Cán bộ chi huy có vai trò như thế nào trong việc đôn đốc đơn vị thực hiện nhiệm vụ

12/19/2019 6:56:46 AM

Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện; là quân đội kiểu mới, mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân; có tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Xác lập và giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội là nguyên tắc căn bản, quy luật trong xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, là cội nguồn sức mạnh quyết định quá trình trưởng thành, chiến đấu và chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội được Đảng xác định từ rất sớm. Trong Nghị quyết về Đội tự vệ (năm 1935), Đảng xác định: “Luôn luôn phải giữ quyền chỉ huy nghiêm ngặt của Đảng trong Tự vệ thường trực”1. Thực hiện “quyền chỉ huy” - lãnh đạo đối với Quân đội, Đảng đề ra mục tiêu, nhiệm vụ, nguyên tắc và cơ chế lãnh đạo. Trong đó, cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là một bộ phận cấu thành phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, bao gồm tổng thể các nguyên tắc, quy chế, quy định và cơ cấu tổ chức bộ máy, thiết chế, nhằm bảo đảm giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội trong mọi điều kiện, tình huống. Cơ chế lãnh đạo của Đảng là yếu tố bảo đảm cho các tổ chức đảng trong Quân đội tăng cường hiệu lực lãnh đạo đối với cơ quan, đơn vị, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị và hiệu lực của người chỉ huy, góp phần xây dựng Quân đội vững mạnh toàn diện, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Việc xác lập và thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội, nhằm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, được Đảng xác định từ rất sớm và không ngừng được bổ sung, hoàn thiện.

Thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam là một nguyên tắc mới, cấu thành và góp phần hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội được Nghị quyết 51 bổ sung vào những nguyên tắc tổ chức của Quân đội, trên cơ sở trung thành và phát triển sáng tạo học thuyết Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của cách mạng nước ta; khắc phục những hạn chế, bất cập khi thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo Quân đội theo các nghị quyết trước đó, nhất là Nghị quyết 27/NQ-TW của Bộ Chính trị (khóa V). Quán triệt, triển khai và thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ theo tinh thần Nghị quyết 51 từ năm 2006 đến nay đã đạt được những kết quả quan trọng, trực tiếp góp phần hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, biểu hiện trên một số khía cạnh chính sau:

Một là, các cấp ủy, tổ chức đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ việc nghiên cứu, quán triệt học tập Nghị quyết 51. Quán triệt sâu sắc Nghị quyết 51 của Bộ Chính trị, ngày 17-11-2015, Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) ra Nghị quyết 513/NQ-ĐUQSTW (gọi tắt là Nghị quyết 513) lãnh đạo triển khai thực hiện; trong đó xác định: “Các cấp ủy phải có kế hoạch toàn diện cả về tư tưởng, tổ chức và chính sách với phương châm: Tích cực, chủ động, đồng bộ, vững chắc, có quy trình và bước đi phù hợp”. Trên cơ sở đó, ngày 01-12-2005, Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương ban hành Kế hoạch 537/KH-ĐUQSTW triển khai thực hiện Nghị quyết 51 và Nghị quyết 513, xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm, phân công cụ thể việc tổ chức thực hiện trong từng thời gian và định hướng những năm tiếp theo. Theo đó, ngày 12-12-2005, Tổng cục Chính trị ban hành Hướng dẫn 2412/HD-CT, hướng dẫn nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết 51 của Bộ Chính trị. Thực hiện các kế hoạch, hướng dẫn trên, Tổng cục Chính trị chủ trì phối hợp với các cơ quan chức năng giúp Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương tổ chức nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết 51 và Nghị quyết 513. Sau đó, cấp ủy cấp trên cơ sở đã lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ quán triệt nghị quyết, đồng thời tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng cán bộ cơ sở.

Sau hai năm thực hiện Nghị quyết 51 đã đi vào cuộc sống và được các đơn vị trong toàn quân rút kinh nghiệm; những vấn đề bất cập cả về nhận thức và hoạt động đã được phân tích, mổ xẻ, đi tới thống nhất thực hiện. Trên cơ sở đó, tháng 5-2013, Quân ủy Trung ương tiếp tục chỉ đạo các đơn vị tiến hành sơ kết 8 năm thực hiện Nghị quyết 51; phân tích những hạn chế, khuyết điểm trong triển khai thực hiện nghị quyết; kịp thời khắc phục những nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ. Do vậy, “tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên, chiến sĩ trong toàn quân, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến dịch, chiến lược có nhận thức đúng, đầy đủ, sâu sắc về Nghị quyết 51, khẳng định rõ hơn bản chất của việc thực hiện Nghị quyết 51 là tăng cường sự lãnh đạo “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” của Đảng đối với Quân đội, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, chi bộ và xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức”2.

