Dễ đưa tập thể đến tình trạng vô chính phủ và đổ vỡ là nhược điểm của phong cách lãnh đạo nào

Thực chất nguyên nhân của tham nhũng và những vấn đề đặt ra ở Việt Nam

Chủ nhật, 22/03/2015 06:39 [GMT +7]

Đảng ta xác định tham nhũng là một trong bốn nguy cơ làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Tham nhũng hiện nay đã và đang trở thành quốc nạn, đe dọa đến sự tồn vong của Đảng và của chế độ xã hội chủ nghĩa. Để góp phần nâng cao nhận thức trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, bài viết này tập trung làm rõ nguyên nhân tham nhũng, trên cơ sở đó, đưa ra một số vấn đề gợi mở và mong được trao đổi cùng bạn đọc.

Thực chất của vấn đề tham nhũng

Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chúng ta có được rất nhiều thuận lợi: sự đồng tình, ủng hộ và tin tưởng của quần chúng nhân dân; sự chăm lo và định hướng phát triển đúng đắn của Đảng và Nhà nước; sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế, nhưng đồng thời chúng ta cũng gặp không ít những thách thức, khó khăn. Một trong những vấn đề gây khó khăn và ảnh hưởng nghiêm trọng đến công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam là tệ tham nhũng - quốc nạn của nước ta.

Điều 1 trong Pháp lệnh chống tham nhũng ngày 26-2-1998 ghi rõ: “Tham nhũng là hành vi của những người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ và quyền hạn để tham ô, hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản Nhà nước, tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức. Tham nhũng là vật cản lớn nhất của tiến trình phát triển xã hội, là nguy cơ trực tiếp liên quan đến sự sống còn của Nhà nước”. Luật Phòng chống tham nhũng ở Việt Nam năm 2005 nêu rõ:Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để vụ lợi. Còn theo Tổ chức Minh bạch thế giới [Transparency International], tham nhũng hay tham ô là hành vi “của người lạm dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc cố ý làm trái pháp luật để phục vụ cho lợi ích cá nhân”. Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về tham nhũng nhưng có thể hiểu là tham nhũng chủ yếu vẫn thông qua các hành vi tham ô, hối lộ, lộng quyền, lộng hành, sách nhiễu gây khó khăn cho người khác, dùng quyền lực để mưu lợi cá nhân, bao che cho hành vi vi phạm pháp luật, dùng tiền thao túng quyền lực, chiếm đoạt quyền lực,…

Tham nhũng là hành vi gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển bền vững của đất nước, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển làm cho kinh tế chậm phát triển, thất thoát, lãng phí tài sản của dân, thiệt hại ngân sách, gây rối loạn nền kinh tế, gia tăng khoảng cách giàu nghèo, tình trạng nghèo đói ngày càng trầm trọng. Hơn nữa, nó làm xói mòn lòng tin của nhân dân vào Đảng, vào Nhà nước, làm cho chế độ chính trị dần suy yếu từ bên trong, tạo điều kiện cho các thế lực thù địch tấn công ta, dẫn đến sụp đổ nếu không kịp thời chấn chỉnh.

Thực trạng báo động ở nước ta hiện nay là tệ tham nhũng ngày càng trầm trọng, trở nên phổ biến trong tất cả các lĩnh vực từ công an đến hải quan, từ tài nguyên môi trường đến xây dựng, thuế, ngân hàng, y tế, giáo dục cho đến cả thanh tra, kiểm sát, tòa án,… Từ lĩnh vực kinh tế cho đến cả chính trị với quy mô các vụ án ngày càng lớn, tính chất ngày càng nghiêm trọng, diễn biến phức tạp, thủ đoạn ngày càng tinh vi. Theo thống kê của Tổ chức Minh bạch Thế giới về chỉ số tham nhũng của các nước trên thế giới qua các năm, Việt Nam xếp hạng thứ 112/182 trong năm 2011.

Chỉ số tham nhũng của Việt Nam qua các năm gần đây

Năm

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

2009

2010

2011

Chỉ số, điểm

2.4

2.4

2.6

2.6

2.6

2.6

2.7

2.7

2.7

2.9

Hạng

85/102

100/133

102/145

107/158

111/163

123/179

121/180

120/180

116/178

112/182

Số liệu thống kê khoảng 10 năm trở lại đây [từ 2002 đến 2011] cho thấy tình trạng tham nhũng ở nước ta ngày càng có xu hướng tăng lên. Trong xã hội ta hiện nay, việc “bôi trơn”, quà cáp, đã trở thành một thói quen có tính “quy luật” mà hầu như ai cũng ít nhất một lần nghĩ đến và thực hiện để được thiên vị, ưu tiên, “thuận buồn xuôi gió”. Mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản về phòng, chống tham nhũng, nhưng cho đến nay vẫn chưa đẩy lùi được tham nhũng.

Để cung cấp thêm thông tin làm cơ sở vững chắc về mặt lý luận trong việc phòng và chống tham nhũng, vận dụng cặp phạm trù nhân - quả trong phép biện chứng duy vật để phân tích về mặt triết học nguyên nhân của nó, chúng tôi xác định một số nguyên nhân chủ quan và khách quan sau:

Về nguyên nhân chủ quan:

Thứ nhất,nguyên nhân và động cơ chủ yếu của tham nhũng là lòng tham của con người. Cách đây hơn 2.200 năm, Hàn Phi Tử trong thiênVong trưng[Những điềm mất nước] và thiênGian hiếp thí thần[Bọn bề tôi gian dối, ức hiếp và giết nhà vua] cho rằng, con người sinh ra vốn tham dục, vị lợi; bản chất con người là “ích kỷ” và đặc tính chủ yếu của nó là “sự ham mê lợi ích và thù ghét tai họa” nên luôn “thích điều lợi và tìm nó, ghét cái hại và tránh nó,…”. Lẽ cố nhiên đam mê lợi ích không phải lúc nào cũng xấu, nhưng để lòng tham dẫn dắt, che mờ lý trí, điều khiển, kiểm soát hành động và vì lợi ích của bản thân, của nhóm lợi ích mà chà đạp lên lợi ích của tập thể, cộng đồng và quần chúng nhân dân thì rõ ràng là không thể chấp nhận được. Mọi hành vi tham nhũng dù dưới hình thức nào chăng nữa đều có thể quy về “lợi ích cá nhân”. Lợi ích nhóm cũng xuất phát từ lợi ích cá nhân mà ra. Nếu không vì lợi ích của bản thân thì chẳng ai còn muốn tham nhũng nữa. Vì lợi ích cá nhân, người ta có thể làm tất cả, bất chấp mọi thủ đoạn, mọi hậu quả để đạt được dù hành vi đó là vi phạm đạo đức, pháp luật, hay vi phạm nghiêm trọng kỷ luật đảng.

Thứ hailà do lối sống “ăn bám”, ỷ lại, lười lao động thích hưởng thụ của một bộ phận, tầng lớp trong xã hội, đặc biệt là giới trẻ ngày nay. Chính lối sống này kết hợp với bản chất ích kỷ, đam mê lợi ích vật chất của các bậc phụ huynh, cán bộ, công chức,… là chất xúc tác để thúc đẩy con người ta lao vào các “phi vụ” phạm pháp. Lối sống hưởng thụ len lỏi vào các cơ quan công quyền thể hiện ở sự quan liêu và suy đồi của không ít cán bộ, công chức, viên chức nhà nước; cống hiến thì ít mà muốn hưởng thụ thì nhiều, nên sách nhiễu, làm khó để vòi vĩnh, “gợi ý”, “lót đường”, “rải thảm”.

Thứ balà do cuộc sống, áp lực công việc, do môi trường xung quanh; do giáo dục, do cơ chế và do chính bản thân mà đạo đức con người ngày càng bị suy thoái, tha hóa. Điều này làm cho tệ tham nhũng càng có điều kiện thuận lợi để phát sinh và lan rộng trong toàn xã hội. Tình trạng này đang có xu hướng ngày càng tăng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X nhận định:“Công tác cán bộ nói chung và việc quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên, công chức nói riêng còn yếu kém. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống. Không ít cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành, kể cả cán bộ lãnh đạo cao cấp, còn thiếu gương mẫu trong việc giữ gìn phẩm chất đạo đức; chưa đi đầu trong cuộc sống đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm”.Hơn nữa, một bộ phận cán bộ, công chức chưa có ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lối sống, tư tưởng chính trị. Điều này dẫn đến sự tha hóa, suy thoái về đạo đức không thể tránh khỏi của các công chức, viên chức nhà nước, sẵn sàng vì lợi ích cá nhân mà tham nhũng. Đảng và Nhà nước ta đã nhận ra được nguyên nhân này, nhưng biện pháp giải quyết chưa thật sự hiệu quả.

