Công lao to lớn đầu tiên của nhà Nguyễn đối với lịch sử dân tộc nửa đầu thế kỷ 19 là gì

(ADMM) - Trong tiến trình phát triển lịch sử, Việt Nam nằm ở một trong những khu vực được coi là cái nôi của loài người và cũng được coi là một trong những trung tâm phát sinh nông nghiệp sớm với nền văn minh lúa nước, nơi đã từng trải qua các cuộc cách mạng đá mới và cách mạng luyện kim. Trên nền tảng phát triển kinh tế - xã hội thời Đông Sơn, trước những đòi hỏi của công cuộc trị thủy và chống xâm lăng, Nhà nước Văn Lang - Nhà nước đầu tiên - đã ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VII trước Công nguyên. Bằng sức lao động cần cù sáng tạo, cư dân Văn Lang (sau đó là Âu Lạc) đã tạo dựng nên một nền văn minh tỏa sáng khắp vùng Đông Nam Á. Đi cùng với Nhà nước đầu tiên của lịch sử Việt Nam là một nền kinh tế phong phú, một nền văn hóa cao mà mọi người biết đến với tên gọi là văn minh Sông Hồng (còn gọi là văn minh Đông Sơn) với biểu tượng là trống đồng Đông Sơn - thể hiện sự kết tinh lối sống, truyền thống và văn hóa của người Việt cổ.

Trong quá trình dựng nước, người Việt đã phải liên tiếp đương đầu với sự xâm lăng của các thế lực bên ngoài. Độ dài thời gian và tần suất các cuộc kháng chiến, khởi nghĩa và đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam rất lớn. Kể từ cuộc kháng chiến chống Tần (thế kỷ III trước Công nguyên) đến cuối thế kỷ XX, đã có tới 12 thế kỷ Việt Nam phải tiến hành hàng trăm cuộc đấu tranh giữ nước, khởi nghĩa và đấu tranh giải phóng. Một điều đã trở thành quy luật của các cuộc đấu tranh giữ nước của dân tộc Việt Nam là phải “lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh”.

Từ thế kỷ thứ II trước Công nguyên (kéo dài hơn 1.000 năm), Việt Nam bị các triều đại phong kiến phương Bắc thay nhau đô hộ. Sự tồn vong của một dân tộc bị thử thách suốt hơn nghìn năm đã sản sinh ra tinh thần bất khuất, kiên cường, bền bỉ đấu tranh bảo tồn cuộc sống, giữ gìn và phát huy tinh hoa văn hóa, quyết giành lại độc lập cho dân tộc của người dân Việt Nam.

Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử Việt Nam - kỷ nguyên phát triển quốc gia phong kiến độc lập, thời kỷ xây dựng và bảo vệ nền độc lập dân tộc. Dưới các triều Ngô (938 - 965), Đinh (969 - 979), Tiền Lê (980 - 1009), nhà nước trung ương tập quyền được thiết lập.

Sau đó, Việt Nam bước vào thời kỳ phục hưng và phát triển (với quốc hiệu Đại Việt) dưới triều Lý (1009 - 1226), Trần (1226 - 1400), Hồ (1400 - 1407), Lê Sơ (1428 - 1527). Đại Việt dưới thời Lý - Trần - Lê Sơ được biết đến như một quốc gia thịnh vượng ở châu Á. Đây là một trong những thời kỳ phát triển rực rỡ nhất trong lịch sử của Việt Nam trên mọi phương diện. Về kinh tế: nông nghiệp phát triển, thủy lợi được chú ý phát triển (đê Sông Hồng được đắp vào thời kỳ này), các làng nghề ra đời và phát triển. Về tôn giáo: tín ngưỡng dân gian, Phật giáo và Nho giáo được coi là tam giáo đồng nguyên. Một thành tựu quan trọng trong thời Lý - Trần là việc phổ biến chữ Nôm, chữ viết riêng của Việt Nam dựa trên cơ sở cải biến và Việt hóa chữ Hán. Bên cạnh đó các lĩnh vực khác như giáo dục, khoa học kỹ thuật, văn học - nghệ thuật, lịch sử, luật pháp… cũng rất phát triển (Văn Miếu - Quốc Tử Giám được xây dựng, sự ra đời của Bộ luật Hồng Đức, Đại Việt Sử ký, Đại Việt Sử ký toàn thư…). Lịch sử gọi thời kỳ này là Kỷ nguyên văn minh Đại Việt. Thăng Long (bây giờ là Hà Nội) cũng được chính thức công nhận là Kinh đô của Đại Việt với Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn vào năm 1010.

