Ca sĩ kim tuấn là ai?

Đọc các bài cùng chuỗi, xin click vào đây.

Chào các bạn,

Hôm nay mình giới thiệu đến các bạn thi khúc “Nói Với Mùa Thu” của Thi sĩ Kim TuấnNhạc sĩ Thanh Trang.

Thi sĩ Kim Tuấn [1938-2003] là một nhà thơ nổi tiếng trước 1975. Ba ca khúc phổ thơ của ông nổi tiếng là “Anh Cho Em Mùa Xuân” [Nguyễn Hiền], “Những Bước Chân Âm Thầm” [Y Vân], “Khi Tôi Về” [Phạm Duy].

Thi sĩ Kim Tuấn tên thật là Nguyễn Phước Vĩnh Khuê, ông sinh tại Huế nhưng quê gốc ở Hà Tĩnh. Ông là hậu duệ 5 đời của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm nhà Nguyễn. Ông là con trai duy nhất của gia đình. Thuở nhỏ sống cùng gia đình ở Phan Thiết. Lớn lên vào Sài Gòn học. Ông có tính cách hiền lành; ngoại hình mập mạp, da hơi ngăm đen, nụ cười híp mắt. Năm 20 tuổi cưới người vợ đầu là bà Hồ Thị Mộng Sương [em gái Hồ Đình Phương]. Sau 1975 hai người ly dị, bà Mộng Sương sang Pháp, ông cưới người vợ thứ nhì là bà Minh Phương và có hai người con trai.

Ông làm thơ từ năm 13 tuổi. Bắt đầu có thơ đăng trên các tạp chí đầu thập niên 1960. Tập thơ đầu tiên xuất bản là tập “Hoa Mười Phương”. Ông từng có một thời gian nhập ngũ và làm thông dịch viên tiếng Anh cho Quân đoàn II tại Pleiku. Thời gian này ông còn là phóng viên chiến trường với ký danh Vĩnh Khuê. Sau thời gian làm việc ông thường về nhà phụ vợ bán thuốc tây tại nhà riêng – hiệu thuốc cùng tên Kim Tuấn trên đường Phan Bội Châu.

Thi sĩ Kim Tuấn.

Năm 1977, ông về Sài Gòn làm hiệu trưởng Trường Anh văn và dạy nghề Thăng Long ở quận 4 – một ngôi trường do người Anh tài trợ dành cho trẻ em lang thang và dạy học ở đó cho đến cuối đời. Ngày 11/9/2003, sau khi tham dự một buổi văn nghệ phát quà Trung thu cho trẻ em nghèo tại trường, ông về nhà ăn bánh, uống trà, ngắm trăng với vợ con rồi đột ngột bị nhồi máu cơ tim và mất trên đường đưa đến bệnh viện.

Đa số thơ của ông đều là thơ năm chữ với vần điệu êm ả, dịu dàng; mang nhiều hình ảnh đặc trưng của mỗi vùng đất mà ông viết. Cái hay của thơ ông là nắm bắt được tính cô động, “kiệm lời” của thể thơ năm chữ.

Gồm 3 mảng chính: Thiên Nhiên – Chiến Tranh – Tình Yêu.

Thơ của ông được in trên nhiều báo, tạp chí trước và sau 1975. Ngoài ra ông còn được nhà thơ Du Tử Lê gọi là “chiếc cầu nối huy hoắc giữa thơ ca và âm nhạc trước 1975” với nhiều bài thơ phổ nhạc đặc sắc mà tiêu biểu là “Khi Tôi Về” [Phạm Duy], “Anh Cho Em Mùa Xuân” [Nguyễn Hiền] và “Những Bước Chân Âm Thầm” [Y Vân].

Nhạc sĩ Thanh Trang thời trẻ.

Nhạc sĩ Thanh Trang tên thật là Nguyễn Thanh Trang. Ông sinh năm 1942 tại Thái Hà Ấp, Hà Nội, ông vào Nam năm lên 8 [1950] do thân phụ thay đổi nhiệm sở.

Ông theo học Tiểu Học trường “Jaureguiberry” [sau 1956 đổi tên thành “St-Exupery”] trên đường “Thevenet” [sau đổi thành đường Tú Xương, con đường yên tĩnh, có những hàng cây thật đẹp, nằm sâu trong ký ức cậu học trò nhỏ, sau này đã làm nền cho bài hát “Những Con Đường Thành Phố Tôi Yêu”.

Ông học Trung Học trường “Lycée Chasseloup Laubat” [sau đổi tên thành “Jean Jacques Rousseau”], và tốt nghiệp Trung học ban “Sciences Expérimentales”.

Ông vào Ðại Học Luật Khoa năm 1961. Bài hát “Duyên Thề” viết khi ở năm thứ 2 Luật Khoa.

