Đặc trưng cơ bản của cách mạng ký thuật hiện đại là gì

Cách mạng khoa học là gì?

Trong lịch sử khoa học, cuộc cách mạng khoa học là một giai đoạn phát sinh nhiều ý tưởng mới về vật lý, thiên văn học, sinh học, giải phẫu học con người, hóa học, và các ngành khoa học khác dẫn tới sự loại bỏ các chủ nghĩa học thuyết đã được đưa ra từ thời Hy Lạp cổ đại đến thời Trung cổ, và đặt nền móng cho khoa học hiện đại.Theo các học giả nổi tiếng, cách mạng khoa học bắt đầu từ việc xuất bản hai công trình làm thay đổi diện mạo của khoa học vào năm 1543 và tiếp tục ảnh hưởng cho đến cuối thế kỷ 17: công trình của Nicolaus Copernicus là De revolutionibus orbium coelestium (On the Revolutions of the Heavenly Spheres) và công trình của Andreas Vesalius De humani corporis fabrica (On the Fabric of the Human body).

Nhà triết học và sử gia Alexandre Koyré đã đặt ra thuật ngữ scientific revolution (cách mạng khoa học) vào năm 1939 để mô tả giai đoạn này.

Ý nghĩa của cách mạng khoa học

Làm sự biến đổi triệt để về chất của lực lượng sản xuất, biến khoa học kĩ thuật thành nhân tố chủ đạo của sự phát triển nền sản xuất xã hội, thành lực lượng sản xuất trực tiếp, dẫn đến sự biến đổi cách mạng trong cơ sở vật chất kĩ thuật của xã hội, trong tính chất và phân công lao động xã hội. CMKH - KT tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội, đòi hỏi ngày càng nâng cao trình độ học thức chuyên môn, trình độ văn hoá, tổ chức, làm thay đổi thói quen, tập tục lỗi thời; thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế, văn hoá xã hội.

Cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại

Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại được coi như bắt đầu giữa những năm 40 thế kỉ 20[cần dẫn nguồn]. Những phát minh trong khoa học - kĩ thuật cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20 là tiền đề của cuộc CMKH - KT hiện đại. Cuộc cách mạng trong giai đoạn này chủ yếu về công nghệ với sự ra đời của máy tính điện tử thế hệ mới được sử dụng trong mọi hoạt động kinh tế và đời sống xã hội, về vật liệu mới, về những dạng năng lượng mới và công nghệ sinh học, về phát triển tin học. Đặc trưng cơ bản của giai đoạn này:

* Sự phát triển của ngành năng lượng mới.

* Những vật liệu mới cho phép đổi mới và chế tạo những máy móc mới, trong đó có các tên lửa cực mạnh mở ra kỉ nguyên vũ trụ.

* Cách mạng sinh học.

* Máy tính có thể làm hàng triệu đến vài tỉ phép tính trong một giây.

Việc áp dụng những công nghệ hoàn toàn mới đã tạo điều kiện cho sản xuất phát triển theo chiều sâu, giảm hẳn tiêu hao năng lượng và nguyên liệu, giảm tác hại cho môi trường, nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của sản xuất. Trong giai đoạn trước, máy móc thay thế lao động cơ bắp; trong giai đoạn cách mạng tin học, máy tính làm nhiều chức năng của lao động trí óc. Một đặc điểm nổi bật của cuộc CMKH - KT ở giai đoạn này là nó diễn ra trên cơ sở những thành tựu của khoa học hiện đại, trên cơ sở kết hợp rất chặt chẽ khoa học và kĩ thuật, khoa học và sản xuất vật chất. Song song với việc đi sâu vào từng khoa học riêng lẻ là sự xuất hiện của những lí thuyết ngày càng bao trùm hơn, của càng nhiều khoa học cụ thể khác nhau, cho phép sử dụng các thành tựu của khoa học này phục vụ khoa học kia, dù các ngành khoa học có khi rất xa nhau. Cho nên ngày nay, sản xuất chịu ảnh hưởng không phải là của những ngành khoa học riêng biệt nữa. Các thành quả của sản xuất là sản phẩm của một phạm vi nghiên cứu rộng lớn, và ngày càng rộng lớn hơn, bao trùm không chỉ các ngành khoa học tự nhiên, kĩ thuật và công nghệ, mà còn cả các ngành khoa học xã hội nữa: kinh tế học, quản lí sản xuất, quản lí xã hội, xã hội học, tâm lí học xã hội, mĩ học sản xuất, dự báo tiến bộ xã hội và khoa học kĩ thuật.