Ở nguyên nhân này, môi trường làm việc là điều kiện khách quan ảnh hưởng đến sự suy thoái đạo đức. Hiện tượng đút lót, quà cáp để vụ lợi trong các cơ quan công quyền không phải là điều quá xa lạ và diễn ra ở hầu hết mọi nơi. Trong một môi trường như vậy, nếu như không “nhập gia tùy tục”, người ta sẽ bị hất tung khỏi “vòng xoáy cuộc đời”. Theo lo-gíc phát triển khách quan của cuộc sống, nếu mỗi con người không giữ được đạo “trung dung”, “trung thứ” và “tính trực” và nếu “quân bất quân, thần bất thần, tử bất tử” [Khổng Tử] thì xã hội sẽ lâm nguy, “thượng bất chính, hạ tắc loạn”. Nguyên nhân này dần dần hình thành hiện tượng tham nhũng tập thể, vì vậy khi có thanh tra, kiểm tra thì bao che lẫn nhau, dẫn đến việc khó khăn trong vấn đề phòng, chống tham nhũng.

Thứ tưlà do tâm lý, “truyền thống văn hóa” và trình độ nhận thức của một bộ phận người dân còn yếu kém. Với quan niệm “dầu bôi trơn bánh xe”, “đầu xuôi đuôi lọt”, “đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn” và nghĩ rằng giải pháp nhanh nhất, hiệu quả nhất để giải quyết công việc là “thủ tục đầu tiên” cũng là nguyên nhân thúc đẩy tham nhũng. Hơn thế, người ta còn dùng hối lộ, quà cáp như một hình thức “kết thân”, “đầu tư chiều sâu”, “đầu tư vào tương lai” để tạo thuận lợi cho con đường công danh sự nghiệp sau này cho cả bản thân lẫn người thân. Chính hành vi tâm lý và trình độ nhận thức này đã vô tình làm cho không ít cán bộ, nhân viên bị tham nhũng thụ động. Tình trạng này kéo dài làm xuất hiện tư tưởng gây khó dễ ở cán bộ, công chức để nhận “phong bì” từ dân mới giải quyết công việc, cho rằng nhận hối lộ là một thủ tục tất yếu trong quá trình xử lý công việc. Bởi vậy, một số cán bộ, đảng viên khi có quyền lực đã đem địa vị, quyền hành ra để “mặc cả” và cho rằng “muốn ăn chân giò phải thò chai rượu”. Vô hình trung điều này tạo nên một cách suy nghĩ, một thói quen xấu trong cả cán bộ công chức và cả những người muốn dùng tiền để giải quyết công việc, dần dần hình thành nên “văn hóa phong bì”.

Thứ nămvà cũng là nguyên nhân quan trọng, dễ dẫn đến tham nhũng nhất đó chính là sự sơ hở, bất cập, thiếu công khai, thiếu minh bạch, cơ chế “xin - cho” còn tồn tại. Đây là nguyên nhân thường xuyên được đề cập và lặp đi lặp lại nhiều lần trong các phiên họp của Quốc hội. Nguyên nhân này thể hiện ở chỗ: cơ chế kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng, quản lý, luân chuyển tài sản có nhiều sơ hở, giao tài sản cho nhân viên nhưng không có biện pháp kiểm tra, giám sát chặt chẽ, gian lận trong công tác để chiếm đoạt tài sản,... Các thủ tục, quy định của Nhà nước chưa được công khai, rõ ràng nên nhân dân có suy nghĩ “tiếp cận, giải quyết” mới xong, tạo điều kiện cho cán bộ tham nhũng; thiếu công khai, minh bạch trong công tác quản lý, trong công tác kê khai tài sản, trong công tác sử dụng tài sản, và thiếu minh bạch trong các văn bản, quy định, thủ tục. Hơn nữa, việc thiếu trách nhiệm giải trình của các lãnh đạo cấp cao ở các cơ quan, đơn vị cũng dẫn đến tình trạng thiếu công khai, minh bạch mặc dù việc báo cáo nghe có vẻ vẫn rất “ổn”, “tốt” trong khi thực tế đó chỉ là “báo cáo láo”.

Thứ sáu, một nguyên nhân cần được nghiên cứu thêm đó là tư duy chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên còn phảng phất tư duy “truyền thống”, phong kiến, manh mún, chắp vá, thiếu tính hệ thống dẫn đến thiếu mạnh dạn và quyết tâm trong việc thực hiện đường lối đổi mới, đặc biệt là đổi mới tư duy chính trị. Giữa đổi mới tư duy chính trị và đổi mới tư duy kinh tế của Đảng ta chưa có sự đồng bộ, thống nhất cần thiết nên thường xuyên diễn ra tình trạng “đánh trống bỏ dùi”, “đầu voi đuôi chuột” làm tầm thường hóa hệ thống pháp luật.

Ngoài ra còn có nguyên nhân nữa mang tính chất khái quát là chúng ta chưa thực hiện tốt quy chế dân chủ. Hồ Chí Minh từng cho rằng “dân chủ là chìa khóa vạn năng để giải quyết những vấn đề xã hội”. Tuy nhiên dân chủ phải gắn liền với dân trí. Nhìn chung trình độ dân trí, kể cả quan trí của chúng ta chưa cao nên nhân dân chưa có nhiều khả năng tham gia làm chủ, quản lý nhà nước, kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Mặc dù chúng ta đã có bước tiến đáng kể về việc ban hành quy chế dân chủ, song nhìn chung việc thực hiện đưa quy chế vào cuộc sống còn nhiều hạn chế, khó khăn.

Bên cạnh một số nguyên nhân chủ quan cơ bản nêu trên còn có những nguyên nhân khách quan rất quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến tình trạng tham nhũng ở nước ta.

Về nguyên nhân khách quan:

Thứ nhấtlà việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa triệt để, không theo kịp được trình độ phát triển của hoạt động thực tiễn. Trong quá trình lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, để xây dựng, phát triển và bình ổn trật tự xã hội còn nghiêng về “đức trị”, “nhân trị” mà chưa nghiêng về “pháp trị”. Chính sách thưởng phạt chưa đủ sức răn đe người phạm tội và khuyến khích người lập công, tố giác tội phạm.

Thứ hailà do hệ thống pháp luật, chính sách ở nước ta thiếu đồng bộ, chưa thỏa đáng và nhất quán; trong xử lý, chế tài chưa nghiêm minh, pháp luật còn nhiều kẽ hở, cơ chế quản lý còn nhiều yếu kém. Các thủ tục hành chính hay giấy tờ, đất đai đều chưa minh bạch, rườm rà, cơ chế quản lý bất động sản chưa hiệu quả và chặt chẽ tạo kẽ hở cho các cán bộ, viên chức tham nhũng. Pháp luật là công cụ mạnh nhất để ngăn chặn, chế tài và xử lý tham nhũng nhưng pháp luật lại chưa nghiêm, lỏng lẻo tạo điều kiện, cơ hội cho tham nhũng phát triển.

Thứ balà do những bất cập trong triết lý về giáo dục, chưa hình thành được một triết lý giáo dục đủ tầm cỡ, làm trụ cột lâu dài, xuyên suốt và bền vững trong quá trình phát triển, kể cả giáo dục nói chung và giáo dục pháp luật nói riêng; giáo dục đạo đức cán bộ, đảng viên trong giai đoạn phát triển kinh tế thị trường chưa được chú trọng đúng mức. Hơn nữa, việc đưa những người thiếu năng lực và thiếu phẩm chất đạo đức vào làm cho các cơ quan nhà nước do “quan hệ”, nể nang, “đi đêm”,... làm suy thoái hệ thống chính trị và làm cho tình trạng tham nhũng ngày càng phát triển nhanh chóng.

Thứ tưlà do sự quản lý, thanh tra, kiểm tra lỏng lẻo, yếu kém của Nhà nước; xử lý qua loa, chỉ mang tính “hình thức” như cảnh cáo, phê bình hoặc chủ trương “đại sự hóa tiểu sự, tiểu sự hóa vô sự” vì người vi phạm thường là cán bộ có quyền lực và địa vị, nên chưa mang tính răn đe. Các cán bộ cấp cao và cấp trên chưa làm gương cho cấp dưới, chưa thấm nhuần tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với phương châm “một tấm gương sống về đạo đức gấp hàng trăm, hàng nghìn bài diễn thuyết”. Việc chấp hành kỷ luật cũng bị xem nhẹ dẫn đến tình trạng “phép vua thua lệ làng”, “trên bảo dưới không nghe”,... Người quản lý, thanh tra, kiểm tra, điều tra cũng chưa thật sự mạnh tay và làm việc có hiệu quả, vẫn còn nặng tình trạng “báo cáo tốt”, tệ hại hơn còn đồng lõa, “gợi ý” làm cho tệ tham nhũng gia tăng, khó có thể ngăn chặn, phát hiện, xử lý kịp thời.