Ông tốt nghiệp Cử Nhân Luật Khoa năm 1963, và xong Cao Học Kinh Tế năm 1966. Thời gian còn là sinh viên, ông cộng tác với Nhật Báo “Tự Do” và một số nhật báo, tạp chí văn học khác với bút hiệu “Thanh Nguyễn” [bút hiệu sau nay vẫn tiếp tục xử dụng trên các nhật báo ở Nam Cali như Người Việt, Viễn Ðông, hoặc các Tạp Chí Thế Kỷ 21, Văn Học, Hợp Lưu…]

Ông nhập ngũ năm 1968 [cùng lượt với Lê Tất Ðiều, Dương Kiền, Dương Cự v.v.], và rời Thủ Ðức cuối năm 68 để lên giảng dạy Luật và Kinh Tế tại trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt [những bài “Tình Khúc Mùa Ðông” và “Huyền” viết vào thời điểm này].

Cuối 1969, ông du học tại Hoa Kỳ môn “Development Economics”, Ðại học Vanderbilt, tại Nashville, Tennessee [Luận án tốt nghiệp: “The Absorptive Capacity of Foreign Aid”].

Trở về nước năm 73, tiếp tục giảng dạy Kinh Tế ở Võ Bị Quốc Gia và Viện Đại Học Đà Lạt [Phân Khoa “Chính Trị Kinh Doanh”] cho đến tháng 4 năm 75 khi đơn vị di tản về Sai Gòn. Bị đưa vào trại cải tạo của nhà nước miền Bắc từ sau 30 tháng 4, 1975 cho đến năm 1982.

Ông tái định cư tại Hoa Kỳ vào giữa năm 90 theo diện “Political Refugee”.

Về những tác phẩm của ông, nhạc sĩ Thanh Trang chia sẻ với chị Lê Thy:

“Ðàng sau bất cứ một tác phẩm nghệ thuật nào cũng có cái mà tôi cho là quan trọng hơn cả: “Con người”. Bởi đàng sau những bài hát chị nghe, toàn là những mẫu đời, những tình người có thật. Ai khác ra sao tôi không biết, nhưng riêng tôi khi viết bài hát, không có lời lẽ nào thuộc dạng hư cấu, vẽ vời hay tưởng tượng.” [Theo lethy@thuvientoancau]

Thi phẩm “Nói Với Mùa Thu” [Thi sĩ Kim Tuấn]

Bây giờ mùa thu rồi phải không em ai qua áo lụa tóc nhung mềm gót chân thềm cỏ cành xao động

mắt cũng buồn theo mưa lá bay

Bây giờ mùa thu rồi phải không em cây khô còn nhớ đứng bên thềm rừng quen gió lạ mây giăng thấp

tuổi đã buồn che kín bóng đêm

Bây giờ mùa thu rồi phải không em có ai qua những phố không đèn bóng trăng nào vướng trên dòng tóc

bước đã chùng trên những lối quen

Bây giờ mùa thu rồi phải không em cho anh trời giá buốt tâm hồn nước xanh rồi cũng mù sông biển

đời đã trầm luân đã lớn khôn

Bây giờ mùa thu rồi phải không em ru thêm giấc mộng đến êm đềm ru em sầu kín như ngày tháng

em đã xa và ta bỏ quên

Thi khúc “Nói Với Mùa Thu” [Nhạc sĩ Thanh Trang]

Bây giờ là thu rồi đó em Ai qua áo lụa mắt nhung mềm Bước chân hè phố hoen vạt nắng

Và mắt em gợi mùa lá xanh

Bây giờ là thu rồi đó em Cây khô nghiêng lặng đứng bên thềm Gió quen rừng cũ mây về thấp

Sương trắng giăng mù vây kín đêm

Mùa thu về những phố không đèn Mùa thu về những lối đường quen Mùa thu dịu như tóc nhung mềm

Mùa thu anh xót xa tình quê

Bây giờ là thu rồi đó em Xôn xao mây lạc bốn phương chìm Nước xanh hồ lũng khơi mờ biếc

Và nắng thu nhạt màu lãng quên

Bây giờ là thu rồi đó em Ru thêm cơn mộng đến êm đềm Mắt xưa sầu biết như ngày tháng

Em đã xa và ta bỗng quên

Dưới đây mình có bài:

– Kim Tuấn, chiếc cầu nối huy hoắc giữa thi ca và âm nhạc
– Ðêm nhạc tình ca Thanh Trang

Cùng với 3 clips tổng hợp thi khúc “Nói Với Mùa Thu” do các ca sĩ xưa và nay diễn xướng để các bạn tiện việc tham khảo và thưởng thức.

Mời các bạn,

Túy Phượng

[Theo Wikipedia]

Kim Tuấn, chiếc cầu nối huy hoắc giữa thi ca và âm nhạc

[Du Tử Lê]

Nhìn lại 20 năm văn học, nghệ thuật miền Nam, dù đứng ở góc độ nào hay, từ lăng kính chính trị nào, người ta cũng không thể phủ nhận sự giầu có, dẫn tới thăng hoa tinh thần của hai lãnh vực văn chương và, âm nhạc.