Từ thế kỷ XVI, chế độ phong kiến Việt Nam với tư tưởng nho giáo đã bộc lộ sự lạc hậu và bắt đầu suy yếu. Trong khi nhiều quốc gia - dân tộc ở châu Âu đang dần chuyển sang chủ nghĩa tư bản thì Đại Việt bị chìm trong nội chiến và chia cắt. Tuy trong các thế kỷ XVI - XVIII, nền kinh tế, văn hóa có những bước phát triển nhất định, nhiều thành thị, thương cảng ra đời đẩy nhanh quan hệ buôn bán trong và ngoài nước, nhưng cảnh chia cắt và nội chiến đã kìm hãm sự phát triển của đất nước.

Bước sang đầu thế kỷ XIX, các nước tư bản phương Tây đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, ráo riết tìm kiếm thị trường, từng bước xâm chiếm thuộc địa. Người Pháp, thông qua con đường truyền đạo, thương mại đã tiến hành thôn tính Việt Nam. Đây là lần đầu tiên dân tộc Việt Nam phải đương đầu với họa xâm lăng từ một nước công nghiệp phương Tây. Trong hoàn cảnh này, một số trí sĩ Việt Nam đã nhận thức được yêu cầu bảo vệ độc lập phải gắn liền với cải cách, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng trì trệ của phương Đông. Họ đã đệ trình những đề nghị canh tân đất nước, nhưng đều bị triều Nguyễn khước từ, đẩy đất nước vào tình trạng lạc hậu, bế tắc và từ đó Việt Nam đã trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến trong gần 100 năm (1858 - 1945).

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930 là dấu mốc quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Tháng 8/1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mà người đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã khởi nghĩa giành chính quyền thành công, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2/9/1945.

Nước Việt Nam non trẻ vừa ra đời lại phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước kéo dài suốt 30 năm sau đó. Cuộc kháng chiến 9 năm (1945 - 1954) chống lại sự xâm lược trở lại của Pháp ở Việt Nam kết thúc bằng Chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Genève về Việt Nam năm 1954. Theo Hiệp định này, đất nước tạm thời bị chia làm hai vùng lãnh thổ miền Bắc và miền Nam, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến và sẽ được thống nhất hai năm sau đó (1956) thông qua một cuộc tổng tuyển cử. Miền Bắc Việt Nam vào thời kỳ này mang tên Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động; Thủ đô là Hà Nội. Miền Nam mang tên Việt Nam Cộng hoà với sự quản lý của chính quyền thân Pháp, rồi thân Hoa Kỳ đặt tại Sài Gòn. Chính quyền Sài Gòn đã bằng mọi cách ngăn chặn cuộc tổng tuyển cử, đàn áp và loại bỏ những người kháng chiến cũ. Tuy nhiên, chính quyền Sài Gòn đã không thể ngăn cản được nguyện vọng thống nhất đất nước của quần chúng. Phong trào đấu tranh vì hòa bình, thống nhất đất nước đã bùng nổ mạnh mẽ. Ngày 20/12/1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập.