Thứ nămlà do việc thực hiện chính sách phòng, chống tham nhũng của nước ta chưa hiệu quả, đồng bộ, chưa đáp ứng được thực trạng tham nhũng hiện nay, thiếu một chương trình phòng, chống lâu dài, tổng thể mà chỉ chủ yếu tập trung vào việc giải quyết những vụ “tham nhũng vặt”, nhỏ lẻ. Mặt khác, các chính sách của nước ta chưa khuyến khích toàn dân và cả hệ thống chính trị cùng phòng, chống tham nhũng. Chúng ta chưa có cơ chế hữu hiệu để bảo vệ những người phát hiện và dám tố cáo tham nhũng. Việc tuyên dương người đứng lên tố cáo tham nhũng hiện nay cũng chưa phải là giải pháp hiệu quả để động viên toàn dân tham gia. Hơn nữa, người “đưa hối lộ” đi tố cáo tham nhũng cũng bị khép tội “đưa hối lộ” nên cũng làm hạn chế việc tố cáo tham nhũng của nhân dân.

Thứ sáulà do mặt trái [bản chất] của nền kinh tế thị trường và sự phân cực giữa các giai tầng trong xã hội ngày càng sâu sắc làm cho các giá trị đạo đức bị đảo lộn. Đồng tiền đang lên ngôi trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Khi đồng tiền được xem là “thước đo của vạn vật” thì các giá trị đạo đức, nhân phẩm sẽ đứng trước bên bờ vực. C. Mác từng cảnh báo: “Trong xã hội tư bản đồng tiền là một vấn đề trung tâm của mọi quan hệ cha con, vợ chồng, anh em, bạn bè đều bị dìm chết trong dòng nước băng giá của đầu óc vị kỷ”và khẳng định: “Tất cả những mối liên hệ phức tạp và muôn màu muôn vẻ ràng buộc con người phong kiến đều bị giai cấp tư sản thẳng tay phá vỡ, không để lại giữa người và người một mối quan hệ nào khác, ngoài mối lợi lạnh lùng với “lối trả tiền ngay” tiền trao cháo múc không tình nghĩa”. Việc chạy theo sức mạnh của đồng tiền làm cho một bộ phận không nhỏ cán bộ đi ngược lại truyền thống văn hóa của dân tộc. Có không ít tổ chức, cá nhân vì những mục tiêu riêng để tồn tại trong cuộc cạnh tranh khốc liệt đã dùng mọi thủ đoạn, trong đó có thủ đoạn hối lộ được sử dụng phổ biến nhất. Hơn nữa, chính sách tuyển dụng, trọng dụng và đãi ngộ các nhân viên công quyền chưa thỏa đáng [chính sách tiền lương] là nguyên nhân góp phần thúc đẩy mọi người cần phải kiếm thêm để bù đắp cho gia đình họ làm cho tình trạng tham nhũng phát triển và lan rộng.

Qua những phân tích trên đây chúng ta thấy rằng nguyên nhân của tham nhũng là sự tổng hợp, hội tụ nhiều nguyên nhân, điều kiện cả chủ quan lẫn khách quan, cả con người lẫn cơ chế của Nhà nước ta. Tham nhũng là một trong những nguy cơ làm cản trở công cuộc đổi mới. Cùng với lãng phí, tham nhũng đang diễn ra trầm trọng, kéo dài, gây bất bình trong quần chúng nhân dân, xâm hại đến công lý và công bằng xã hội, gây thiệt hại lớn về tài sản Nhà nước và của nhân dân.

Đảng và Nhà nước ta đã đã có nhiều chủ trương, biện pháp phòng, chống tham nhũng nhưng vẫn chưa hiệu quả. Do đó cần phải có nhận thức toàn diện hơn về bản chất và nguyên nhân của tham nhũng để có giải pháp hữu hiệu. Muốn triệt phá tham nhũng, chúng ta cần loại trừ hết các nguyên nhân và điều kiện phát sinh tham nhũng. Các biện pháp phòng và chống cũng phải mang tính hệ thống, toàn diện.

Vấn đề đặt ra đối với Việt Nam

Dân ta quan niệm: “phòng bệnh hơn chữa bệnh”, “phòng cháy hơn chữa cháy”. Vì vậy, trước hết đấu tranh chống tham nhũng phải bắt đầu từ phòng ngừa tham nhũng. Tác dụng của phòng ngừa tham nhũng có ý nghĩa sau:

Một là, các biện pháp phòng ngừa được thực hiện một cách thường xuyên sẽ có tác dụng rộng khắp, có tính lan tỏa đến từng đối tượng, ngăn ngừa mầm mống hành vi tham nhũng.

Hai là,phòng ngừa tham nhũng sẽ làm giảm thiểu thiệt hại về kinh tế và chính trị hơn là để tham nhũng xảy ra.

Ba là,bên cạnh việc xây dựng, hoàn thiện cơ chế, bộ máy nhà nước pháp quyền cũng đồng thời phải hoàn thiện các biện pháp phòng, chống tham nhũng.

Để phòng, chống tham nhũng có hiệu quả theo chúng tôi định hướng cơ bản, chung nhất hiện nay chúng ta cần tập trung vào ba vấn đề lớn.Một là phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng;hai là nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước;ba là phát huy, khơi dậy tinh thần làm chủ của các tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan truyền thông, báo chí và quần chúng nhân dân. Cụ thể:

Đối với Đảng ta cần thành lập cơ quan phòng, chống tham nhũng độc lập như kinh nghiệm của một số nước; tăng cường công tác chính trị, tư tưởng đảng viên; tăng cường quản lý đội ngũ đảng viên; thường xuyên đưa nội dung kiểm điểm, phê bình, tự phê bình vào nề nếp sinh hoạt đảng theo Điều lệ Đảng, tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa VIII và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI; đề cao trách nhiệm, xử lý nghiêm khắc những cán bộ, đảng viên, nhất là những người giữ chức vụ trọng yếu trong bộ máy của Đảng và Nhà nước có biểu hiện tiêu cực hay thiếu trách nhiệm để xảy ra tham nhũng ở các ngành, cơ quan đơn vị mình phụ trách. Điều 5 Luật Phòng, chống tham nhũng quy định:“người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị,… chịu trách nhiệm khi để xảy ra hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách”, Điều 10 Luật Cán bộ công chức quy định:“Tổ chức thực hiện các biện pháp phòng, chống quan liêu, tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và chịu trách nhiệm về việc để xảy ra quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong cơ quan, tổ chức, đơn vị”.

Đối với cơ quan, chính quyền Nhà nước cần phải lấy tinh thần đấu tranh chống tham nhũng của Xin-ga-po để nghiên cứu, học tập, tăng cường chính sách thưởng phạt để người takhông thể, không dám, không muốn, không cầntham nhũng. Để làm được việc đó trước hết cần minh bạch, thực hiện minh bạch là công cụ, biện pháp chống tham nhũng hiệu quả nhất. Minh bạch trong nhiều vấn đề, lĩnh vực: trong khiếu nại của nhân dân, trong việc kê khai và quản lý tài sản, ngân sách, trong mua sắm, trong quản lý đất đai, nhà ở, vốn, nguồn viện trợ, đầu tư,... Ngoài ra cũng có nhiều biện pháp khác được đề xuất cần được thực hiện cùng với việc minh bạch:

Thứ nhất, cần điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung pháp luật nước ta, cần quy định chặt chẽ hơn, xử lý nghiêm minh hơn, giảm bớt sự rườm rà không cần thiết các thủ tục hành chính, phải có biện pháp chế tài đủ mạnh để những công chức thấy rằng việc tham nhũng đem lại cho họ “mất” nhiều hơn “được”.

Thứ hai, cần cải cách hệ thống chính sách giáo dục ở nước ta, xóa bỏ tình trạng đặt nặng lý thuyết, chú trọng đào tạo chuyên môn và phẩm chất đạo đức của thế hệ tương lai. Đồng thời các cán bộ cấp cao phải đi đầu trong việc thực hiện gương mẫu, nâng cao phẩm chất đạo đức, chuyên môn. Đồng thời tăng cường, củng cố tư tưởng chính trị, rèn luyện cho các đảng viên, các cán bộ, công chức, viên chức nhà nước để tăng cường sự vững mạnh của hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước ta.

Thứ balà phải kiềm chế mặt trái của nền kinh tế thị trường, tăng cường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng cường cổ phần hóa, phát triển kinh tế xã hội đồng bộ, giảm sự phân hóa giàu nghèo, hạn chế sự độc quyền. Đồng thời tăng lương, tăng phúc lợi, tạo sự công bằng, xứng đáng cho các công chức, viên chức. Khi đồng lương đủ giúp họ trang trải cuộc sống thì họ cũng ít suy nghĩ đến tham nhũng hơn. Giải pháp này cần hoạch định lâu dài và có kế hoạch cụ thể.