Với tôi, hai lãnh vực này còn tìm đến nhau, hợp thành những hôn phối tốt đẹp. Rực rỡ. Tôi muốn nói tới hiện tượng thơ được các nhạc sĩ soạn thành ca khúc.

Nói tới thơ phổ nhạc, dù đã bao nhiêu năm trôi qua, hôm nay, ở hải ngoại cũng như trong nước, giới thưởng ngoạn, thuộc nhiều thế hệ, vẫn còn ắp đầy rung động khi được nghe “Mộng dưới hoa,” của Phạm Đình Chương, phổ từ thơ Đinh Hùng. “Ngậm ngùi” của Phạm Duy, phổ từ thơ Huy Cận. “Tình quê hương” của Đan Thọ, phổ từ thơ Phan Lạc Tuyên. “Trăng sáng vườn chè” của Văn Phụng, phổ từ thơ Nguyễn Bính. “Bạn lòng” của Hoàng Trọng, phổ từ thơ Hồ Đình Phương. ““Ai bảo em là giai nhân” của Anh Bằng, phổ từ thơ Lưu Trọng Lư. “Những bước chân âm thầm” của Y Vân, phổ từ thơ Kim Tuấn. “Anh cho em mùa xuân” của Nguyễn Hiền, phổ từ thơ Kim Tuấn. “Trên ngọn tình sầu” của Từ Công Phụng, phổ từ thơ Du Tử Lê. “Áo lụa Hà Đông” của Ngô Thụy Miên, phổ từ thơ Nguyên Sa. “Chiều trên phá Tam Giang” của Trần Thiện Thanh, phổ từ thơ Tô Thùy Yên… Và, còn nhiều, rất nhiều những phối ngẫu vàng mười, giữa thi ca và, âm nhạc miền Nam, khác nữa.

Mỗi nhạc sĩ tôi chỉ chọn ra một trong nhiều ca khúc đi ra từ thi ca thì, nhà thơ Kim Tuấn đã có tới hai bài gắn liền với hai tên tuổi lớn của nền tân nhạc Việt Nam là Y Vân và Nguyễn Hiền.

Tôi nhớ, một nhà báo từng viết xuống rằng, Kim Tuấn là một nhà thơ, có thơ được soạn thành ca khúc, nhiều nhất ở miền Nam.[1] Kết luận này, theo tôi, tương đối gần với thực tế; nếu tính theo con số những ca khúc được phổ biến và lưu truyền tới bây giờ. Tôi chỉ xin được bổ túc: Một người có thơ được các nhạc sĩ tìm đến nhiều không kém là, nhà thơ Đinh Hùng. Rất nhiều ca khúc nổi tiếng tới hôm nay, nhờ thơ của tác giả “Mê hồn ca” và, “Đường vào tình sử”…

Có hơn một người từng hỏi tôi, nhà thơ Kim Tuấn giống như chiếc cầu nối huy hoắc giữa thi ca và, âm nhạc; nhưng số người thực sự tìm đọc thơ ông, dường không nhiều lắm! Đâu là câu trả lời nên có trước sự kiện có vẻ như mâu thuẫn này?

Bằng vào ghi nhận riêng, có tính cách chủ quan của tôi thì:

– Thứ nhất: Thành tựu tốt đẹp của hiện tượng thơ phổ nhạc, đã khiến một số nhà thơ trở thành nổi tiếng, trước khi tự thân thơ của họ, được nhiều người biết tới.

– Thứ nhì: Sự nổi tiếng ấy, làm những nhà thơ kia, không cảm thấy thoải mái khi phải tự động gửi thơ mình cho những tạp chí văn chương, vốn được dư luận coi là những thước đo cấp độ, giá trị thi ca đương thời.

Điều đó, không có nghĩa họ không muốn phổ biến thơ mình, tới quảng đại quần chúng. Bằng chứng họ vẫn gửi thơ cho những tờ báo nào, hỏi xin thơ họ. Nhưng, những tờ báo kia, thường không được nhìn ngắm như một diễn đàn có thẩm quyền về văn chương hoặc thi ca. Nói cách khác, giới thưởng ngoạn thi ca, không phải là độc giả của những diễn đàn ấy.

– Thứ ba: Những nhà thơ ở trường hợp vừa kể, thường chờ đợi những người giữ vai trò chủ biên các tạp chí văn học, ngỏ ý xin bài của mình. Nhưng, thực tế của sinh hoạt 20 năm văn học, nghệ thuật miền Nam lại không hề “mặn mà,” nếu không muốn nói là gần như không hề quan tâm tới những nhà thơ có thơ phổ nhạc, thành công. Chưa kể, có người còn cho rằng, các nhạc sĩ đã giết chết bài thơ khi biến nó thành ca khúc.

Điển hình cho quan điểm này, là hoạ sĩ, kiêm thi sĩ Tạ Tỵ. [Mặc dù ông cũng có một vài bài thơ phổ nhạc. Cũng như ông chưa hề giữ vai trò chủ biên một tạp chí văn chương nào thời miền Nam, trước 1975.]

