Chiến thắng bạch đằng năm bao nhiêu năm 2024

Cách đây 1.085 năm, những ngày tháng 10 năm Mậu Tuất [938], Đức Vương Ngô Quyền đã đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng.

3 vị anh hùng từng làm nên chiến thắng oanh liệt trên sông Bạch Ðằng, từ trái qua: Vua Lê Ðại Hành, Ðức Vương Ngô Quyền và Hưng Ðạo Ðại Vương Trần Quốc Tuấn. Tượng đặt hướng ra sông Bạch Ðằng, trong khuôn viên Khu Di tích Bạch Bằng Giang ở TP Hải Phòng.

Năm 937, Tiết Đô Sứ Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn, hào trưởng đất Phong Châu, giết và đoạt chức. Đức Vương Ngô Quyền khi ấy là bộ tướng cũng là con rể của Dương Đình Nghệ, tiến quân ra Bắc diệt trừ kẻ phản bội. Kiều Công Tiễn hay tin cầu viện quân Nam Hán.

Vua Nam Hán nhân cơ hội này, mưu đồ đánh chiếm nước ta, cử quân sang với danh nghĩa giúp Kiều Công Tiễn đánh Ngô Quyền. Nhưng khi quân Nam Hán chưa kịp sang thì Đức Vương Ngô Quyền đã tiêu trừ Kiều Công Tiễn ở Đại La Thành.

"Nội xâm" đã xong, Đức Vương Ngô Quyền cùng nhân dân đêm ngày chuẩn bị, đánh giặc ngoại xâm. Quân của ông được sự ủng hộ của nhân dân, trở thành đạo binh hùng mạnh. Trong khi, quân của Nam Hán đã mất vía vì "nội ứng" Kiều Công Tiễn không còn, cầm đầu là hoàng tử Hoằng Tháo còn nhỏ, không có tài quân sự.

Nhận thấy địa thế cửa ngõ của sông Bạch Đằng, Đức Vương Ngô Quyền huy động nhân dân, quân lính đốn gỗ làm cọc, tạo thành bãi cọc để làm chướng ngại vật ở hai bên cửa sông. Khi thủy triều lên, cả bãi cọc ngập chìm dưới nước nhưng khi nước rút thì bãi cọc sẽ nhô lên. Lợi dụng quy luật thiên nhiên, vào một ngày sang đông năm 938, Đức Vương Ngô Quyền đã cho quân Nam Hán vào được mà ra không được. Sách "Đại Việt sử ký toàn thư" chép: "Khi nước thủy triều lên, Ngô Quyền sai người đem thuyền nhẹ ra khiêu chiến, giả thua chạy để dụ địch đuổi theo. Hoằng Tháo quả nhiên tiến quân vào. Khi binh thuyền đã vào trong vùng cắm cọc, nước triều rút, cọc nhô lên, Ngô Quyền bèn tiến quân ra đánh, ai nấy liều chết chiến đấu". Nhờ đó, quân xâm lược bị tiêu diệt, chết đuối quá nửa, Hoằng Tháo cũng bỏ mạng, số còn lại tan tác như rắn không đầu. "Đại Việt sử ký toàn thư" thuật: "Vua Hán thương khóc, thu nhặt quân còn sót mà rút lui".

Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 đã mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử dân tộc, thời kỳ phát triển của quốc gia phong kiến độc lập. Nhà sử học Ngô Thì Sỹ [thế kỷ XVIII] đã nhận định: "Trận thắng lợi trên sông Bạch Đằng là cơ sở sau này cho việc phục lại Quốc thống. Những chiến công các đời Đinh, Lê, Lý, Trần vẫn còn nhờ vào cái uy lẫm liệt để lại ấy".

Với Chiến thắng Bạch Đằng 938, Đức Vương Ngô Quyền ghi danh vào trang sử hào hùng của dân tộc không chỉ là vị tướng tài năng, mà còn là người đầu tiên "mở nước xưng Vương", đặt nền móng cho độc lập, tự chủ thực sự và lâu dài của dân tộc. Mùa xuân năm 939, ông xưng Vương, khẳng định nước ta là một vương quốc độc lập. Bộ máy nhà nước quân chủ độc lập đầu tiên của nước ta chính thức được hình thành.

Ngày nay, nhiều địa phương có sông Bạch Đằng chảy qua như Quảng Ninh, Hải Phòng... vẫn còn lưu dấu nhiều di tích của những chiến thắng vang dội năm xưa, trong đó có Chiến thắng Bạch Đằng 938.

Ngô Quyền [897 - 944], người làng Đường Lâm [nay là xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội]. Cha ông là Ngô Mân từng làm chức Châu mục Đường Lâm. Từ nhỏ, Ngô Quyền đã sống trong truyền thống yêu nước của quê hương.