Thứ tư, cần đẩy mạnh việc thanh tra, kiểm soát trong tất cả các lĩnh vực từ chính trị, kinh tế đến xã hội, xử lý mạnh tay đối với các hành vi tham nhũng, làm gương cho người khác, tách riêng bộ phận Thanh tra ra khỏi Chính phủ. Thực hiện thanh tra toàn diện, từ trung ương đến địa phương, trên mọi lĩnh vực. Tăng cường quản lý tài sản, ngân sách, nguồn viện trợ cũng như việc sử dụng tài sản của Nhà nước cũng như sử dụng chúng một cách hợp lý. Phải dựa vào nhân dân và báo chí để tăng cường công tác phòng, chống tham nhũng, đưa nhân dân vào các bộ phận thanh tra, kiểm soát tham nhũng để hoạt động hiệu quả hơn, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân. Báo chí là công cụ đắc lực và hiệu quả trong việc ngăn ngừa và vạch trần tệ tham nhũng. Đồng thời cũng cần hạn chế sự độc quyền của các cán bộ, công chức trong một số lĩnh vực hay thủ tục nào đó dẫn đến tham nhũng.

Thứ năm, cần tuyển chọn, chọn lọc kỹ càng khi phân công, bổ nhiệm các cán bộ, công chức, bảo đảm phẩm chất đạo đức của các nhân viên nhà nước từ cấp thấp đến cấp cao. Ngăn chặn tham nhũng từ lúc bắt đầu nhất là đối với các quan chức đứng đầu và lực lượng thanh tra, quản lý. Thường xuyên tổ chức kiểm tra, thanh lọc, giáo dục trong bộ máy nhà nước. Lực lượng thanh tra, quản lý cần được tuyển chọn đặc biệt kỹ càng vì đây là lực lượng có ảnh hưởng quan trọng đến quá trình phòng, chống và diệt trừ tệ tham nhũng ở nước ta.

Về chính trị, cần thực hiện dân chủ một cách triệt để hơn, toàn diện hơn. Công khai, minh bạch với nhân dân. Khẳng định tư tưởng Nhà nước là “của dân, do dân, vì dân” và phát triển vững chắc dựa vào sức của nhân dân. Theo các học giả trên thế giới thì tham nhũng tỷ lệ nghịch với dân chủ. Ở các nước phát triển, pháp luật nghiêm minh thì khó mà thấy tình trạng tham nhũng diễn ra.

Việc phòng chống tham nhũng cũng cần có sự hợp tác và hỗ trợ kinh nghiệm từ các nước trên thế giới. Đồng thời, cần đẩy mạnh tuyên truyền trong nhân dân về ý thức phòng, chống tham nhũng, yêu cầu cả hệ thống chính trị và quần chúng nhân dân cùng chung tay trong công cuộc phòng, chống tham nhũng, mạnh dạn tố cáo, đóng góp ý kiến, thay đổi tâm lý không tốt đã ăn sâu vào không ít tầng lớp trong xã hội./.

Tài liệu tham khảo

1. Trịnh Doãn Chính [chủ biên],Đại cương triết học Trung Quốc, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997

2. Phan Ngọc [dịch],Hàn Phi Tử, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2005

3. Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1998

4. C. Mác và Ph. Ăngghen [1980],Tuyển tập, tập 1, Nxb. Sự Thật, Hà Nội

5. Giáo trình chính sách kinh tế - xã hội, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2000

6. Luật Phòng, chống tham nhũng,số 55/2005/QH11 của Nước Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005

7. Tài liệu tham khảo về phòng, chống tham nhũng- Viện Khoa học thanh tra thuộc Thanh tra Chính phủ - Xuất bản năm 2012

8. Quyết định số 138/2009/QĐ-TTg ngày 09 tháng 12 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, tên gọi, nhiệm vụ và quy chế hoạt động của bộ phận giúp việc Ban Chỉ đạo tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về phòng, chống tham nhũng

9. Nghị định số 120/2006/NĐ-CP ngày 20/10/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều Luật Phòng chống tham nhũng

10. Washington: Quỹ Tiền tệ Quốc tế Shleider, A. và Wishney, R.W. [1993]: “Tham nhũng”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế học

11. TríchTool to support transparency in local govemance [Công cụ hỗ trợ cho tính minh bạch trong công tác quản lý ở địa phương]

12. Theo thống kê của Tổ chức minh bạch thế giới [Transparency International] năm 2011

Phải chăng chủ nghĩa Mác – Lênin là lỗi thời, không phù hợp với Việt Nam?

[ĐCSVN] - Mấy thập niên gần đây, chủ nghĩa Mác - Lênin đã bị xuyên tạc, bóp méo một cách giáo điều hay cơ hội đủ loại, đặc biệt sau khi chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu bị sụp đổ, thì học thuyết khoa học và cách mạng đó đang bị một số người hiểu một cách sai lệch và các thủ đoạn xuyên tạc, bóp méo chủ nghĩa Mác - Lênin lại càng bành trướng về quy mô, đa dạng về hình thức, nguy hiểm về tính chất và càng thâm độc về mức độ. Câu hỏi đặt ra phải chăng chủ nghĩa Mác – Lênin là lỗi thời, không phù hợp với Việt Nam?

Các thế lực thù địch âm mưu tấn công thẳng vào nền tảng lý luận nhằm hạ thấp uy tín, kể cả bôi nhọ cuộc đời riêng tư và sự nghiệp cách mạng của C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin, thực hiện dã tâm phủ nhận, xóa bỏ toàn bộ chủ nghĩa Mác - Lênin trên toàn thế giới, mưu toan phá vỡ và lật đổ nền tảng tư tưởng của Đảng ta. Có thể dễ dàng thấy người ta đang điên cuồng bài bác, trương lên và tung hê cái gọi là các luận đề: "Học thuyết Mác là sản phẩm của giữa thế kỷ XIX, do vậy đem đặt nó trong bối cảnh thế kỷ XXI nếu không lạc hậu, thì cũng chẳng thể là khoa học"; “Chủ nghĩa Mác - Lênin là ngoại lai, bắt nguồn từ phương Tây nên không còn phù hợp với Việt Nam”, v.v...

Nhưng, sự thật có phải như những thế lực thù địch tuyên truyền một cách ảo tưởng, suy diễn như vậy không?

C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin không phải là những ông “thầy bói của lịch sử”, như một số người bôi nhọ hay huyễn hoặc, dù vô tình hay cố ý. Các ông là những nhà khoa học, những nhà cách mạng. Lý tưởng mà các ông theo đuổi là khát vọng của nhân loại tiến bộ - lý tưởng giải phóng hoàn toàn con người khỏi mọi ách áp bức bóc lột, vươn tới ấm no, tự do, hạnh phúc. Phải chăng điều thiêng liêng như vậy chỉ có phương Tây cần và phù hợp với phương Tây - nơi mà chủ nghĩa tư bản đang bóc lột những người lao động một cách tinh vi, thâm độc. Chủ nghĩa do các ông sáng lập và đấu tranh bảo vệ không mệt mỏi, là nhằm hiện thực hóa lý tưởng đó, trên cơ sở lịch sử - cụ thể, một cách khách quan theo cái lôgíc phát triển tất yếu của nhân loại, bằng cách giải phẫu và biến đổi cách mạng đối với các xã hội mà loài người đã và đang tồn tại. Nói cách khác, lý luận của các ông chỉ giúp loài người lựa chọn điều cần và phải đi con đường dẫn tới chân lý, với những lực lượng tiên quyết, những điều kiện có tính chất cần và đủ, khi đứng ở ngã ba lịch sử của sự lựa chọn và phải quyết định. Thử hỏi điều đó, phương Đông, nơi khi mà chủ nghĩa thực dân mới được che đậy dưới mọi hình thức có cần không? hay chỉ phương Tây, nơi chính nhân dân lao động các nước tư bản chủ nghĩa đang bị giai cấp tư sản cầm tù, mới cần đến? Lịch sử nhân loại toàn thế giới đã và đang chứng minh: học thuyết của các ông là học thuyết khoa học và cách mạng đã, đang, sẽ là ngọn đuốc soi đường cho nhân dân lao động toàn thế giới đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng loài người khỏi mọi áp bức bất công...

Sự cần thiết, sự phù hợp, vai trò cơ sở, nền tảng tư tưởng lý luận, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với lịch sử phát triển của cách mạng thế giới và Việt Nam, có thể khái quát ở những điểm chủ yếu dưới đây:

1. Sự vận động, phát triển từ thời cổ đại đến nay của nhân loại và của lịch sử dân tộc Việt Nam là bằng chứng rõ ràng chứng tỏ rằng, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin là khoa học, đúng đắn và phản ánh chính xác, khách quan lịch sử vận động, phát triển tiến bộ của toàn thể nhân loại, trong đó có dân tộc Việt Nam. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin để tiếp cận nghiên cứu, giải thích, dự báo sự phát triển mang tính lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người nói chung, mỗi dân tộc nói riêng, trong đó có sự phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam. Học thuyết đó đã chỉ rõ:

- Lịch sử phát triển của loài người là lịch sử phát triển và thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội, trong đó sự phát triển của quan hệ sản xuất theo hướng tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất là cơ sở, trên đó xây dựng nên kiến trúc thượng tầng thích hợp.