Nhà văn Tạ Tỵ nhấn mạnh, ông chỉ muốn nói tới những bài thơ hay. Những bài thơ có giá trị. Chứ không hề nhắc tới những bài thơ mà, nhạc sĩ nhặt ra được ít câu, rồi thêm thắt [tay, chân, mắt mũi…cho bài thơ] để ca khúc, khi được phổ biến thì, phân nửa hay hơn, là của nhạc sĩ. Ông nói, ông cũng không muốn nhắc tới những bài thơ được các nhạc sĩ “đặt hàng,” theo kiểu: Với nội dung thế này. Câu chuyện diễn ra theo thứ tự thế kia… Đầy đủ nhập đề, thân bài, kết luận…

– Thứ tư: Thậm chí, trong sinh hoạt hàng ngày, nếu giới nhạc sĩ thường gặp nhau ở nhà hàng Thanh Thế, Kim Sơn ở đường Nguyễn Trung Trực, thì nhà văn, nhà thơ thường gặp nhau ở nhà hàng La pagoda, hay Givral…

Theo cách nói bình dân, nôm na thì đó là tình trạng “nước giếng không đụng nuớc sông!” Mỗi giới đều có những “sân” riêng của mình. Họa hiếm lắm, mới có người “đá” nhiều sân. Như trường hợp cố nhạc sĩ Hoài Bắc/Phạm Đình Chương. Lý do, bằng hữu thân thiết của họ Phạm, đa số thuộc giới văn chương như Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Hoàng Anh Tuấn…

Những ghi nhận trên, giải thích phần nào sự kiện có rất nhiều người biết nhà thơ Kim Tuấn, qua những ca khúc như “Anh cho em mùa xuân,” “Những bước chân âm thầm” hay, “Khi tôi về” [nhạc Phạm Duy,] nhưng lại ít được đọc thơ của ông – – Dù, thơ Kim Tuấn được ấn hành thành tuyển tập, rất sớm. Phải đợi tới đầu thập niên [19]70 qua trung gian của một người bạn, thơ Kim Tuấn mới bắt đầu xuất hiện đều đặn trên bán nguyệt san Văn, thời nhà văn Trần Phong Giao còn là Thư ký tòa soạn.

Căn cứ theo một số tài liệu phổ biến thì, nhà thơ Kim Tuấn tên thật là Nguyễn Phước Vĩnh Khuê. Ông sinh năm 1938 tại Hà Tĩnh [2], là hậu duệ của Tùng Thiện Vương / Miên Thẩm. Ông trưởng thành tại Phan Thiết và, Saigòn. Kim Tấn có một thời gian khá dài ở thành phố Pleiku. Đó là thời gian ông tòng sự tại phòng Tâm Lý Chiến, Bộ Tư Lệnh QĐ/2. Sau biến cố 30 tháng 4-75, ông trở lại Saigòn, làm hiệu trưởng một trường Anh ngữ, do một tổ chức văn hóa của người Anh ở Luân Đôn trực tiếp bảo trợ…

Kim Tuấn làm thơ rất sớm. Cũng rất sớm, năm 1959, cùng với 9 tác giả khác, ông xuất bản tuyển tập thơ “Hoa mười phương.” Sau đó là những thi phẩm kế tiếp như “Ngàn thương” 1969 [in chung với Định Giang;” “Dấu bụi hồng,” 1971; “Thơ Kim Tuấn,” 1974, ra đời.

Tính đến ngày từ trần là ngày 10 tháng 9 năm 2003, nhà thơ Kim Tuấn còn có thêm nhiều thi phẩm khác…

Đa số thơ của nhà thơ Kim Tuấn là thơ vần điệu êm ả, dịu dàng; với nhiều hình ảnh đặc thù của những vùng đất nước ông đã sống. Thỉnh thoảng ông cũng có những bài thơ xuôi, thâm sâu, tạo được nhiều chú ý. Điển hình như bài thơ xuôi nhan đề “Những điều ghi trong giấc ngủ” của ông, đã được nhạc sĩ Phạm Duy chọn, để soạn thành ca khúc năm 1968, với nhan đề mới “Khi tôi về.” Ca khúc này nằm trong loạt bài “Hòa bình ca” của Phạm Duy:

“Khi tôi về, con chim câu nằm trong tổ ấm – Dây thép gai đã hết rào quanh đồn phòng ngự – Và người lính đã trở về cày đám ruộng xưa – Khi tôi về, con diều bay đùa trong gió – Chốn quê nhà trên thảm cỏ xanh – Có lũ trẻ để bụng lòi rốn đen, cười thanh bình – Khi tôi về, có con trâu rung mõ xa xôi như trong giấc mộng – Khi tôi về, với hai tay tôi níu con tim tôi ôm lồng ngực – Khi tôi về, giọng hát ru nối lại dĩ vãng trầm trầm như chưa tắt thở – Có người rủ nhân loại đi xem địa ngục mà không ai trả lời – Khi tôi về, mẹ già vừa tóc bạc, đôi mắt nhìn xa xôi – Mẹ tôi ngóng tương lai và quên hết ưu phiền – Con cò lại bay trên đồng ruộng xanh – Tre già bảo nhau cúi đầu trầm ngâm – Cùng mùi khói lam quen thuộc…”
[Trích ca khúc “Khi tôi về,” theo trang mạng Đặc Trưng]

Kim Tuấn làm thơ để phổ nhạc?