Ngô Quyền là vị vua họ Ngô đầu tiên của nước ta. Ông là người lãnh đạo quân ta đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938, chấm dứt thời kỳ hơn 1.000 năm Bắc thuộc và mở ra một thời kỳ độc lập, tự chủ mới cho nước nhà.

Tượng Ngô Quyền tại quần thể di tích Từ Lương Xâm, phường Nam Hải, quận Hải An, Tp. Hải Phòng

Ở Trung Quốc, năm 907 nhà Đường sụp đổ. Các tập đoàn phong kiến quân phiệt phương Bắc vừa thôn tính, tiêu diệt nhau đẫm máu, vừa tận dụng mọi cơ hội bành trướng xâm lược ra bên ngoài.

Vua Nam Hán là Lưu Nghiễm [sau đổi là Lưu Cung] đã đặt tên nước là Đại Hán với tham vọng kế tục mộng bành trướng của đế chế Đại Hán hồi đầu Công nguyên. Hướng bành trướng chủ yếu của Nam Hán là phương Nam, nhằm vào đất nước ta, một đất nước giàu có và giữ vị trí trọng yếu của vùng Đông Nam Á, lại vừa qua hơn nghìn năm Bắc thuộc.

Thực hiện mộng bành trướng đó, năm 930, vua Nam Hán đã mở cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ nhất. Chúng đã đánh bại được chính quyền họ Khúc, chiếm được phủ thành Đại La. Năm 931, một tướng của họ Khúc là Dương Đình Nghệ đã dấy quân từ châu Ái, nhanh chóng quét sạch quân giặc ra khỏi nước nhà, giành lại chủ quyền dân tộc.

Năm 937, Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn ám hại để đoạt chức Tiết độ sứ. Kiều Công Tiễn đã cho người sang cầu cứu vua Nam Hán. Nhân thời cơ đó, Nam Hán phát động cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai.

Lần này, vua Nam Hán sai con trai là Thái tử Giao Vương Lưu Hoằng Tháo thống lĩnh quân thủy vượt biển tiến vào nước ta. Vua Nam Hán cũng đích thân đem quân áp sát biên giới để yểm trợ, gây thanh thế cho con và sẵn sàng tiếp ứng khi cần thiết.

Đến tháng 10 năm 938, Ngô Quyền từ vùng châu Ái đem quân ra đánh Kiều Công Tiễn, trừ mối họa bên trong và làm thất bại ngay từ đầu âm mưu dùng nội ứng của Nam Hán. Sau đó, ông huy động nhân dân cả nước khẩn trương bước vào cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nam Hán.

Trên cơ sở phát huy sức mạnh đoàn kết và khí thế độc lập của dân tộc, phân tích và đánh giá chỗ mạnh, chỗ yếu của ta và của địch, Ngô Quyền bày một thế trận hết sức kiên quyết, chủ động và lợi hại để nhanh chóng phá tan quân giặc.

Ông huy động nhân dân đẵn gỗ, vót nhọn, bịt sắt, đóng thành một bãi cọc ở cửa sông Bạch Đằng. Quân thủy bộ với sự tham gia của các lực lượng dân binh, bố trí mai phục sẵn ở phía trong bãi cọc, vùng hạ lưu sông Bạch Đằng. Một đội thuyền nhẹ dưới quyền chỉ huy của người thanh niên Gia Viện [Hải Phòng] là Nguyễn Tất Tố, giỏi bơi lội và quen thuộc sông nước, được giao nhiệm vụ khiêu chiến, nhân lúc nước triều lên nhử địch vượt qua bãi cọc, dấn thân vào cạm bẫy mai phục bên trong của ta.

Bạch Đằng là cửa ngõ phía Đông Bắc của Tổ quốc ta, như tác giả bộ sử "Cương mục": "Sông rộng hơn hai dặm, ở đó có núi cao ngất, nhiều nhánh sông đổ lại, sóng cồn man mác giáp tận chân trời, cây cối um tùm che lấp bờ bến". Ngô Quyền không những biết lợi dụng địa hình thiên nhiên, để ém quân mai phục, phối hợp bộ binh với thủy binh, ông còn là người biết lợi dụng thủy triều sớm nhất trong lịch sử quân sự nước ta, gắn với việc bố trí bãi cọc ngầm nổi tiếng.

Trong thế trận của Ngô Quyền, trận địa mai phục bên trong bãi cọc giữ vai trò quyết định, chặn đứng đoàn thuyền địch và giáng cho chúng một đòn tiêu diệt bất ngờ, nặng nề. Trận địa cọc giữ vai trò quan trọng, khóa đường tháo chạy của chiến thuyền địch và bao vây tiêu diệt triệt để quân giặc. Sự phối hợp giữa hai trận địa chứng tỏ quyết tâm chiến lược của Ngô Quyền là phen này không chỉ đánh bại quân giặc mà còn bao vây, tiêu diệt toàn bộ binh thuyền của giặc, giành thắng lợi oanh liệt, đập tan mộng xâm lược bành trướng của triều Nam Hán. "Trận địa cọc" là một nét độc đáo của trận Bạch Đằng, cũng là một sáng tạo rất sớm trong nghệ thuật quân sự Việt Nam mà người khởi xướng là Ngô Quyền.