- Lịch sử loài người đã và đang trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội, là quy luật chung của sự phát triển của xã hội loài người; còn mỗi quốc gia dân tộc có thể bỏ qua một hay một vài hình thái nào đó trong điều kiện lịch sử - cụ thể của thời đại và dân tộc. Việt Nam bỏ qua sự phát triển hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ và hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử khách quan không thể phủ nhận .

Như vậy, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ đơn thuần giải phẫu các hình thái kinh tế - xã hội, mà còn phân tích làm nổi bật lên bản chất, quy luật vận động, những mâu thuẫn của chúng và dự báo sự sụp đổ tất yếu, sự thay thế giữa chúng với nhau hoặc tuần tự hoặc nhảy vọt một cách biện chứng, theo quy luật. Một cách lịch sử - tự nhiên, cũng như từ chế độ cộng sản nguyên thủy nhân loại bước lên chế độ chiếm hữu nô lệ rồi chế độ phong kiến tới chủ nghĩa tư bản, thì sau hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa ấy phải là một hình thái kinh tế - xã hội mới tiến bộ hơn, đó chính là cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu là xã hội chủ nghĩa. Đó là một tất yếu lịch sử, hợp quy luật khách quan mà khoa học mácxít đã chỉ ra.

Chủ nghĩa Mác - Lênin vì là khoa học và cách mạng triệt để nên nó giải quyết tất cả những vấn đề đặt ra của lịch sử , những yêu cầu tiến bộ của nhân loại cần lao, dù ở phương Đông hay phương Tây, như chính giá trị đích thực của bản thân nó. Thực tế lịch sử cho thấy, từ khi hình thành, phát triển và được xác lập vào cuối thế kỷ XIX, hệ thống các tư tưởng, quan điểm và những nguyên lý, quy luật kinh tế - xã hội mà hệ thống khoa học đó phát hiện ngày càng được chứng minh bằng thực tiễn cuộc sống, được thừa nhận rộng rãi và trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của giai cấp công nhân toàn thế giới, là vũ khí lý luận sắc bén của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên các châu lục và của các đảng tiên phong, chân chính của giai cấp đó, không kể ở Việt Nam hay bất cứ quốc gia, dân tộc nào hay ở châu lục nào.

Ngay từ khi mới chỉ là một "bóng ma" ở châu Âu chủ nghĩa cộng sản khoa học đã đuợc thực nghiệm bằng những cuộc cách mạng vô sản, nổ ra và thành công, chính quyền công - nông được xác lập trong thực tiễn, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã tồn tại với tất cả tính ưu việt và sức sống mãnh liệt của nó trên thế giới. Nó là linh hồn của các phong trào tiến bộ, giúp các dân tộc đập tan chủ nghĩa phát xít, giải phóng khỏi chủ nghĩa thực dân cũ và mới, giành độc lập dân tộc, dân quyền và tự do cho toàn thể nhân loại cần lao, chứ đâu của riêng phương đông hay phương tây.

C. Mác là nhà khoa học thiên tài và cách mạng triệt để nhất đã vạch trần một cách chính xác bản chất bóc lột của chế độ tư bản là bóc lột giá trị thặng dư - thủ đoạn, hình thức bóc lột nhân dân lao động rất tinh vi dù ở chính quốc hay thuộc địa của giai cấp tư sản; nguồn gốc chà đạp lên độc lập tự do của các quốc gia, dân tộc từ Á tới Âu… Bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản vẫn không thay đổi, bản chất phản động toàn diện của nền chính trị tư sản hiện đại vẫn tồn tại, bản chất mâu thuẫn, khủng hoảng và xu hướng diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản vẫn là vấn đề thời sự của không chỉ thời C. Mác sống và ngay cả tới tận ngày nay. V.I. Lênin chỉ rõ: “Học thuyết của Mác là học thuyết vạn năng vì nó là một học thuyết chính xác”, “...nó kết hợp tính chất khoa học chặt chẽ và cao độ [đó là đỉnh cao nhất của khoa học xã hội] với tinh thần cách mạng...” . Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Chủ nghĩa Lênin... là cái “cẩm nang” thần kỳ không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản” .

Nhưng, các quan điểm sai trái và phản động lại vin vào việc chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ và nhân sự thăng trầm của chủ nghĩa xã hội để hô hoán lên rằng, “chủ nghĩa Mác đã thất bại”. Những lý lẽ đó không thể đánh lừa được ai. Lương tri của nhân loại vẫn rất tỉnh táo và sáng suốt khi đánh giá rằng “chủ nghĩa Mác vẫn giữ nguyên ý nghĩa và tầm quan trọng của nó trong thế giới hiện đại...” , chủ nghĩa Mác –Lênin “vẫn luôn luôn là một căn cứ quyết định cho các tổ chức cách mạng của giai cấp công nhân quốc tế, cho các đảng cộng sản chân chính đề ra đường lối chiến lược, sách lược cách mạng của mình” . Nó đánh dấu sự phát triển trí tuệ của nhân loại trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Hơn nữa, chính những người thóa mạ và bôi nhọ chủ nghĩa Mác – Lênin, cố tình không hiểu rằng, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ không phải vì tư tưởng khoa học của học thuyết Mác - Lênin không còn tính thời đại, đã lỗi thời, mà là sự phá sản của một chủ trương, đường lối sai lầm, chẳng những sa vào quan liêu hóa, giáo điều, chủ quan, duy ý chí bắt đầu từ sai lầm trong xây dựng đường lối lãnh đạo của Đảng cầm quyền ở đó, do đi chệch khỏi chủ nghĩa Mác - Lênin chân chính, mà còn là sự xét lại và phản bội chủ nghĩa xã hội khoa học; đồng thời không thể không kể đến những âm mưu thâm độc trong chiến lược “diễn biến hòa bình” mà chính chủ nghĩa đế quốc quốc tế sử dụng. Kẻ thù của các đảng cộng sản đã lợi dụng triệt để những sai lầm trong đường lối, những khiếm khuyết không được khắc phục kịp thời trong lãnh đạo và điều hành đất nước của các đảng cầm quyền ở các nước đó... để mua chuộc, kích động và cổ vũ những phần tử cơ hội bên trong, khuyến khích những hành động phản cách mạng bên ngoài. Kẻ thù của Chủ nghĩa Mác – Lênin đổ tội tất cả điều đó cho C. Mác, cho chủ nghĩa Mác – Lênin, đó là một điều phi lý, phản khoa học.

Năm 1999, Trường Đại học Cambrit [Anh] công bố bình chọn nhà tư tưởng số một thiên niên kỷ thứ hai, kết quả là C. Mác đứng đầu, A. Anhxtanh - nhà khoa học lớn, đứng thứ hai. Và gần đây, theo thăm dò của tờ Tạp chí Spiegel [Đức] cho thấy, C. Mác được ưa chuộng một cách ngạc nhiên - hơn 50% số người dân Tây Đức nói rằng, “sự phê phán của C. Mác đối với chủ nghĩa tư bản ngày nay vẫn giữ nguyên giá trị”, và thậm chí hơn 56% cho rằng, “chủ nghĩa xã hội là một tư tưởng hay nhưng thực hành tồi”; và C. Mác trong giới trẻ còn nhận được sự đồng tình cao hơn nữa. Nhà tỷ phú đầu cơ chứng khoán George Soros, viết: “C. Mác và Ph. Ăngghen đã cho một phân tích rất tốt về hệ thống tư bản từ cách đây hơn 200 năm”. Tờ The New Yorker [Mỹ] cũng cho rằng, các vấn đề mà các nhà kinh tế học hiện đại đang đối mặt và giải quyết, nhưng thực ra họ đang “bước theo dấu chân của C. Mác mà họ không biết”, bởi chung lại theo tờ Tạp chí Newsweek [Mỹ], C.Mác “đã mổ xẻ cái hệ thống trục lợi này tốt hơn ai hết… Như thể C. Mác đã đội mồ đứng dậy!”. Và thực tế chứng minh rằng, chính bản thân chủ nghĩa tư bản dù ở phương Đông hay phương Tây [từ Nhật Bản tới Tây Âu rồi Mỹ…] cũng đã và đang vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm điều chỉnh, thích nghi để tồn tại...

Vậy xin được hỏi những ai toan tính phản bác chủ nghĩa Mác – Lênin, những ai hồ nghi, tráo trở về cái gọi là sự “phù hợp” của chủ nghĩa Mác - Lênin với phương Đông hay phương Tây một cách máy móc, phiến diện, thì còn vấn đề nào muốn thảo luận tiếp nữa không?

Chủ nghĩa Mác - Lênin đã sống, đang sống và mãi mãi là kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam, dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam dân tộc Việt Nam đang từng bước vững chắc đi lên chủ nghĩa xã hội và góp phần vào sự nghiệp giải phóng toàn thể nhân loại cần lao...

2. Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra quy luật khách quan của quá trình ra đời, phát triển của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản; đồng thời cũng chỉ ra điều kiện chủ quan quyết định của quá trình đó là: lý luận tiên phong và Đảng tiên phong của giai cấp công nhân. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác - Ăngghen đã nêu rõ tư tưởng về điều kiện để giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động khỏi ách áp bức bóc lột là phải có “đội tiên phong với lý luận tiên phong và hành động tiên phong”. Mác - Ăngghen đã chỉ rõ: những người cộng sản tuyệt nhiên không có lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản. Về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất…, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên; về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là, họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản.

Trong tác phẩm Làm gì, Lênin đã khẳng định: “không có lý luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng” ; “chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sỹ tiền phong” .

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện, giáo dục, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng chính trị, kim chỉ nam cho hành động cách mạng, là minh chứng thuyết phục nhất chứng tỏ, học thuyết Mác - Lênin đã thực sự đóng vai trò lý luận dẫn đường cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Với truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, nhiều nhà yêu nước đã phất cờ tập hợp các tầng lớp nhân dân Việt Nam đã đứng lên chống quân xâm lược hơn nửa thế kỷ với ý chí “khi nào người Tây nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam chống người Tây” nhưng đều đã không thành công. Đầu thế kỷ XX phong trào yêu nước theo khuynh hướng tư sản cũng lần lượt thất bại. Đất nước như không có đường ra...

Năm 1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành, với tên anh Ba ra đi tìm đường cứu nước. Sau gần 10 năm bôn ba khắp các châu lục vừa lao động bảo đảm cho cuộc sống, vừa nghiên cứu lý luận, vừa nghiên cứu thực tiễn cách mạng trên thế giới, Nguyễn Ái Quốc đã đi đến kết luận: chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức. Tiếp đến Người phải qua 10 năm chuẩn bị trên cả ba phương diện: tư tưởng lý luận, đường lối chính trị, tổ chức cán bộ để đưa tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam [3-2-1930]. Nói về vai trò của Đảng Cộng sản và lý luận, trang đầu cuốn Đường Cách mệnh xuất bản năm 1927, Nguyễn Ái Quốc trích câu nói nổi tiếng của Lênin trong tác phẩm Làm gì:

- Cách mệnh, trước hết cần cái gì?

Và Người trả lời rõ ràng: “Trước hết cần có Đảng cách mệnh… Đảng có vững thì cách mệnh mới thành công… Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm nòng cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam.

Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin” .

Trong bài nói chuyện với lớp huấn luyện Đảng viên mới do Thành ủy Hà Nội tổ chức năm 1966 Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định: “Không có lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học thì không thể có lập trường giai cấp vững vàng. Vì vậy, các cô, các chú phải chịu khó học tập lý luận Mác - Lênin, đường lối chính sách của Đảng; đồng thời phải học tập văn hóa, kỹ thuật và nghiệp vụ” .

Trong những năm cuối đời, khi viết Di chúc, Bác Hồ tiếp tục khẳng định rõ tư tưởng về vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin và của Đảng Cộng sản.

3. V.I. Lênin kế thừa, vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của C. Mác vào thực tiễn cách mạng ở Nga và thế giới, trên cơ sở đó đề ra học thuyết về cách mạng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa.

Trên cơ sở những nghiên cứu, phân tích về chủ nghĩa đế quốc, Lênin phát hiện ra quy luật phát triển không đều về kinh tế và chính trị của chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ chủ nghĩa đế quốc và đi đến kết luận: cách mạng vô sản có thể thắng lợi ở một số nước hay thậm chí ở một nước riêng lẻ, nơi chủ nghĩa tư bản chưa phải là phát triển nhất, nhưng là khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền tư bản chủ nghĩa. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã chứng minh cho điều đó. Đồng thời, Lênin đã đưa ra luận thuyết khoa học và cách mạng về sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.

Hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, Việt Nam chuyển lên tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và trên quy mô cả nước [từ năm 1975]. Thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất Tổ quốc, cả nước cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, là bằng chứng thực tế đầy thuyết phục chứng tỏ, học thuyết của V.I. Lênin về cách mạng xã hội chủ nghĩa trong thời đại đế quốc chủ nghĩa là hoàn toàn đúng đắn, có cơ sở lý luận khoa học, cơ sở thực tiễn, phản ánh chính xác những nét lớn, cơ bản của thực tiễn lịch sử Việt Nam trong thế kỷ XX và cả hiện nay...

4. Những thành tựu có ý nghĩa lịch sử, mang tính bước ngoặt, đặc biệt là những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của 35 năm đổi mới mà Việt Nam đạt được, một phần rất quan trọng là do Đảng, Nhà nước ta đã vận dụng sáng tạo, phát triển những tư tưởng, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó có Chính sách kinh tế mới [NEP] của Lênin trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Với NEP, Lênin đã khẳng định rằng, đi lên chủ nghĩa xã hội không phải là xóa bỏ kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường, mà phải phát triển kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường; không phải là nền kinh tế của một thành phần kinh tế độc tôn, mà là nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu, v.v..

Sự vận dụng sáng tạo, phát triển học thuyết Mác - Lênin, cụ thể là NEP của Lênin vào hoàn cảnh, điều kiện cụ thể Việt Nam được thể hiện đặc biệt rõ nét trong quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng ta về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần... trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

5. Những thành tựu Việt Nam đạt được trong lĩnh vực đối ngoại, một phần rất quan trọng là do chúng ta biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nhất là trong thực hiện nhất quán và có hiệu quả đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi, chú trọng nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế. Xét về bản chất, đường lối đối ngoại rộng mở trên đây của Việt Nam chính là sự vận dụng sáng tạo của Đảng, Nhà nước ta lý luận của Lênin về “cùng tồn tại hòa bình” giữa hai hệ thống chính trị xã hội đối lập nhau trước đây [hệ thống tư bản chủ nghĩa và hệ thống xã hội chủ nghĩa] - vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, vào bối cảnh mới trong nước và quốc tế hiện nay.

Như vậy, với những minh chứng trên đây làm sao có thể nói rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin là “lạc hậu”, là “không phù hợp” với Việt Nam được.

Từ những phân tích trên đây, có cơ sở để khẳng định:

Thứ nhất, học thuyết Mác - Lênin có sức sống mãnh liệt và có giá trị thời đại, bởi vì đây là học thuyết khoa học và cách mạng nhất cho đến ngày nay. Học thuyết Mác – Lênin là cơ sở thế giới quan, cơ sở phương pháp luận khoa học của nhân loại và gợi mở cho sự nghiên cứu tiếp tục trong tương lai của loài người. Học thuyết Mác - Lênin, cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh, thực sự trở thành nền tảng tư tưởng lý luận, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng ta trong lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, dù là học thuyết Mác - Lênin có khoa học và đúng đắn đến đâu đi nữa, thì cũng là sản phẩm của thời đại, của hoàn cảnh lịch sử nhất định, do vậy không thể giải đáp đầy đủ, chi tiết, cặn kẽ mọi vấn đề, ở mọi thời đại, của mọi quốc gia. Bởi vì, học thuyết Mác - Lênin là học thuyết mở, phải được bổ sung, phát triển không ngừng cùng với tiến trình phát triển tri thức, khoa học, thực tiễn của nhân loại. Khi vận dụng các nguyên lý cơ bản của học thuyết đó, nhất thiết phải dựa vào điều kiện lịch sử - cụ thể của từng nước trong từng thời kỳ cách mạng để vận dụng một cách sáng tạo và phát triển không ngừng. Những thắng lợi mang tính lịch sử của cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng Cộng sản lãnh đạo là minh chứng thuyết phục nhất về sự vận dụng sáng tạo và sự đóng góp cho phát triển học thuyết Mác - Lênin của Đảng ta, của nhân dân ta.

Thứ ba, vận dụng lý luận vào thực tiễn là con đường cam go, khúc khuỷu, phải có cơ chế thích hợp và đòi hỏi thái độ khách quan, khoa học, trung thực thì mới thành công.

Những kết luận rút ra trên đây cũng hoàn toàn đúng với việc nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của Việt Nam.

Ở Việt Nam, kể từ Đường cách mệnh do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo và Luận cương chính trị do Hội nghị Trung ương tháng 10-1930 thông qua cho đến nay, Đảng ta đều khẳng định, chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng. Từ Đại hội VII đến nay có sự bổ sung mới: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng của Đảng...”. Ngay từ năm 1991, Đại hội VII, Đảng ta đã khẳng định: “... tư tưởng Hồ Chí Minh chính là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta, và trong thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và của cả dân tộc; Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân trọn vẹn nhất cho sự kết hợp đó, là tiêu biểu sáng ngời cho sự kết hợp giai cấp và dân tộc, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội” .