Nếu chỉ tính đến tháng 4-1975 thì, “Thơ Kim Tuấn” là thi phẩm sau cùng của ông, được ấn hành bởi nhà xuất bản Gìn Vàng Giữ Ngọc, Saigòn, 1974.

Như những tập thơ của trước, tác giả “Nụ hoa vàng ngày xuân / Anh cho em mùa xuân,” cho thấy ông nhuần nhuyễn với tất cả mọi thể thơ – – Từ tự do, lục bát, tới bảy và tám chữ. Ở thể loại nào, những bài thơ được viết ra của Kim Tuấn, nếu không phảng phất nét riêng những nơi chốn ông đi qua, vùng đất ông đã sống với thì, chúng cũng đậm đặc tính đời thường. Thơ ông tựa nhật ký, ghi những điều ông muốn nói. Những cảm nhận ẩn, tang giữa hai hàng chữ, thậm chí, trong từng hình ảnh, từng con chữ mà ông đã lựa chọn một cách chân, tiết. Thí dụ bài thơ tự do nhan đề: “Buổi chiều ở Pleiku”:

“Buổi chiều ở Pleiku những cây thông già đứng lên cùng bụi mù “tiếng phi cơ, tiếng xe và tiếng súng “anh còn phút nào để nói yêu em [……] “Buổi chiều ở Pleiku có anh và nỗi buồn “có đêm, có ngày, có quan, có lính “có jeep chở vợ đi chơi, có kẻ chờ xe đi làm “có vui, có buồn, có mây, có núi “có anh đứng nhìn ngày tháng đi qua “buổi chiều ở Pleiku có cà phê và bạn hiền “có biển hồ nước trong có lúc buồn soi mặt “ôi mặt mình sao bỗng gớm ghê “ôi đời mình sao nhìn muốn khóc “ta với ta xa lạ vô cùng.”

[Trích “Thơ Kim Tuấn,” Gìn Vàng Giữ Ngọc, Xb, Saigon 1974.]

Hay lục bát, “Bài Pleime”:

“Nhớ em ta nhớ ngậm ngùi “hương bay cỏ lạ đêm vùi gối chăn “đã quên thân xác nhọc nhằn “hố bom ven núi con trăng đứng nhìn.”

[Trích “Thơ Kim Tuấn,” Gìn Vàng Giữ Ngọc, Xb, Saigon, 1974.]

Hoặc tám chữ, bài “Trên núi mình ta”:

“Ở trên núi ta buồn râu tóc mọc “ngày thinh không chim gọi nắng ven rừng “khe suối cạn năm ba bầy cá lội

“ta với đời nay bỗng đã quay lưng

“Trong giấc ngủ có em cười với mộng “giật mình ra ly chén ngả nghiêng đầy “ta lẻ bạn chén nào ta chúc bạn

“một ngày vui trên núi có ta đây

“Ở trên núi khi sầu ta cúi mặt “anh em còn đâu đó hãy mừng ta “ly rượu nhỏ dẫu sao mời uống cạn “lỡ mai rồi không gặp lúc chia xa.”

[Trích “Thơ Kim Tuấn,” Gìn Vàng Giữ Ngọc, Xb, Saigon, 1974.]

Hoặc nữa, thơ bảy chữ, với bài: “Một chút buồn”:

“Quẩn quanh đời sống ta cười ngất “rượu đã mềm môi cúi mặt sầu “bên đèo đỏ gấc chiều chưa hết

“ai biết tin ai người ở đâu.

“Giấc say một chút buồn ghi dấu “tình đã mù khơi cùng gió bay “em đã mù khơi cùng cõi mộng

“ta đã mù khơi nào có hay.

“Mù khơi năm tháng đi cùng gió “này chút sầu riêng ta tặng người “cõi vui ta đó em nào biết “đời đã già nua tuổi mấy mươi.”

[Trích “Thơ Kim Tuấn,” Gìn Vàng Giữ Ngọc Xb, Saigon, 1974.]

Nhưng xuất sắc, mạnh mẽ nhất trong tất cả các thể loại thơ, ở Kim Tuấn, là năm chữ.

Ở thơ năm chữ, Kim Tuấn không chỉ nắm bắt được yếu tính cô đọng, “kiệm lời” của thể thơ này mà, ông còn không để mình rơi vào trường hợp “chiêu hồn cổ” như Huy Cận, với “một chiếc linh hồn nhỏ – mang mang thiên cổ sầu!” [“Ê chề,” H.C.] Hay gõ, đập cánh cửa quá khứ, cất tiếng tuyệt vọng, như Vũ Đình Liên, với “những người muôn năm cũ – hồn ở đâu bây giờ? [“Ông đồ già,” VĐL.]