Hai là, kịp thời ban hành, xây dựng, chỉnh sửa, bổ sung điều lệnh, điều lệ, quy chế, quy định thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên chặt chẽ, thống nhất trong toàn quân. Ngay sau khi có Nghị quyết 51, Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương đã chỉ đạo Tổng cục Chính trị chủ trì phối hợp với Bộ Tổng Tham mưu nghiên cứu đề xuất, ban hành chức danh chính ủy, chính trị viên và chính ủy, chính trị viên phó các cấp trong toàn quân; xây dựng đề án, xác định mô hình, mục tiêu, nội dung, chương trình và chỉ tiêu đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính trị đến năm 2010; nghiên cứu, sửa đổi Điều lệnh quản lý bộ đội, Điều lệ công tác đảng, công tác chính trị, Điều lệ công tác tham mưu, tác chiến liên quan trực tiếp đến thực hiện nhiệm vụ của chính ủy, chính trị viên. Đồng thời, ban hành quy định về trách nhiệm, quyền hạn, mối quan hệ công tác của người chỉ huy với chính ủy, chính trị viên3, tạo cơ sở pháp lý, căn cứ khoa học, thống nhất, tạo điều kiện thuận lợi cho thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên ở tất cả các cấp trong toàn quân.

Cùng với đó, Tổng cục Chính trị tiến hành nghiên cứu, ban hành Hướng dẫn 260/HD-CT, ngày 24-3-2006, “Về quản lý và bổ nhiệm chính ủy, chính trị viên” và Quyết định 1723/QĐ-TCCT, ngày 01-12-2007, “Về chức trách, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của chính ủy, chính trị viên, chủ nhiệm chính trị; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của cơ quan chính trị các cấp trong Quân đội nhân dân Việt Nam”. Các cấp ủy có chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, chặt chẽ việc xây dựng quy chế lãnh đạo, quy chế làm việc, thể hiện rõ chức trách, nhiệm vụ, phạm vi, quyền hạn của người chỉ huy và chính ủy, chính trị viên trên các mặt công tác trọng yếu, làm cơ sở cho việc triển khai thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong toàn quân.

Ba là, thực hiện tốt công tác quy hoạch, quản lý, bố trí, sắp xếp, đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ chính trị các cấp. Công tác quy hoạch cán bộ chủ trì về chính trị được gắn với quy hoạch cán bộ chủ trì về quân sự với tầm nhìn xa, bảo đảm tính đồng bộ, kế thừa, phát triển và sự chuyển tiếp liên tục, vững chắc giữa các thế hệ cán bộ. Công tác quản lý cán bộ chính trị được đổi mới. Công tác đánh giá cán bộ ngày càng chặt chẽ, bám sát tiêu chí, tiêu chuẩn, gắn với hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ và chất lượng công tác đảng, công tác chính trị của từng cơ quan, đơn vị. Trong quá trình chuẩn bị tiến hành đại hội nhiệm kỳ 2010-2015, cấp ủy các cấp đã chủ động tuyển chọn, bổ nhiệm, điều động, sắp xếp cán bộ chủ trì gắn với xây dựng cấp ủy viên, bảo đảm sự đồng bộ của hệ thống cán bộ chính trị các cấp. Tiêu chí, tiêu chuẩn cán bộ chủ trì chính trị, chủ trì quân sự đều được xây dựng, cụ thể hóa, làm cơ sở đánh giá, tuyển chọn cán bộ chủ trì gắn với kiện toàn cấp ủy các cấp. Một số học viện, nhà trường, cơ quan, đơn vị đã tích cực thực hiện luân chuyển cán bộ, tạo điều kiện cho cán bộ chính trị trưởng thành toàn diện hơn.