Bước vào thế kỷ XXI, với sự phát triển mãnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, nhất là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với xung lực là kinh tế tri thức, kinh tế số đang tiến triển đột phá và quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đã và đang đặt ra trước toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta những trọng trách mới, ngày càng to lớn, phức tạp và khó khăn hơn. Nói cách khác, khi lịch sử thế giới bước vào thời kỳ phát triển mạnh mẽ, hơn bao giờ hết, hàng loạt vấn đề vừa có ý nghĩa chiến lược, vừa cơ bản, vừa cấp bách đặt ra mệnh hệ tới tương lai của dân tộc đang đòi hỏi Đảng ta - Người mà dân tộc Việt Nam trao cho trọng trách đứng mũi chịu sào trước lịch sử dân tộc - phải tìm câu trả lời cấp bách, trong lúc những vấn đề mới mẻ và khó khăn ấy, mà sinh thời các nhà kinh điển không và không thể để lại một lời chỉ dẫn nào cụ thể cả. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước tiếp tục đặt ra nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn phải tập trung giải quyết để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững hơn theo con đường xã hội chủ nghĩa, nhất là việc nhận thức, giải quyết đúng, hiệu quả các mối quan hệ lớn.

Tất nhiên, chúng ta không thể phủ nhận một điều là, những thập niên 70, 80, nhất là đầu những năm 90 của thế kỷ XX, trong quá trình hiện thực hóa lý luận mác-xít, những người cộng sản gặp phải khó khăn to lớn, nhất là sau khi chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ. Đặc biệt, khi lịch sử phát triển nhân loại ở vào tình thế có tính bước ngoặt, khi toàn cầu hóa trở thành phổ biến, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với những xung lực phát triển mạnh mẽ, thì việc tìm lời giải cho việc bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin cho phù hợp với bối cảnh mới càng trở nên khó khăn gấp bội. Nhưng một điều chắc chắn rằng giai cấp công nhân mà đứng đầu là đảng cách mạng của nó đã, đang và tiếp tục đủ sức gánh vác trọng trách đó của lịch sử xã hội chủ nghĩa, khi biết cách vượt lên những thách thức của thời đại và điều cơ bản, có ý nghĩa quyết định nhất là phải biết trở về với chủ nghĩa Mác – Lênin, biết dựa vào sự chỉ dẫn về thế giới quan và phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin một cách kiên định và sáng tạo.

Do đó, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, chúng ta càng phải trở về với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách trung thành và vận dụng, phát triển sáng tạo. Nguyên tắc bất di bất dịch là, cần nghiên cứu và thấu triệt nó với tư cách không chỉ là nền tảng lý luận chính trị về phương diện chính trị - xã hội, một cương lĩnh chính trị - khoa học về mặt hành động cách mạng, một chỉnh thể toàn vẹn về mặt cấu trúc hệ thống, một thực thể vận động và thống nhất trên bình diện khoa học - thực tiễn, mà còn là một lý thuyết - thực tiễn mở về phương diện xã hội - lịch sử và là một tổng thể phương pháp luận khoa học và cách mạng, như chính bản thân học thuyết Mác - Lênin chứa đựng và thể hiện.

Qua thử thách và sự kiểm nghiệm của thực tiễn lịch sử, điều ngày càng sáng tỏ là, do sự kết tinh những tư cách và phẩm chất đó, chủ nghĩa Mác - Lênin, tự nó đã là một khoa học mang tính cách mạng sâu sắc. Bởi lẽ, chủ nghĩa Mác – Lênin là học thuyết không chỉ nhằm giải thích thế giới mà quan trọng hơn là, nhằm cải tạo thế giới. Nói cách khác, chủ nghĩa Mác - Lênin tuyệt đối không phải là thứ khoa học tự thân mà là khoa học về cách mạng, khoa học của thực tiễn và vì thực tiễn lịch sử cách mạng nhằm tới mục tiêu giải phóng con người khỏi sự chế ngự bởi “vương quốc tất yếu”, để bước tới “vương quốc tự do”. Vì thế, tự nó hàm chứa khả năng tự phát triển, tự sáng tạo không ngừng, thông qua cách mạng. Nói kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin cũng chính là phải không ngừng phát triển nó bằng thực tiễn cách mạng sáng tạo; đồng thời, tỉnh táo chống lại một cách kịp thời và hiệu quả mọi biểu hiện của chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cơ hội và chủ nghĩa xét lại làm vấy bẩn, méo mó và xuyên tạc nó.

Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu, phát triển di sản lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin thực chất là nghiên cứu, phát hiện và tổng kết những vấn đề mang tính quy luật, những quy luật của sự vận động tự nhiên, xã hội và tư duy một cách tổng quát, có tính chất chung nhất, mang tính tất yếu nhưng lại được hàm chứa và được thể hiện sinh động ở những thời kỳ lịch sử cụ thể, nhất định, xét trong toàn bộ tiến trình phát triển lịch sử - tự nhiên của nhân loại, vì sự sống còn và phát triển của chủ nghĩa xã hội trong thế kỷ XXI.

Theo đó, thực chất của toàn bộ việc nghiên cứu lý luận chính trị của chúng ta là nhằm mục tiêu góp phần xác lập một đường lối chính trị độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng tạo dẫn dắt, chỉ đạo thắng lợi công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, ở nước ta hiện nay trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng trên bình diện thực tiễn, không phải cứ nói tới định hướng xã hội chủ nghĩa trong công tác nghiên cứu lý luận chính trị là khắc có lý luận đúng đắn về sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, cụ thể hơn là đường lối chính trị xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc đúng đắn. Bởi lẽ, một mặt, về phương pháp luận, có định hướng tất có chệch hướng, xét cả trên bình diện vĩ mô lẫn vi mô, cả ở quy mô mang tính toàn cục lẫn bộ phận; mặt khác, về tổ chức thực tiễn, tự nó đã chứa đựng sự bất cập kép: hoạch định đường lối chính trị có thể sai quy luật và tổ chức thực thi đường lối chính trị có thể lệch lạc. Trong quá khứ, những sai lầm về thực tiễn đã chứng tỏ cả hai điều này. Bởi vậy, ngay tại Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII [tháng 1-1994], Đảng ta hết sức cảnh báo và đặc biệt lo lắng nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa, coi đây là nguy cơ đứng hàng thứ nhất trong bốn nguy cơ, trên cả hai bình diện hoạch định đường lối và tổ chức thực tiễn đường lối chính trị của Đảng.

Như vậy, phải ý thức sâu sắc rằng, vấn đề giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nghiên cứu lý luận chính trị trên nền tảng học thuyết Mác - Lênin có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, quyết định sự thành bại của Đảng ta, của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc của chúng ta hiện nay và của dân tộc, của đất nước trong tương lai. Đó là bài học thành hay bại của chúng ta trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội mấy thập niên vừa qua; cũng là bài học thất bại của các đảng cộng sản cầm quyền tại các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu trong những thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, khi chệch hướng hay lạc hướng về mặt kiến tạo đường lối chính trị, rộng hơn là lý luận chính trị. Chính từ sự phát triển phức tạp và khó khăn của thực tiễn cách mạng cho thấy, không gì có thể thực tiễn hơn, khi chúng ta có một lý luận khoa học và cách mạng dẫn đường. Ở đâu và ở lúc nào công tác lý luận không được coi trọng đúng mức thì ở đó và lúc đó xảy ra tình trạng khủng hoảng lý luận và lý luận tụt hậu; theo đó, công tác tổ chức thực tiễn sẽ hết sức chệch choạc, thậm chí gặp khó khăn và đổ vỡ. Thực tiễn xác nhận, chỉ có xuất phát từ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tổ chức tốt thực tiễn, kịp thời và thường xuyên tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng là con đường duy nhất đúng để phát triển và bảo vệ lý luận cách mạng mới tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng không ngừng tiến lên.

Đó chính là mục đích, con đường, môi trường, là bước đi, thước đo hiệu quả, là thách thức, vận hội phát triển và là chân trời của sự sáng tạo của công tác lý luận hiện nay nhằm xây dựng và phát triển nền tảng tư tưởng chính trị dẫn dắt sự nghiệp đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đi tới thắng lợi; đồng thời, xác nhận thái độ, bản lĩnh, năng lực và đạo lý của chúng ta đối với học thuyết Mác – Lênin.

Bởi, xét cho cùng, toàn bộ công tác lý luận của chúng ta, về thực chất là nhằm tới mục đích xây dựng một đường lối chính trị độc lập, tự chủ và sáng tạo về lý luận của Đảng để chỉ đạo thắng lợi công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Lịch sử Đảng ta 90 năm qua, xác nhận: do kiên định và vận dụng linh hoạt,phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó tìm đúng bản chất, quy luật vận động đặc thù của xã hội Việt Nam và xu thế vận động tất yếu của thời đại; đồng thời, đấu tranh một cách kiên quyết chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa cơ hội..., Đảng ta đã xây dựng thành công một đường lối cách mạng độc lập, tự chủ và sáng tạo của cách mạng nước ta. Ở tầm vĩ mô, công tác lý luận đã góp phần quan trọng trong việc kiến giải hàng loạt vấn đề khoa học - thực tiễn rất cơ bản và quan trọng, tiếp tục đưa đất nước vượt qua những khó khăn, thử thách tiếp tục phát triển trên con đường xã hội chủ nghĩa, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là những vấn đề về đặc điểm và nội dung của thời đại ngày nay; về mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; về sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức; về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế; về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; về xây dựng Đảng cầm quyền ngang tầm sự nghiệp đổi mới đất nước, v.v.. Tất cả sự nỗ lực đó của công tác lý luận đã trực tiếp góp phần làm cho “con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn”, đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng kéo dài suốt hai thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, bước vào thời kỳ phát triển mới ở thế kỷ XXI với vị thế mới, thế và lực mới và một gia tốc mới, như bất cứ ai đều thấy.