Ở thể thơ năm chữ, tôi thấy Kim Tuấn gần với Hồ Dzếnh. Kim Tuấn không đóng vai “trích tiên” [kẻ tự cho rằng mình bị ông trời đầy ải xuống trần gian ô trọc, xa lạ, để sống những ngày đoạ lạc,] mà, ông gần với Hồ Dzếnh, người đã cho chúng ta bài thơ năm chữ nhan đề “Màu cây trong khói” [3] – – Bài thơ tiêu biểu cho một thứ hồn-chiều, hôm nay, vẫn còn thấy đâu đấy, nơi quê nhà. Sau đó, bài thơ ấy đã được cố nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, soạn thành ca khúc, với nhan đề ngắn, gọn: “Chiều.” [4]

“Màu cây trong khói” của Hồ Dzếnh có những câu như: “Tôi là người lữ khách – màu chiều khó làm khuây – ngỡ lòng mình là rừng – ngỡ lòng mình là mây – nhớ nhà châm điếu thuốc – khói huyền bay lên cây.” [Trích “Màu cây trong khói,” HD.]

Những câu thơ đời thường, dung dị kia, gần gũi làm sao với những câu thơ, cũng năm chữ của Kim Tuấn. Như bài “Kỷ niệm” mà, cố nhạc sĩ Y Vân, khi phổ nhạc, đã đổi tên thành “Những bước chân âm thầm”:

“Từng bước từng bước thầm – hoa vông rừng tuyết trắng – rặng thông gia lặng câm – hai đứa nhiều hối tiếc – sương mù giăng mấy đồi – tay đan đầy kỷ niệm – mưa giữa mùa tháng năm – dật dờ cơn gió thổi – một tháng không trăng rầm – mây núi ôm trời thấp – giá rét về căm căm – cao nguyên mù đất đỏ…” [Trích “Kỷ niệm,” K.T., Gìn Vàng Giữ Ngọc Xb, Saigòn, 1974.]

Hoặc bài “Nụ hoa vàng ngày xuân” cũng của Kim Tuấn, được nhạc sĩ Nguyễn Hiền đổi thành “Anh cho em mùa xuân” sau khi soạn thành ca khúc:

“Anh cho em mùa xuân – bàn tay thơm sữa ngọt – dải đất liền chim hót – người yêu nhau trọn đời – mái nhà ai mới lợp – trẻ đùa vui nơi nơi – hết buồn mưa phố nhỏ – hẹn nhau cho cuộc đời – khi hoa vàng sắp nở – trời sắp sang mùa xuân – anh cho em tất cả – tình yêu non nước này – bài thơ còn xao xuyến – nắng vàng trên ngọn cây.” [Trích “Nụ hoa vàng ngày xuân,” K.T., Gìn Vàng Giữ Ngọc Xb, Saigòn, 1974.]

Đó là những câu thơ mà sinh thời, nhạc sĩ Nguyễn Hiền từng phát biểu, đại ý: Khi đọc chúng, ngay những người không rành về ký âm pháp, cũng muốn cất tiếng hát, nói chi nhạc sĩ…

Phát biểu vừa kể của cố nhạc sĩ họ Nguyễn, cho thấy Kim Tuấn không hề, dù chỉ một thoáng, ý hướng làm thơ để phổ nhạc. Thơ ông, tự thân vốn đã là âm nhạc. Ông làm thơ chỉ để bày tỏ tấm lòng yêu cuộc sống, tha thiết ôm trọn cuộc đời từng ngày buồn, vui; phút giây hạnh phúc hay đau khổ trên phần đất ông được sinh ra. Cũng như nơi chốn ông đã đi qua. Cuộc tình ông đã đắm đuối, sống cạn. Và, bằng hữu từng mang đến cho ông những tia nắng ấm, khoảng trời xanh che, chắn những ngày đất, trời tâm hồn ông u ám…

Với Kim Tuấn, tình bằng hữu không chỉ được ghi nhận trong thơ, như một tình yêu mà; ngoài đời, sinh thời, suốt mấy chục năm gập ghềnh trên lộ trình nhân thế, dù ở hoàn cảnh nào, giai đoạn nào, ông cũng luôn cho thấy bằng hữu đã chiếm cứ một phân quan trọng trong đời ông.

Như đã nói, Pleiku, những năm tháng thời chinh chiến, là một trong những nơi chốn tác giả “Trên núi mình ta” sống lâu nhất và, cũng gửi lại nhiều kỷ niệm nhất. Nơi đó, một cách kín đáo, ông chính là người đã góp phần dấy lên những ngọn lửa sinh hoạt văn học, nghệ thuật rưng rưng rừng, núi, ở địa phương này.