Để duy trì chế độ Sài Gòn, Hoa Kỳ đã tăng cường viện trợ quân sự. Đặc biệt kể từ giữa thập kỷ 60, Hoa Kỳ đã gửi nửa triệu quân và đồng minh đến miền Nam Việt Nam trực tiếp tham chiến và bắt đầu ném bom miền Bắc Việt Nam từ ngày 5/8/1964. Nhân dân Việt Nam, theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, đã đứng vững và giành nhiều thắng lợi ở cả hai miền Nam và Bắc. Năm 1973, Washington buộc phải ký hiệp định Paris về lập lại hoà bình ở Việt Nam và rút toàn bộ quân đội Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam. Mùa Xuân năm 1975, trên tinh thần đại đoàn kết dân tộc và được sự đồng tình của nhân dân yêu chuộng hòa bình, công lý và tiến bộ trên thế giới, các lực lượng vũ trang yêu nước Việt Nam đã thực hiện cuộc tổng tiến công đập tan chính quyền Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ngày 25/4/1976, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được đổi tên thành nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với lãnh thổ bao gồm cả hai miền Nam và Bắc.  Năm 1977, Việt Nam trở thành thành viên của Liên hợp quốc.

Trong 10 năm đầu của thời kỳ sau chiến tranh, nhiều mục tiêu kinh tế - xã hội không thực hiện được do những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nền kinh tế Việt Nam rơi vào khủng hoảng, trì trệ, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.

Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986) đã đề ra đường lối Đổi mới với trọng tâm là đổi mới kinh tế. Đây là một mốc quan trọng trong quá trình phát triển của dân tộc Việt Nam thời kỳ mới. Đường lối Đổi mới tiếp tục được Đảng khẳng định và hoàn thiện qua các kỳ Đại hội sau đó. Trong 30 năm qua, kể từ khi tiến hành Đổi mới, Việt Nam từ một nước nhập khẩu lương thực đã trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới (năm 2015, Việt Nam xuất khẩu gạo đứng thứ 3 thế giới, sau Ấn Độ và Thái Lan), nhiều chủng loại hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam được ưa chuộng, nhiều thương hiệu hàng hóa được thế giới biết đến, kinh tế đạt tăng trưởng cao, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao, chính sách xã hội được chú trọng, hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện, quản lý xã hội trên cơ sở luật pháp dần đi vào nề nếp, quốc phòng, an ninh được giữ vững, quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu.

Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam, điểm nổi bật chiếm vị trí hàng đầu và trở thành chuẩn mực đạo lý Việt Nam là tinh thần yêu nước, ý chí tự lập, tự cường, truyền thống đoàn kết vì đại nghĩa dân tộc. Cuộc sống lao động gian khổ đã tạo ra truyền thống lao động cần cù, sáng tạo và kiên nhẫn; yêu cầu phải liên kết lại để đấu tranh với những khó khăn, thách thức đã tạo ra sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với nhau trong mối quan hệ gia đình, láng giềng, dòng họ của người Việt cũng như trong cộng đồng nhà - làng - nước - dân tộc. Lịch sử cũng cho con người Việt Nam truyền thống tương thân tương ái, sống có đạo lý, nhân nghĩa; khi gặp hoạn nạn thì đồng cam cộng khổ, cả nước một lòng; tính thích nghi và hội nhập; lối ứng xử mềm mỏng và truyền thống hiếu học, trọng nghĩa, khoan dung. Đây chính là sức mạnh tiềm tàng, là nội lực vô tận cho công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.


Nguồn: www.mofa.gov.vn

Vì vậy, song song với việc dùng biện pháp quân sự và hành chính để đàn áp và khống chế nhân dân, các vua triều Nguyễn đều đặc biệt chú trọng đến việc khẩn hoang, coi đó là một biện pháp tích cực nhất đưa dân vào công việc sản xuất, giải quyết được nạn dân lưu tán, giảm bớt mâu thuẫn xã hội, đồng thời lại có thể tăng thêm diện tích trồng trọt và tăng thêm thu nhập cho nhà nước.

          "Trong việc thực hiện chủ trương đẩy mạnh công cuộc khẩn hoang, triều đình Nguyễn đặc biệt chú ý đến Nam Bộ. Đó là vì nơi đây còn nhiều đất hoang có thể khai phá để trồng trọt. Từ 1802 đến 1855, triều Nguyễn đã liên tiếp ban hành 25 quyết định về khai hoang trong đó có 16 quyết định áp dụng ở Lục tỉnh, 2 ở Bắc thành và 6 đối với toàn quốc"1.

