhân nào, da là bộ phận thường bị tổn thương nhất, sau đó đến các lớp dưới da như cân, gân, cơ, xương, khớp, mạch máu, thần kinh... và một số cơ quan khác như đường hô hấp, ống tiêu hóa, mắt, bộ phận sinh dục...


Bỏng còn được gọi là phỏng, đây là tổn thương do tác dụng trực tiếp của các yếu tố vật lý như nhiệt, bức xạ, điện và hóa chất gây ra trên cơ thể. Vì vậy bỏng có nhiều loại khác nhau tùy theo tác nhân gây nên gồm bỏng do nhiệt, bỏng do điện, bỏng do hóa chất, bỏng do bức xạ; mỗi loại bỏng có tổn thương và đặc điểm lâm sàng riêng cần được lưu ý để chẩn đoán, điều trị phù hợp.

Các hình thái tổn thương thực thể
Khi bị bỏng, các hình thái tổn thương thực thể xảy ra khá đa dạng. Hiện nay có nhiều cách phân loại và đặt tên các mức độ sâu của tổn thương bỏng căn cứ vào các triệu chứng lâm sàng, biến đổi giải phẫu bệnh, diễn biến tại chỗ và quá trình tái tạo, phục hồi. Tuy có cách gọi khác nhau nhưng hình thái tổn thương thực thể và diễn biến bệnh lý đều có nhận định và mô tả thống nhất với các loại gồm: viêm cấp tính da do bỏng hay viêm vô khuẩn cấp tính, bỏng biểu bì, bỏng trung bì hay bỏng trung gian, bỏng toàn bộ lớp da, bỏng sâu các lớp dưới da.


Bị bỏng bao lâu thì lành

Viêm cấp tính da do bỏng hay viêm vô khuẩn cấp tính: thường gọi là bỏng độ I với triệu chứng da khô, đỏ, phù nề, đau rát; tổn thương có khả năng khỏi sau 2 - 3 ngày, có thể thấy lớp sừng hóa khô và bong ra.


Bỏng biểu bì: thường gọi là bỏng độ II, còn gọi là bỏng độ nông II. Trên nền da viêm cấp tính có nốt phỏng chứa dịch màu vàng nhạt; đáy nốt phỏng màu vàng ánh, ướt, có dịch xuất tiết, đây là lớp tế bào mầm của biểu bì còn nguyên vẹn phần lớn. Tổn thương bỏng biểu bì sẽ tự tái tạo bằng sự phân bào của lớp tế bào mầm, trong khoảng 8 - 12 ngày nếu điều trị tốt sẽ khỏi, lên lớp da non.


Bỏng trung bì hay bỏng trung gian: Còn gọi là bỏng độ II sâu, bỏng độ III, bỏng độ IIIA, bỏng độ III nông. Trường hợp này khó chẩn đoán chính xác ngay trong những lần khám đầu tiên. Triệu chứng lâm sàng thể hiện dưới các hình thức nốt phỏng vòm dày, dịch nốt phỏng đục, màu hồng; đáy nốt phỏng màu đỏ, tím sẫm hoặc trắng bệch hay màu xám; đám da bị hoại tử thường là hoại tử ướt. Thử cảm giác ở vùng bỏng ghi nhận vẫn còn một phần cảm giác đau. Dùng chất phát huỳnh quang như natri fluorescein dung dịch 20% tiêm 5 - 10ml vào tĩnh mạch và xem tổn thương bỏng dưới ánh sáng của đèn Wood trong phòng tối còn thấy có phát huỳnh quang vàng ánh rải rác ở nền nốt phỏng hoặc trên diện da hoại tử ướt. Bỏng trung bì diễn biến theo kiểu rụng hoại tử, tái tạo mô hạt có nhiểu đảo biểu mô rải rác mọc và phủ lên diện mô hạt hình thành sẹo bỏng. Thời gian tổn thương khỏi, thành sẹo khoảng 18 - 45 ngày phụ thuộc vào cách điều trị và số lượng các thành phần biểu mô còn nguyên vẹn. Nếu bị nhiễm khuẩn hoặc nằm đè lên vùng bỏng, bỏng trung bì sẽ chuyển thành bỏng sâu với các thành phần biểu mô bị hủy hoại thứ phát.


Bỏng toàn bộ lớp da: còn gọi là bỏng độ III, bỏng độ IIIB, bỏng độ III sâu, bỏng độ IV với các lớp biểu bì, trung bì, hạ bì đều bị tổn thương. Triệu chứng lâm sàng thể hiện dưới hai hình thức là hoại tử ướt hoặc hoại tử khô. Hoại tử ướt hình thành khi nhiệt độ trong lớp da bị bỏng tới 50 - 58 độ C, da trắng bệch hoặc đỏ xám hay chỗ trắng, chỗ xám; sờ thấy mịn ướt, gồ cao hơn vùng lân cận; chung quanh là viền sung huyết, phù nề rộng; có trường hợp thấy cả nốt phỏng, lớp biểu bì bong ra, mất cảm giác; trường hợp hoại tử ướt có thể tiến triển thành viêm mủ, hóa lỏng tan rữa và rụng đi vào ngày 10 - 14 trở đi, dưới là lớp mỡ màu sẫm có dịch mủ; nếu chữa trị tốt và tình trạng toàn thân khá sẽ xuất hiện mô hạt; cần lưu ý khi bị hoại tử ướt các biến chứng nhiễm khuẩn phát sinh với tỉ lệ cao, đặc biệt là khi bỏng vôi tôi dễ bị nhiễm khuẩn mủ xanh, nhiễm khuẩn huyết. Hoại tử khô được hình thành khi nhiệt độ trong lớp da bị bỏng tới 65 - 70 độ C trở lên; da bỏng khô, chắc, màu đen hoặc đỏ hay vàng sẫm, qua đó có thể thấy rõ hình lưới tĩnh mạch ở dưới da; quanh đám hoại tử khô là một viền hẹp da màu đỏ, nhìn kỹ thấy hoại tử như lõm xuống, sờ cứng và thô ráp, da hoại tử khô có thể bị nhăn nhúm hoặc nức nẻ, mất cảm giác.