Với những giải pháp tích cực trên, đội ngũ cán bộ chính trị các cấp đã được sắp xếp, bố trí hợp lý, đảm bảo tính kế thừa ngày càng vững chắc giữa các thế hệ, tạo môi trường thuận lợi để tích lũy kinh nghiệm, phương pháp, tác phong công tác, rèn luyện bản lĩnh chính trị, sẵn sàng thay thế khi cần thiết. Qua đó, tạo được nguồn cán bộ kế cận, kế tiếp để bổ nhiệm chính ủy, chính trị viên các cấp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị.

Bốn là, công tác tạo nguồn, tuyển chọn, xác định nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính trị có nhiều đổi mới; số lượng và cơ cấu chính ủy, chính trị viên từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, chất lượng ngày càng cao. Công tác quy hoạch, tạo nguồn, tuyển chọn cán bộ chính trị có nhiều đổi mới. Quy hoạch tổng thể đội ngũ được xác định từ rất nhiều hướng: từ đào tạo cán bộ chính trị, chuyển loại cán bộ chính trị, đào tạo cán bộ chính trị văn bằng 2. Đối tượng đầu vào đào tạo sĩ quan chính trị cấp phân đội, không chỉ giới hạn là quân nhân, học sinh phổ thông, mà còn từ sinh viên tốt nghiệp các trường đại học ngoài quân đội, không chỉ học sinh dự thi khối C, mà có cả khối A, v.v. Hệ thống các nhà trường Quân đội đã bổ sung chương trình, nội dung đào tạo; đa dạng hóa và vận dụng linh hoạt các hình thức đào tạo, bồi dưỡng; kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo cơ bản với đào tạo lại, đào tạo tích lũy từng phần, đào tạo, bồi dưỡng chuyển loại; kết hợp giữa các cơ sở đào tạo trong và ngoài quân đội, đào tạo tại trường với bồi dưỡng tại đơn vị. Nhờ đó, số lượng chính ủy, chính trị viên so nhu cầu biên chế ngày càng tốt hơn; nguồn tuyển chọn ngày càng dồi dào, cơ cấu cân đối, phù hợp hơn, bảo đảm sự chuyển tiếp khá vững chắc giữa các thế hệ, các lớp cán bộ kế cận và kế tiếp. Chất lượng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, trình độ, năng lực công tác của chính ủy, chính trị viên ngày càng được nâng cao, đáp ứng tốt yêu cầu chức trách, nhiệm vụ được giao.

Năm là, chất lượng, hiệu quả lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, hiệu lực công tác đảng, công tác chính trị và hiệu lực thực hiện chế độ một người chỉ huy được nâng cao, góp phần hoàn thiện cơ chế, củng cố và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Chất lượng công tác xây dựng Đảng có nhiều chuyển biến tiến bộ; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, chi bộ được nâng lên. Hệ thống tổ chức đảng, tổ chức quân đội trong toàn quân tiếp tục được củng cố, kiện toàn đồng bộ. Cấp ủy các cấp được tăng cường về số lượng, cơ cấu, có sự điều chỉnh phù hợp với thực tiễn; ban hành và thực hiện nghiêm các quy chế, quy định; có nhiều đổi mới phương pháp công tác, coi trọng lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát thực hiện nhiệm vụ chính trị trọng tâm, then chốt, đột phá khắc phục khâu yếu, mặt yếu; kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng đội ngũ đảng viên với xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cấp ủy viên với cán bộ chủ trì. Các cấp ủy, cán bộ, đảng viên chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo đi đôi với phân công cá nhân phụ trách; duy trì nền nếp, chất lượng sinh hoạt Đảng, nhất là sinh hoạt lãnh đạo, tự phê bình và phê bình, nội bộ đoàn kết, thống nhất; vai trò hạt nhân chính trị, năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu của các tổ chức đảng và tính tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên được nâng lên.

Chất lượng, hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị được nâng lên, góp phần giữ vững định hướng chính trị trong xây dựng và thực hiện nhiệm vụ của Quân đội. Đội ngũ chính ủy, chính trị viên và cơ quan chính trị các cấp đã phát huy trách nhiệm, tích cực, chủ động, có nhiều đổi mới góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị. Trong đó, coi trọng nâng cao tính chiến đấu, sức thuyết phục của công tác tư tưởng và giáo dục chính trị; đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng thi đua - khen thưởng các cấp; tập trung xây dựng và nhân rộng điển hình tiên tiến trên các lĩnh vực; làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, chủ động đấu tranh với những quan điểm, tư tưởng, nhận thức sai trái. Đồng thời, tiến hành tốt công tác chính sách, dân vận, tích cực tham gia xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh; thường xuyên chăm lo, củng cố các tổ chức quần chúng trong quân đội hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ.