          Để đẩy mạnh công cuộc khẩn hoang, triều Nguyễn đã dùng nhiều biện pháp khác nhau. Bên cạnh khuyến khích nhân dân tự do khẩn hoang, lập làng mới, các vua Nguyễn còn cắt cử quan lại đứng ra tổ chức cho dân chúng, binh lính, tù phạm khai hoang qua hình thức đồn điền.

          Đồn điền là hình thức khai hoang kết hợp kinh tế với quốc phòng. Địa điểm lập đồn điền thoả mãn hai điều kiện: nơi xung yếu về quân sự và có tiềm năng đất đai để khai hoang. Cụ thể là do yêu cầu về phát triển sản xuất và yêu cầu về chính trị, quân sự ở vùng biên giới trong đối nội và cả đối ngoại. Trong đó yêu cầu về kinh tế là nhân tố lâu dài và cơ bản nhất.

           Ngay sau khi lên ngôi, Gia Long đã cho lập đồn điền ở cả bốn phủ thuộc Gia Định thành: phủ Tân Bình (tức trấn Phiên An), phủ Phước Long (tức trấn Biên Hoà), phủ Định Viễn (tức trấn Vĩnh Thanh), phủ Kiến An (tức trấn Định Tường), có nghĩa là trên toàn vùng Đồng Nai – Gia Định. Sang triều Minh Mạng, đồn điền còn phát triển hơn triều Gia Long, và được lập ở nhiều nơi, đặc biệt là ở vùng biên giới như Hà Tiên, Trấn Tây Thành, hải đảo Côn Lôn. Dưới triều Thiệu Trị không biết vì lẽ gì việc lập đồn điền bị đình chỉ, nhưng sang triều Tự Đức, việc lập đồn điền lại được chú trọng. Nguyễn tri Phương được giao nhiệm vụ mộ dân lập đồn điền và chỉ trong một thời gian rất ngắn (khoảng 1 năm), 25 cơ đồn điền, mỗi cơ khoảng trên 300 người, được lập lên trên toàn lãnh thổ Nam Bộ.

Công lao to lớn đầu tiên của nhà Nguyễn đối với lịch sử dân tộc nửa đầu thế kỷ 19 là gì

                               Bản đồ Nam Kỳ lục tỉnh triều Nguyễn

          Bên cạnh việc khuyến khích khẩn hoang lập làng mới, lập đồn điền, tổ chức sản xuất, các vua Nguyễn cũng đã chú ý đến việc tổ chức quản lí ruộng đất nhằm tăng cường hiệu lực quản lí của nhà nước, trong đó có đồn điền ở Nam Bộ. Vì thế, năm 1836 Minh Mạng thực hiện một số quyết định lớn: đo lại toàn bộ ruộng đất Nam Kì và lập sổ địa bạ các làng xã ở đây. Kế hoạch được triển khai nhanh và đạt kết quả rất tốt. Điều đáng chú ý trong địa bạ Nam Kì (1836) là ngoài những thông tin chủ yếu về tình hình ruộng đất, còn có cước chú thêm nguồn gốc các loại ruộng đất. Như, ở mục tư điền, tư thổ địa bạ không chỉ ghi tên chủ sở hữu mà còn ghi rõ tên chủ sở hữu trước đó. Hay ở mục công điền, công thổ; công thổ viên địa bạ cho biết thêm một số trường hợp nguyên trước là thuộc sở hữu tư nhân nhưng do chủ sở hữu ruộng đất đã chết mà không có người thừa tự nên trở thành ruộng đất công. Ngoài ra sự thay đổi loại hình ruộng đất (ruộng thành đất, đất thành ruộng, từ trồng lúa sang trồng màu…) cũng được ghi chú rõ ràng1.