Chiến thắng Bạch Đằng năm 938

Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nam Hán trên sông Bạch Đằng đã diễn ra ác liệt và kết thúc rất nhanh gọn.

Ngô Quyền trực tiếp chỉ huy quân mai phục sẵn ở phía trong bãi cọc, dấu quân trong các nhánh sông và bên hữu ngạn sông Bạch Đằng.

Khi cả binh đoàn thuyền lớn của Hoằng Tháo ào ạt vượt cửa biển An Bang tiến vào cửa ngõ Bạch Đằng, Ngô Quyền cho bộ phận tiên phong dùng thuyền nhẹ ra đón đánh địch từ xa, nghi binh dụ địch. Lúc thủy triều lên to ngập trận địa cọc, bộ phận này giả thua rút chạy nhử địch vào trận địa đúng lúc, đúng chỗ. Tướng Hoằng Tháo kiêu ngạo thúc đại quân đuổi gấp, trúng kế, mắc mưu, vượt qua bãi cọc ngầm.

Đợi thủy triều xuống, Ngô Quyền mới cho quân mai phục đổ ra bao vây thuyền địch. Thuyền địch va vào cọc nhọn bịt sắt bị đâm thủng, chìm đắm gần hết, quân chết đuối quá nửa. Hoằng Tháo bị giáo đâm, lăn xuống nước chết tại trận. Quân ta giết và bắt sống hầu hết quân Nam Hán. Thời gian trận đánh chỉ diễn ra trong phạm vi một ngày. Chiến thắng Bạch Đằng nhanh gọn, bất ngờ đến mức vua Nam Hán đang cầm quân tiếp ứng đóng ở biên giới mà không kịp trở tay đối phó. Hắn kinh hoàng, khủng khiếp, đành "thương khóc thu nhặt quân còn sót lại mà rút lui" [Đại Việt sử ký toàn thư] và "đem dư chúng quay trở lại" [Ngũ đại sử ký].

Bản đồ trận chiến trên sông Bạch Đằng năm 938

Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 đã ghi vào lịch sử dân tộc nói chung và lịch sử chống ngoại xâm nói riêng, như một sự kiện trọng đại có vị trí và ý nghĩa lịch sử hết sức lớn lao. Đây được coi là cột mốc quan trọng trong tiến trình lịch sử Việt Nam. Chiến thắng đã giúp phá bỏ nền thống trị hơn 1.000 năm của phong kiến phương Bắc, mở ra thời kỳ độc lập thực sự và lâu dài của dân tộc ta.

Ngô Quyền - người anh hùng của chiến thắng oanh liệt trên sông Bạch Đằng năm 938 - trở thành vị vua có "công tái tạo, vua của các vua" theo như nhận định của Đại Việt sử ký toàn thư. Ông xứng đáng với danh hiệu là "vị tổ trung hưng" của dân tộc như nhà yêu nước Phan Bội Châu lần đầu tiên đã nêu lên trong Việt Nam quốc sử khảo.

Lăng Ngô Quyền, xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội

Mùa xuân năm Kỷ Hợi [939], Ngô Quyền quyết định bỏ chức Tiết độ sứ, tự xưng vương lấy hiệu là Ngô Vương Quyền, thành lập một vương quốc độc lập. Chọn kinh đô cũ của Âu Lạc là Cổ Loa làm kinh đô nước Việt để tỏ ý nối tiếp truyền thống của các vua Hùng, vua Thục.

Ngợi ca Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng, nhà sử học Lê Văn Hưu viết trong "Đại Việt sử ký toàn thư": "Tiền Ngô vương có thể lấy quân mới họp của nước Việt ta mà đánh tan được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Tháo, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể nói là một lần nổi giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy. Tuy chỉ xưng vương, chưa lên ngôi đế, đổi niên hiệu, nhưng chính thống của nước Việt ta, ngõ hầu đã nối lại được".

Lê Khiêm [tổng hợp]

Nguồn tham khảo:

- Phan Huy Lê, "Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 vị trí, ý nghĩa lịch sử và những vấn đề khoa học đang đặt ra". NCLS, Số 2 [203], tháng 3-4/1982, tr. 12-17.

- Lê Năng Hiển, "Truyện sử Ngô Quyền và cọc Bạch Đằng [897 - 944]", Ba chiến thắng Bạch Đằng giang, H.: Văn hóa - Thông tin, 2003, tr. 63-73.

Chủ Đề