Thông qua thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên, hiệu lực chế độ một người chỉ huy được tăng cường, củng cố vững chắc; phát huy được trí tuệ, sức mạnh đoàn kết, tạo thuận lợi để người chỉ huy có điều kiện chuyên tâm, tập trung thực hiện chức trách, nhiệm vụ, ra các quyết định trong chỉ huy, điều hành đơn vị chính xác, kịp thời, có hiệu lực hơn. Các nghị quyết của cấp ủy, chi bộ được người chỉ huy cụ thể hóa thành quyết tâm, kế hoạch, mệnh lệnh và tập trung chỉ đạo thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị. Đồng thời, giải quyết hài hòa các mối quan hệ, nhất là mối quan hệ công tác với cấp ủy, ban thường vụ, chỉ huy trưởng và các cấp phó cùng cấp, tạo được sự đoàn kết, thống nhất trong cấp uỷ, cơ quan, đơn vị; cùng người chỉ huy trao đổi, bàn bạc, thống nhất những vấn đề có tính nguyên tắc trên cơ sở đoàn kết, tôn trọng, cùng chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ của đơn vị. Những kết quả trên trực tiếp góp phần hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội; xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, tạo nền tảng để toàn quân hoàn thành tốt nhiệm vụ, thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả quan trọng đã đạt được, việc thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên theo Nghị quyết 51 vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm, bất cập cả về nhận thức, trách nhiệm và trong tổ chức thực hiện ở các cấp. Một số cán bộ, đảng viên trong toàn quân, có cả cán bộ chủ trì và cơ quan chức năng các cấp nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ về Nghị quyết 51 và các văn bản thi hành. Việc ban hành các văn bản quy định chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác có nội dung chưa rõ, chưa hợp lý, thiếu đồng bộ, thống nhất hoặc chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn nhưng chậm được rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới. Chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động công tác đảng, công tác chính trị ở một số cơ quan, đơn vị có nội dung thiếu chiều sâu và tính thuyết phục. Một số chính ủy, chính trị viên thiếu kiến thức, kinh nghiệm, chưa khẳng định rõ vai trò chủ trì về chính trị. Chậm đổi mới nội dung đào tạo chính ủy, chính trị viên ở cơ quan quân sự địa phương và các doanh nghiệp. Đặc biệt, có trường hợp người chỉ huy lạm quyền, vi phạm các nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, trong khi người chính ủy, chính trị viên, bí thư cấp ủy những nơi đó hoặc không nắm vững, hoặc không thực hiện nghiêm các nguyên tắc lãnh đạo, buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng, dẫn đến đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng, kỷ luật Quân đội, vi phạm pháp luật tới mức phải xử lý.

Nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội trong tình hình mới, cần thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:

Thứ nhất, tiếp tục quán triệt, học tập, tạo chuyển biến vững chắc trong nhận thức về thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với chế độ chính ủy, chính trị viên. Cấp uỷ, chỉ huy, cơ quan chính trị các cấp tiếp tục tổ chức tốt quán triệt, học tập, tuyên truyền sâu rộng, tạo chuyển biến vững chắc về nhận thức, trách nhiệm chính trị của các tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy, cơ quan chức năng các cấp và mọi cán bộ, đảng viên, trước hết là vai trò trách nhiệm của người chỉ huy, chính ủy, chính trị viên trong thực hiện Nghị quyết 51 và các văn bản thi hành. Cùng với đó, cần nhận thức đúng thực trạng và những khó khăn, thuận lợi trong thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên; đồng thời, cụ thể hóa nội dung các nghị quyết, văn bản thi hành thành chủ trương, biện pháp, chỉ tiêu thực hiện phù hợp với điều kiện của cơ quan, đơn vị mình. Vận dụng linh hoạt phương pháp, hình thức giáo dục, quán triệt, tuyên truyền để nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng đối với  thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên. Kịp thời phát hiện, chấn chỉnh quan điểm, nhận thức lệch lạc trong thực hiện và hệ thống văn bản thi hành. Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, nhất là âm mưu đòi “phi chính trị hóa” Quân đội, không để xảy ra “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, giữ vững định hướng chính trị trong mọi hoạt động của cơ quan, đơn vị.

Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện văn bản, quy chế, quy định nhằm thực hiện hiệu quả chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên. Nghiên cứu ban hành văn bản quy định rõ mức độ, tính chất, phạm vi chủ trì về chính trị của chính ủy, chính trị viên ở cơ quan quân sự địa phương. Chỉ rõ sự khác biệt của người chủ trì về chính trị nhưng không tham gia cấp ủy (thường vụ) cấp trên và không làm bí thư đảng ủy quân sự với người chủ trì chính trị ở các đơn vị chủ lực và xác định rõ mối quan hệ giữa chỉ huy thống nhất các lực lượng vũ trang với chỉ đạo thống nhất công tác đảng, công tác chính trị các lực lượng vũ trang thuộc quyền. Xác định rõ hệ thống chức danh cán bộ chính trị ở những nơi không bố trí chính ủy, chính trị viên; làm rõ việc các đồng chí đảm nhiệm công tác đảng, công tác chính trị có chủ trì về chính trị không hay chỉ là chịu trách nhiệm về công tác đảng, công tác chính trị. Xây dựng quy chế quy định cụ thể hơn chức trách, nhiệm vụ của phó chính ủy, chính trị viên phó các đơn vị; không nên quy định phó chính ủy, chính trị viên phó là người giúp việc cho chính ủy, chính trị viên, thực hiện các nhiệm vụ do chính ủy, chính trị viên giao. Nên quy định cụ thể những mặt công tác mà phó chính ủy, chính trị viên phó phải đảm nhiệm và chịu trách nhiệm. Hoàn chỉnh quy chế quy định mối quan hệ chính ủy, chính trị viên với người chỉ huy và các cấp phó cùng cấp. Theo quy định hiện hành, chính ủy, chính trị viên và người chỉ huy cùng cấp là người “chủ trì” về lĩnh vực công tác của bản thân và là người có trách nhiệm, quyền hạn cao nhất trong đơn vị và có quan hệ phối hợp công tác. Quy định như vậy chưa thể hiện rõ mối quan hệ giữa chính ủy, chính trị viên và người chỉ huy đơn vị. Hoàn thiện quy chế, quy định về tuyển chọn, đào tạo cán bộ chuyển loại chính trị; đào tạo, chuẩn hóa tiêu chuẩn cán bộ chính trị các cấp. Kiên quyết không chọn những cán bộ quân sự hoặc chuyên môn kỹ thuật hạn chế về phẩm chất, năng lực để chuyển loại sang chính trị.  Thực hiện nghiêm công tác luân chuyển cán bộ; đảm bảo quá trình luân chuyển được công khai, dân chủ, đúng mục đích, tránh việc lợi dụng luân chuyển như một công cụ để đãi ngộ, ưu ái hoặc thanh trừng, đấu đá lẫn nhau. Nghiên cứu cụ thể hóa tỷ lệ tham gia thường vụ cấp ủy địa phương của chính ủy, chính trị viên (hoặc để tiêu chí mở, chỉ huy trưởng và chính ủy cơ quan quân sự địa phương, đồng chí nào có đủ năng lực, phẩm chất, uy tín thì tham gia thường vụ cấp ủy địa phương), không nên quy định cứng là các đồng chí chỉ huy trưởng tham gia thường vụ cấp ủy địa phương như hiện nay.