          Nhìn lại hơn nửa thế kỉ thực hiện chế độ đồn điền của nhà Nguyễn ở Nam Bộ trong nửa đầu thế kỉ XIX đã mang lại những kết quả tích cực trên nhiều mặt, thoả mãn được nhiều mục tiêu mà các vua đầu triều Nguyễn mong muốn thực hiện:  Nam Kì đất rộng, người thưa và là khu vực chủ yếu để phát triển chế độ đồn điền. Điều này có 4 điều lợi: Mở rộng diện tích canh tác ruộng đất, khai phá đất hoang, tăng sản lượng lương thực; tăng thêm thu nhập của nhà nước; đảm bảo quyền thống trị của nhà nước trên vùng đất mới đồng thời đảm bảo việc trị an ở địa phương; giải quyết một phần quân lương vùng biên giới và lương thực cho tù phạm.

          Mặt khác, thực hiện chế độ đồn điền ở thời kì này còn cho phép nhà Nguyễn giải quyết được những vấn đề bức xúc của xã hội như vấn đề dân nghèo không ruộng đất, phiêu tán, góp phần giảm bớt những mâu thuẫn xã hội vốn đã gay gắt từ các thế kỉ trước. Ưu điểm của chính sách này là có thể huy động được đủ mọi loại người, dù không có một tấc sắt trong tay, đều có thể lập nghiệp được. Nhà nước sẽ cấp, hay nói đúng hơn, cho vay hoặc cho thuê trước các loại trâu bò nông cụ, lúa giống và các phương tiện khác. Như thế những người không có đất trở thành có đất, ruộng đồng trong nước phát triển về số lượng và khoản thuế thu cho triều đình tăng tiến không ngừng. Qua công cuộc tổ chức và khuyến khích khẩn hoang, rõ ràng triều Nguyễn có sự quan tâm nhất định đến việc phục hồi và phát triển sản xuất nông nghiệp thông qua chính sách đẩy mạnh khẩn hoang chứ không phải là ngược lại như một số nhà sử học trước đây đã nói1.

          Các vua Nguyễn đã biết lựa chọn và tổ chức các hình thức khẩn hoang phù hợp với vùng đất mới, với điều kiện địa lí tự nhiên và lịch sử xã hội của vùng đất này, trong đó hình thức khẩn hoang lập đồn điền đóng vai trò quan trọng. Bởi vì, mặc dù đã được khai phá từ mấy thế kỉ trước nhưng đến đầu thế kỉ XIX vùng đất Đồng Nai – Gia Định vẫn còn một diện tích đáng kể chưa được khai phá. Đó là những vùng đất hoang hoá, sình lầy, lau sậy, đất nhiễm mặn, vùng đất biên giới hẻo lánh… Việc lựa chọn và tổ chức hình thức khẩn hoang lập đồn điền cho phép các vua Nguyễn chủ động đẩy nhanh công cuộc khai phá, khi có trong tay lực lượng binh lính, tù binh, phạm nhân, kể cả dân lưu tán; đồng thời qua đó nhanh chóng thiết lập bộ máy hành chính, xác lập chủ quyền quốc gia lãnh thổ đối với vùng đất mới khai phá, vùng biên giới. Như vậy nhà Nguyễn trên thực tế đã từng bước hoàn tất và củng cố nền thống nhất quốc gia.

          Chế độ đồn điền cũng góp phần giải quyết những vấn đề xã hội của Nam Bộ ở nửa đầu thế kỉ XIX: “Dân Gia Định phần nhiều là dân giang hồ trú ngụ, đặt ra đồn điền là để dồn bọn du thủ cho nương tựa vào đồng ruộng”. Đồn điền còn là hạt nhân quy tụ ban đầu để dân chúng đi đến một địa phương để khai phá, sản xuất, thiết lập xóm ấp. Đúng như lời Nguyễn Tri Phương nói lúc bấy giờ: “Đất Nam Kì dân xiêu tán nhiều. Nay mượn điều chiêu mộ để dụ dân về đốc việc khai khẩn để nuôi dân ăn, thật là một cách quan yếu để giữ giặc và an dân”.