Những thành tựu chủ yếu của cách mạng khoa học kỹ thuật

1. Nguyên nhân

- Do các đòi hỏi của cuộc sống về kỹ thuật và sản xuất để đáp ứng những nhu cầu về vật chất và tinh thần ngày càng cao của con người.

- Những năm gần đây, nhân loại đang đứng trước những vấn đề to lớn: bùng nổ dân số, tài nguyên cạn kiệt, ô nhiễm môi trường. Điều đó đặt ra những yêu cầu mới (công cụ sản xuất mới có kỹ thuật cao, nguồn năng lược mới, những vật liệu mới) đối với khoa học - kỹ thuật.

- Do nhu cầu phục vụ chiến tranh của các nước đế quốc.

- Do nhu cầu phục vụ chiến tranh của các nước đế quốc.

2. Đặc điểm của cách mạng khoa học - kỹ thuật

- Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.

- Thời gian phát minh khoa học đến ứng dụng vào sản xuất ngày càng rút ngắn.

- Đầu tư vào khoa học có lợi nhất.

- Khoa học đang trong thời kỳ bùng nổ thông tin.

3. Thành tựu

- Trong lĩnh vực khoa học cơ bản, con người đã thu được những thành tựu hết sức to lớn ở các ngành Toán học, Vật lý, Hóa học, Sinh học.

- Phát minh lớn về công cụ sản xuất (máy tính, máy tự động, hệ thống máy tự động, rô bốt).

- Tìm ra nguồn năng lượng mới: năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời, năng lượng thủy triều, năng lượng gió, năng lượng quả đất.

- Sáng chế ra những vật liệu sản xuất mới, quan trọng nhất là polime (chất dẻo) đang giữ vị trí hàng đầu trong đời sống hàng ngày của con người cũng như trong các ngành công nghiệp.

- Nhờ cuộc Cách mạng xanh trong nông nghiệp mà con người đã tìm ra được phương hướng khắc phục nạn thiếu lương thực và thực phẩm.

- Những tiến bộ lớn trong lĩnh vực giao thông vận tải và thông tin liên lạc (máy bay siêu âm khổng lồ, tàu hỏa tốc độ cao, tàu biển trọng tải triệu tấn, hệ thống vệ tinh nhân tạo phát sóng truyền hình hết sức hiện đại).

- Thành tựu chinh phục vũ trụ (tàu vũ trụ, tàu con thoi, con người đặt chân lên mặt trăng).

Ý nghĩa và tác động của cách mạng khoa học - kĩ thuật

1. Ý nghĩa

- Cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật có ý nghĩa vô cùng lớn lao, như một cột mốc lớn chói lọi trong lịch sử tiến hóa văn minh loài người .

- Mang những tiến bộ phi thường, những thành tựu kì diệu.

-Tạo nênnhững đổi thay to lớn trong cuộc sống.

2. Tác động

* Tích cực

- Cách mạng khoa học kỹ thuật đã mang lại những tiến bộ phi thường, những thành tựu kỳ diệu làm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của con người.

- Cho phép con người thực hiện những bước nhảy vọt chưa từng thấy về năng suất lao động.

- Thay đổi cơ cấu dân cư lao động với xu thế tỷ lệ dân cư lao động trong nông nghiệp và công nghiệp giảm dần, tỷ lệ dân cư trong các ngành dịch vụ tăng dần.

- Đưa loài người sang nền văn minh thứ ba, nền văn minh sau thời kỳ công nghiệp hóa, lấy vi tính, điện tử, thông tin và khoa sinh hóa làm cơ sở.

- Làm cho sự giao lưu kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật ngày càng quốc tế hóa cao.

* Hạn chế

- Chế tạo các loại vũ khí và các phương tiện quân sự có sức tàn phá và hủy diệt sự sống.

- Nạn ô nhiễm môi trường (ô nhiễm khí quyển, đại dương, sông hồ).

- Nhiễm phóng xạ nguyên tử, tai nạn lao động, tai nạn giao thông gắn liền với kỹ thuật mới, dịch bệnh và tệ nạn xã hội

Người đăng: dathbz
Time: 2020-08-06 16:57:28