Bỏng sâu các lớp dưới da: còn gọi là bỏng độ III, bỏng độ III sâu, bỏng độ IV sâu dưới lớp cân, bỏng độ IV, bỏng độ V, bỏng độ VI, bỏng độ VII. Có nhà khoa học phân loại gọi độ IV nhưng lại chia làm IV A tới lớp mỡ và IV B tới cân cơ, IV C tới xương khớp. Ở loại bỏng này thì tổn thương bỏng lan sâu tới cơ, gân, xương, khớp, tạng... Lớp cơ hoại tử bỏng màu xám hoặc vàng nhạt như thịt luộc, thịt thui, cắt không thấy chảy máu, thớ cơ co lại. Những ngày đầu có thể thấy khối cơ bình thường nhưng những ngày sau đó cơ bị hoại tử thứ phát. Các xương ở nông như ở hộp sọ, trán, xương chày, vùng mắt cá, vùng khớp khuỷu và gối... thường dễ bị bỏng. Khi bao khớp bị hoại tử thì dẫn đến hình thành lỗ rò khớp, viêm mủ cấp khớp. Bỏng sâu toàn bộ các lớp của hộp sọ có thể gây ápxe ở màng não, dưới xương sọ là não đã bị hoại tử.


Xác định và xử trí điều trị bỏng
Bỏng được xác định khi tổn thương bỏng chiếm 10 - 15% diện tích cơ thể trở lên hoặc khi có bỏng sâu chiếm 3 - 5% diện tích cơ thể trở lên, tổn thương bỏng gây rối loạn chức năng toàn thân và các biến đổi bệnh lý xuất hiện có tính chất quy luật trong quá trình từ khi bị bỏng đến khi khỏi hoặc tử vong. Những trạng thái bệnh lý của bỏng gồm: sốc bỏng, nhiễm độc cấp tính bỏng, nhiễm khuẩn bỏng, suy mòn bỏng. Bỏng chia làm 4 thời kỳ, thời kỳ thứ nhất từ ngày đầu đến ngày thứ 2, thứ 3 sau bỏng; thời kỳ thứ hai từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 45 - 60 sau bỏng; thời kỳ thứ ba từ sau ngày thứ 45 - 60 đến khi diện bỏng sâu được phục hồi bằng cách ghép da, liền sẹo; thời kỳ thứ tư là thời kỳ dưỡng bệnh.

Bị bỏng bao lâu thì lành

Việc điều trị bỏng được thực hiện tùy thuộc vào trạng thái bệnh lý của bỏng và các thời kỳ diễn biến của bệnh đã được nêu ở trên. Thời kỳ đầu thường gặp sốc bỏng. Thời kỳ thứ hai và thứ ba thường gặp hội chứng nhiễm độc bỏng cấp tính, biến chứng nhiễm khuẩn, sốc nhiễm khuẩn, thiếu máu, suy giảm các chức năng miễn dịch đề kháng, rối loạn bệnh lý tiêu hóa... Thời kỳ thứ tư tiến hành các phương pháp dưỡng bệnh để phục hồi.


Khi bị bỏng, cần tìm mọi cách để sớm loại trừ tác nhân gây bỏng như dập lửa, cắt cầu dao điện... Ngay sau khi bị bỏng, cần ngâm vùng bị bỏng vào nước lạnh 16 - 20 độ C hoặc cho vòi nước chảy qua khoảng 20 - 30 phút; nếu chậm ngâm lạnh sẽ ít có tác dụng trong xử trí ban đầu. Trường hợp bỏng do hóa chất phải rửa sạch hóa chất bằng nước và chất trung hòa. Lưu ý nên băng ép vừa phải các vết thương bỏng để hạn chế phù nề và thoát dịch huyết tương, cho nạn nhân uống nước chè nóng, nước có đường, nước có muối với tỉ lệ natri carbonate 5g, muối ăn 5,5g pha trong 1.000ml nước, thuốc giảm đau; cần ủ ấm khi trời rét. Vận chuyển nạn nhân nhẹ nhàng, tránh va chạm gây thêm đau đớn. Khi cấp cứu người bị bỏng điện, phải cắt nguồn điện, thảo bỏ cầu chì, dùng que gỗ khô gỡ dây điện ra khỏi người bị nạn, tìm cách kéo vào tóc hoặc quần áo đưa người bị nạn ra khỏi vùng nguy hiểm; sau đó phải làm ngay hô hấp nhân tạo, ép tim ngoài lồng ngực, hà hơi thổi ngạt tại chỗ để hoàn thành sơ cứu rồi mới chuyển nạn nhân đi cấp cứu; tiêm thuốc trợ tim, thuốc kích thích hô hấp; khi nạn nhân tự thở được và tim đập trở lại mới băng vết bỏng, làm giảm đau rồi sau đó chuyển đến bệnh viện nơi gần nhất để điều trị. Đối với bỏng mắt, cần xử trí kịp thời để bảo vệ mắt; ngay sau khi bị bỏng phải rửa mắt nhiều lần bằng nước lạnh sạch, vô khuẩn và gửi đến bệnh viện chuyên khoa mắt.

Theo SKĐS online