          Việc thực hiện chế độ đồn điền ở Nam Bộ nửa đầu thế kỉ XIX là góp phần quan trọng vào việc củng cố và phát triển quyền sở hữu nhà Nguyễn về ruộng đất. Việc chủ trương khôi phục, củng cố và mở rộng ruộng đất công các khu vực quản lí trực tiếp của nhà nước trước tình hình ruộng đất công ngày càng bị thu hẹp là một chủ trương đúng của các vua đầu triều Nguyễn. Bởi vì, sở hữu nhà nước là cơ sở kinh tế - xã hội vững chắc đảm bảo cho ổn định và tồn tại của chế độ.

          Qua việc thực hiện chế độ đồn điền và chính sách khai hoang, phục hoá đã mở rộng tối đa diện tích đất đai để sản xuất nông nghiệp và tăng nguồn sản phẩm nông nghiệp đáng kể cho nhà Nguyễn trong những thập kỉ đầu xây dựng triều đại, khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định trật tự xã hội.

          Chế độ đồn điền thực chất là một biện pháp cai trị đô hộ cuả triều Nguyễn ở Nam Bộ trên hai lĩnh vực lớn là đất đai và con người; tạo cơ sở vững chắc cho nhà Nguyễn duy trì được trị an, tăng cường khả năng quản lí đất nước rộng lớn và tăng thêm sức mạnh để giải quyết các vấn đề quốc phòng, biên giới; giảm thiểu một phần lớn việc cung cấp gạo, tiền cho quân đội và lương thực để nuôi tù phạm.

          Bên cạnh mặt tích cực của chế độ đồn điền thời Nguyễn nửa đầu thế kỉ XIX ở Nam Bộ là chính, chế độ đồn điền cũng có những mặt hạn chế làm bộc lộ bản chất của nhà nước quân chủ chuyên chế phong kiến Nguyễn.

          Quan hệ sản xuất trong các đồn điền là quan hệ bóc lột địa chủ - tá điền theo hình thức phát canh thu tô, địa chủ ở đây là nhà nước Nguyễn.

          Thực chất của chế độ đồn điền là việc thực hiện và bảo vệ chế độ sở hữu của nhà nước phong kiến Nguyễn về ruộng đất. Chính sách phát triển đồn điền hoàn toàn phù hợp với đường lối ruộng đất của triều Nguyễn, đường lối phát triển các hình thức sở hữu nhà nước về ruộng đất làm cơ sở cho chế độ quân chủ quan liêu chuyên chế.

          Chế độ thu nộp sản phẩm trong các đồn điền, trong từng triều vua Nguyễn có chú ý cải tiến giảm nhẹ nhưng nhìn chung vẫn còn nặng nề, không hợp lí, đóng góp của lực lượng sản xuất trong đồn điền cao gấp đôi so với người dân sản xuất trong xóm ấp. Binh điền và dân điền cũng có sự khác nhau trong nghĩa vụ giao nộp sản phẩm làm ra.

          Việc quân sự hoá chế độ đồn điền làm hạn chế tính tự giác, tinh thần tự do lao động chính trên mảnh đất do họ khai phá nên do đó đã có bộ phận dân đồn điền bỏ trốn và bị nhà nước truy nã, bắt phạt làm những công việc nặng nhọc vất vả hơn...

          Tóm lại, mặc dù tồn tại một số hạn chế nhất định nhưng chế độ đồn điền được các vua đầu triều Nguyễn thực hiện ở Nam Bộ nửa đầu thế kỉ XIX mang nhiều ý nghĩa tiến bộ, tích cực, hiệu quả mang lại nguồn lợi to lớn ở trên nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội, chính trị - quân sự.

1  Vũ Huy Phúc: Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỉ XIX, NXB Khoa học Xã hội, 1979, tr. 128.

1  Xem thêm Trương Hữu Quýnh - Đỗ Bang (CB): Tình hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nông dân dưới triều Nguyễn, NXB Thuận Hoá, Huế, 1997, tr. 5- 27.

1  Xem thêm: Hoàng Văn Lân, Ngô Thị Chính: Lịch sử Việt Nam (1858 - cuối thế kỉ XIX), NXB Giáo dục, HN, 1976, Q.3, Phần I, tr. 11 – 14. Lịch sử Việt Nam - Tập II của UBKHXHVN, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1985, tr. 24 – 26.