Kể từ ngày có sự hiện diện của Kim Tuấn, những buổi đọc thơ, những cuộc triển lãm của những bằng hữu như các hoạ sĩ Dương Ngọc Sum, Nguyễn Văn Hiền, Thái Tăng An…; các nhà thơ như Vũ Hoàng, Anh Hoa, Lâm Hảo Dũng; hay những đêm nhạc của nhạc sĩ Hoàng Châu v.v…, đã lần lượt hình thành, lưu dấu. Nói cách khác, Kim Tuấn, chính ông đã thêm phần nhan sắc cho Pleiku, cho vùng đất đỏ ấy, một tâm cảnh khác.

Riêng ở lãnh vực này, tôi trộm nghĩ, tương lai, những người viết sách địa phương chí cho Pleiku nói riêng, vùng cao nguyên trung phần nói chung, trong phần sinh hoạt văn học nghệ thuật, không nên quên ghi ơn nhà thơ Kim Tuấn. Như những người yêu văn chương, sẽ mãi nhớ ông, qua thơ, cũng như qua các ca khúc, đi ra từ thơ của ông vậy.

Chú thích:

[1]: Theo tác giả Hà Đình Nguyên [trong nước] thì nhà thơ Kim Tuấn có tất cả 17 bài thơ được soạn thành ca khúc. Bài viết không ghi rõ con số này, có gồm cả những bài thơ của Kim Tuấn, được phổ nhạc sau năm 1975 hay không?

[2]: Một tài liệu khác, ghi năm sinh của ông là 1940, tại Huế.
Tuy nhiên, theo nhà thơ Tô Mặc Giang, hiện cư ngụ tại miền Nam Cali, thân thiết với nhà thơ Kim Tuấn từ những năm giữa thập niên 1950 thì, năm sinh đúng của tác giả “Nụ hoa vàng ngày xuân” tức “Anh cho em mùa xuân” là năm 1938, tại Hà Tĩnh, chứ không phải 1940. Mặc dù nguyên quán của ông là Thừa Thiên/Huế.

[3]: Bài “Màu cây trong khói” in trong thi phẩm “Quê Ngoại,” ấn bản đầu tiên, trong Tủ sách Nguyên Hà, nhà Á Châu Ấn Cục, Hà Nội, phát hành năm 1942.

[4]: Nhạc sĩ Dương Thiệu phổ nhạc năm 1951.

Nhạc sĩ Thanh Trang tâm tình với khán giả. [Hình: Văn Lan/Người Việt]

Ðêm nhạc tình ca Thanh Trang

[Văn Lan/Người Việt]

WESTMINSTER, California [NV] – Ðêm nhạc tình ca Thanh Trang chính thức bắt đầu lúc 7 giờ tối Thứ Bảy, 14 Tháng Ba, tại phòng sinh hoạt nhật báo Người Việt, Westminster.

Dưới sự điều khiển của hai MC Hoàng Trọng Thụy và Nhã Lan, cả thính phòng như tràn ngập mùa Xuân khi ban hợp ca Sóng Xanh khai mạc đêm nhạc với “Bài Hát Mùa Xuân,” bài hát được nhạc sĩ Thanh Trang sáng tác vào một ngày Xuân giữa thập niên 1980, trong lúc đi quanh quẩn trên đường phố Sài Gòn.

Lúc đó, ông chợt ngậm ngùi nhớ những mùa Xuân xưa, và bài hát như món quà Xuân ông gửi đến mọi người.

Tiếp theo là “Sài Gòn Nhớ Sài Gòn Thương,” qua phần trình bày của ca sĩ Quang Tuấn, đưa người nghe về một Sài Gòn biết bao kỷ niệm với “Ai bao năm gần với Sài Gòn mà hôm nay không ngậm ngùi tiếc nhớ…,” và anh đã xin lỗi khi có những giọt nước mắt rơi khi nghe ca khúc này.

Kế tiếp là Bích Huyền với “Liễu Buồn Xanh Ngắt Mùa Thu” và Thiên Nga trong “Xuân Tận Miền Xa,” phổ nhạc từ thơ của Kim Tuấn, trong giai điệu Tango dồn dập, và thổn thức với tâm trạng người lính chiến ngày Xuân xa nhà.

Anh Dũng đến với chương trình và cả thính phòng im phăng phắc thưởng thức giọng hát mạnh, trầm ấm của anh với “Duyên Thề” là bài tình ca đầu tay được nhạc sĩ Thanh Trang sáng tác vào năm 1962 tại Sài Gòn khi ông đang học năm thứ hai trường luật mà theo tâm sự của nhạc sĩ, nguồn cảm hứng đến từ một quyển sách Phật, những tư tưởng trong đó khiến trong lòng ông như có một tiếng thở dài nhẹ nhàng, và ca từ của bài hát như một triết lý về tình yêu của tuổi thanh xuân, yêu người, yêu cỏ cây hoa lá,… yêu hết cả cuộc đời này, trong bài hát không hề có bóng dáng của một người con gái bằng xương bằng thịt nào cả.