Thứ ba, tập trung xây dựng đội ngũ chính ủy, chính trị viên vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Tiếp tục quán triệt, vận dụng thực hiện tốt Nghị quyết 86/NQ-ĐUQSTW, ngày 29-3-2007 của Đảng ủy Quân sự Trung ương về công tác giáo dục - đào tạo trong tình mới; Nghị quyết 769-NQ/QUTW, ngày 21-12-2012 của QUTW, về xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội giai đoạn 2013-2020 và những năm tiếp theo; Nghị quyết 109-NQ/QUTW, ngày 11-02-2019 về xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội, nhất là cấp chiến dịch, chiến lược đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; trong đó, coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị các cấp có số lượng hợp lý, cơ cấu cân đối, đồng bộ, chất lượng đáp ứng mục tiêu, yêu cầu của Nghị quyết 51. Thực hiện tốt công tác quy hoạch, tạo nguồn đào tạo, bồi dưỡng chính ủy, chính trị viên trên cơ sở chuẩn hoá chức trách, nhiệm vụ và quyền hạn của đối tượng này; đồng thời, gắn với quy hoạch, tạo nguồn, tuyển chọn tổng thể đội ngũ cán bộ trong toàn quân, bảo đảm sự liên thông, kế thừa, phát triển và thật sự dân chủ, khách quan. Tập trung nâng cao chất lượng đào tạo chính ủy, chính trị viên tại các nhà trường Quân đội. Thường xuyên đổi mới chương trình, nội dung gắn với đa dạng hóa các hình thức, phương pháp dạy, học trong quá trình đào tạo đội ngũ chính ủy, chính trị viên, bảo đảm tiêu chuẩn, chất lượng và tính liên thông giữa các bậc học. Kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo chính ủy, chính trị viên tại nhà trường với bồi dưỡng trên thực tế công tác; vừa tăng cường công tác quản lý của tổ chức, vừa tạo điều kiện để đội ngũ chính ủy, chính trị viên phát huy tinh thần tự giác trong tự tu dưỡng, học tập, rèn luyện, phấn đấu vươn lên đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới.

Thứ tư, tiếp tục nâng cao chất lượng cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan chính trị và đội ngũ cán bộ chủ trì quân sự các cấp. Tiếp tục nâng cao chất lượng các cấp ủy, tổ chức đảng, nhất là tổ chức đảng ở cơ quan chiến dịch, chiến lược, đơn vị chiến đấu có năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu cao. Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, chấp hành nghiêm quy chế, quy định; duy trì nền nếp, nâng cao chất lượng sinh hoạt. Gắn thực hiện Nghị quyết 51 với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”. Kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, bè phái, “lợi ích nhóm”, đặc quyền, đặc lợi, nói không đi đôi với làm. Cơ quan chính trị các cấp tập trung làm tốt công tác chỉ đạo, hướng dẫn việc sơ kết, tổng kết thực hiện Nghị quyết 51 trong phạm vi đơn vị, đảm bảo nghiêm túc, chặt chẽ. Chú trọng nâng cao năng lực tham mưu, trình độ chuyên môn, góp phần tiến hành công tác đảng, công tác chính trị có chất lượng; thường xuyên giáo dục, tăng cường quản lý, quan tâm chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị vững mạnh, đủ khả năng đảm đương cương vị chủ trì về chính trị trong đơn vị. Trên cơ sở tạo sự đồng thuận cao trong đội ngũ cán bộ chủ trì quân sự về vị trí, vai trò của chính ủy, chính trị viên và sự cần thiết tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội; tập trung xây dựng cho đội ngũ cán bộ chủ trì quân sự về tinh thần đoàn kết, làm việc đúng chức trách và giải quyết tốt các mối quan hệ với chính ủy, chính trị viên. Đồng thời, nâng cao năng lực chỉ huy, tham mưu, đề xuất, kiểm tra, đôn đốc của đội ngũ cán bộ chủ trì quân sự, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của đơn vị, tạo nền tảng nâng cao hiệu lực của người chỉ huy và hoạt động công tác đảng, công tác chính trị, góp phần tạo dựng vị thế cho đội ngũ chính ủy, chính trị viên.

Thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết 51 là chủ trương lớn, có ý nghĩa chiến lược và đã được khẳng định trong thực tiễn. Thời gian tới, toàn quân cần tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm nghị quyết này, nhằm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội, xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.

Đại tướng PHẠM VĂN TRÀ, Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Nguyên Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
_______________

1- ĐCSVN - Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, H. 2002, tr. 95.

2 - Báo cáo số 567-BC/QUTW, ngày 11-8-2014 của Quân ủy Trung ương, sơ kết thực hiện Nghị quyết số 51-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) “Về việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam” từ năm 2005 đến nay.

3 - Quyết định số 85-QĐ/ĐUQSTW, ngày 03-4-2006 của Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương “Về trách nhiệm, quyền hạn, mối quan hệ làm việc của người chỉ huy và chính ủy, chính trị viên”.