“Duyên chưa thành lời, một thoáng mơ rồi, người về không nguôi…” Anh Dũng là người ca sĩ có duyên với nhạc phẩm này mà anh hay nghe từ năm 1978 và sang Mỹ. Sau khi đậu hạng nhất kỳ thi tuyển lựa ca sĩ ở vũ trường Ritz, anh đã hát bài này mỗi cuối tuần trong suốt hai tháng liền.

Tiếp theo là tiếng hát Minh Phượng với “Tình Khúc Mùa Ðông” qua phần tự đệm piano, thanh âm cao vút của tiếng hát hòa quyện với tiếng đàn làm người nghe như chơi vơi thổn thức.

Ban hợp ca Sóng Xanh với “Bài Hát Mùa Xuân.” [Hình: Văn Lan/Người Việt]

Trong phần tâm tình với khán thính giả, nhạc sĩ Thanh Trang tâm sự khi mỗi người chúng ta ly hương, ra đi, sẽ không mang theo được gì, cả bến Kim Long, cầu Tràng Tiền,… mà hành trang mang theo duy nhất chỉ là giọng nói, ví dụ như cái giọng nói của miền Bắc sông Hồng, miền Nam sông nước Cửu Long, giọng Sài Gòn nhẹ nhàng và giọng Huế với cách phát âm thật đặc biệt theo như câu hát ví von: “Học trò xứ Quảng ra thi, thấy o gái Huế chân đi không đành.”

Ông cũng nói chính quê nội của ông là miền Bắc và miền Trung là quê ngoại, và như thế mỗi người đều có một dòng sông chảy trong người, dù tất cả đều chảy ra biển nhưng bản chất, nguồn gốc của nó vẫn không hề thay đổi, bản chất của mỗi người đều thể hiện qua giọng nói mang đậm nét quê hương của mình.

Phần tâm sự này để giới thiệu bài “Còn Nhớ Gì Khi Xa Huế,” qua tiếng hát Ái Phương, cô gái Huế không sai đi đâu được khi hát “… Bên tai nghe vẳng tiếng quê nhà. Một tà áo lụa mềm trong gió. Giọng người gợi về một nơi xa!…”

Ca sĩ trẻ Hàn Phúc, mang dáng dấp một tài tử điện ảnh, mà theo lời MC Nhã Lan, anh đã nhất định xin được hát bài “Một Ðời Tôi Hát” như một tâm nguyện của người ca sĩ đem hết tấm lòng đến với khán thính giả. Và “Huyền,” sáng tác của nhạc sĩ Thanh Trang hồi đầu năm 1969 tại Ðà Lạt, được Bích Huyền trình bày bằng giọng hát mượt mà với ca từ thật sang trọng, quý phái. Cũng rất là thiếu sót nếu không nhắc đến bà Lệ Hà, phu nhân của nhạc sĩ, trong thính phòng thưởng thức những nhạc phẩm, trong đó có những bài được viết để riêng tặng bà.

Nhạc sĩ Thanh Trang và phu nhân [ảnh: Văn Lan-Người Việt]

Cả khán phòng như được dẫn dắt trôi đi bất tận theo những điệu nhạc trầm bổng, du dương qua các điệu Valse êm nhẹ trữ tình, Tango sôi nổi, đến tha thiết, từ song ca, hợp ca đến đơn ca, từ tiếng guitar tremolo réo rắt đến tiếng saxo cao vút, tiếng piano rộn ràng, thỉnh thoảng góp thêm lời tâm tình của chính tác giả Thanh Trang làm mọi người rộ lên những tiếng cười thoải mái.

Trước khi chương trình bắt đầu, dù mới hơn 5 giờ chiều mà hàng người đã rồng rắn xếp hàng trước cửa phòng sinh hoạt nhật báo Người Việt. Có người từ xa về như San Diego, Los Angeles, Upland, Mission Viejo,… với nhiều phát biểu thật dễ thương như vì yêu tiếng hát của Quang Tuấn, hoặc có ý kiến là về đây để nghe nhạc Thanh Trang.

Bài “Có Sớm Ta Về,” qua phần trình diễn của ban hợp ca Sóng Xanh, đã khép lại đêm nhạc tình ca Thanh Trang, với 24 bài hát được chọn lọc trong đêm nhạc đã để lại trong lòng thính giả một nỗi niềm bâng khuâng.

Nhạc sĩ Thanh Trang nhận xét: “Thật không vui chút nào khi thấy thính giả phải đứng nghe nhạc trong suốt mấy tiếng đồng hồ. Mong rằng sẽ có một sự thoải mái hơn cho những lần tới.”

[Văn Lan/Người Việt]

oOo

Nói Với Mùa Thu – Ca sĩ Quang Tuấn:

Nói Với Mùa Thu – Ca sĩ Tôn Nữ Liên Hương:

Nói Với Mùa Thu – Ca sĩ Tâm Hảo:

Video liên quan

Chủ Đề