Đó chính là một trong những bài học lịch sử vô giá làm nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam, góp phần vào sự phát triển sáng tạo và bảo vệ thành công chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trên cơ sở bảo đảm sự thống nhất giữa lý luận cách mạng và thực tiễn cách mạng nhằm vừa nâng cao trình độ lý luận vừa đẩy mạnh năng lực tổ chức thực tiễn cách mạng.

PGS.TS Vũ Văn Phúc - Phó chủ tịch Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương

Tham nhũng - Biểu hiện, tình hình, kết quả công tác phòng, chống tham nhũng

Tác giả

Thứ hai, 25/03/2019 09:57 0 Bình luận

[Mặt trận] - Nghiên cứu sự ra đời và phát triển của tham nhũng, nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới đã khẳng định: Tham nhũng xảy ra nghiêm trọng nhất ở các nước mà hệ thống pháp luật còn lỏng lẻo, các quy trình ra quyết định và hoạch định chính sách còn thiếu dân chủ, thiếu minh bạch, thủ tục hành chính rườm rà, lương công chức thấp. Qua theo dõi, đánh giá của một số tổ chức quốc tế cho thấy, tham nhũng thường diễn ra phổ biến và nghiêm trọng ở những nước kém phát triển, thu nhập thấp, xã hội thiếu ổn định, nhất là khu vực châu Phi, châu Á. Ở một số nước phát triển, tham nhũng có thể không phổ biến, tràn lan, nhưng một số vụ tham nhũng lớn vẫn có thể xảy ra.

Một số giải pháp nâng cao chất lượng phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam

Xuất bản cuốn sách của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng về quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng

Giá trị bền vững của ‘Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương’

Tham nhũng và những biểu hiện đặc trưng

Trong lịch sử phát triển xã hội loài người, sự tồn tại quyền lực xã hội là một tất yếu để bảo đảm sự tồn tại của cộng đồng. Trong cộng đồng đó, con người theo bản năng luôn vươn lên để ngày càng thoả mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần. Sự vươn lên không đồng đều của từng nhóm người dẫn đến sự phân hoá xã hội [từ cộng đồng nguyên thủy chất phác, bình đẳng, cùng làm cùng hưởng, dần dần hình thành các thị tộc, bộ lạc, liên minh bộ lạc... và các thiết chế quyền lực thô sơ ra đời]. Theo đó, quyền lực xã hội vốn trong sáng cũng dần bị tha hoá. Trong hoàn cảnh đó, một số người [Tộc trưởng, Tù trưởng...] đã lợi dụng quyền lực cộng đồng trao cho để chiếm đoạt công khai hoặc không công khai tài sản cộng đồng để thoả mãn nhu cầu cá nhân, chế độ tư hữu ra đời và phát triển. Bản chất hành vi này chính là hành vi tham nhũng. Vì vậy, tham nhũng là một hiện tượng xã hội tiêu cực có tính lịch sử, xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện chế độ tư hữu và sự xuất hiện các thiết chế quyền lực xã hội. Trong các dạng quyền lực xã hội thì quyền lực nhà nước là một dạng quyền lực rất dễ bị lợi dụng để tham nhũng. Vì vậy, có thể khẳng định rằng tham nhũng tồn tại ở mọi chế độ xã hội, với những biểu hiện và mức độ khác nhau, tuỳ thuộc bối cảnh chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ trong từng giai đoạn phát triển.

Trong xã hội hiện đại, tham nhũng xảy ra ở tất cả các quốc gia không phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế giàu hay nghèo. Trong từng quốc gia, tham nhũng có thể xảy ra ở nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội. Tham nhũng luôn song hành cùng quyền lực. Nhiều người coi tham nhũng là "bóng tối vươn theo quyền lực", thậm chí là "khuyết tật bẩm sinh" của quyền lực. Chừng nào các hình thức quyền lực chính trị còn bị tha hoá, quyền lực nhà nước còn bị lợi dụng, quyền lực không được kiểm soát thì nguy cơ xảy ra tham nhũng là hiện hữu. Nhận thức như vậy để chúng ta ý thức rõ ràng nguy cơ tiềm tàng của nó khi thực hành quyền lực trong tiến trình phát triển của xã hội, theo đó để có các giải pháp "ngăn chặn và từng bước đẩy lùi" tệ nạn này.

Về khái niệm tham nhũng:

Tham nhũng là một hiện tượng xã hội phức tạp với nhiều biểu hiện khác nhau. Các quốc gia ở các trình độ phát triển khác nhau, điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau quan niệm về tham nhũng cũng rất khác nhau. Trong từng quốc gia, ở mỗi giai đoạn phát triển, khái niệm tham nhũng đưa ra cũng thay đổi tương ứng để chỉ ra những loại hành vi tham nhũng nào là phổ biến. Vì vậy khó có thể có một khái niệm chung nhất về tham nhũng cho mọi quốc gia, mọi chế độ chính trị; tham nhũng cũng không phải là một khái niệm nhất thành bất biến xuyên qua các thời kỳ phát triển đối với từng quốc gia, khu vực.

Ở góc độ chung nhất, thuật ngữ “tham nhũng” [corruption] có gốc là một động từ tiếng La-tinh “corruptus”, nghĩa là lạm dụng, phá hoại hay vi phạm. Như vậy, từ gốc rễ của nó, thuật ngữ “tham nhũng” hàm ý những hành vi trái phép hoặc bất hợp pháp.

Ngân hàng Thế giới [WB] coi tham nhũng là "Sự lạm dụng chức vụ công để tư lợi". Ngân hàng Phát triển Châu Á [ADB] quan niệm "Tham nhũng là lạm dụng chức vụ công hoặc chức vụ tư để tư lợi".

Theo Tổ chức Minh bạch quốc tế [TI] thì "Tham nhũng là hành vi của công chức trong khu vực công, dù là chính trị gia hay công chức dân sự, trong đó họ làm giàu một cách không đúng đắn hay bất hợp pháp cho bản thân hoặc cho người thân của họ bằng việc lạm dụng quyền lực công đã được giao cho họ".

Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng năm 2003 không đưa ra khái niệm về tham nhũng mà chỉ khuyến cáo các quốc gia thành viên cần phải quy định các hành vi sau đây là tội phạm: Hối lộ [trong khu vực công và khu vực tư]; tham ô; lợi dụng ảnh hưởng để trục lợi; làm giàu bất hợp pháp; biển thủ trong khu vực tư; tẩy rửa tài sản do phạm tội mà có…

Theo Từ điển Luật học Việt Nam năm 2006: "Tham nhũng là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn hưởng lợi ích vật chất trái pháp luật, gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, tập thể, cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức".

Ở Việt Nam, theo Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 thì "tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi” [Luật Phòng, chống tham nhũng sửa đổi năm 2018, có hiệu lực từ ngày 1/7/2019 giữ nguyên khái niệm này]. Vụ lợi được hiểu là: "Lợi ích vật chất, tinh thần mà người có chức vụ, quyền hạn đạt được hoặc có thể đạt được thông qua hành vi tham nhũng" [Điều 2 Luật Phòng, chống tham nhũng]. Đây là một khái niệm tương đối bao quát, đủ để xác định bản chất của hành vi tham nhũng phổ biến trong xã hội Việt Nam hiện nay.

Tuy có nhiều quan niệm và cách diễn đạt khác nhau, nhưng có một điểm chung thống nhất là: Tham nhũng là hành vi của người [hoặc nhóm người] có quyền lực, đã lợi dụng quyền lực để trục lợi riêng.

Ba dấu hiệu đặc trưng của hành vi tham nhũng:

Hành vi tham nhũng phải bao gồm đồng thời ba dấu hiệu đặc trưng sau:

Thứ nhất, tham nhũng phải được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn.

Luật Phòng, chống tham nhũng quy định 4 nhóm người có chức vụ, quyền hạn bao gồm:

a. Cán bộ, công chức, viên chức;

b. Sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sỹ quan, hạ sỹ quan nghiệp vụ, sỹ quan, hạ sỹ quan chuyên môn - kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân;

c. Cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước; cán bộ lãnh đạo, quản lý là người đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp.

d. Người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó.

e. Ngoài ra, theo Bộ luật Hình sự 2015, chủ thể của các hành vi tham ô tài sản, nhận hối lộ còn có thể là người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước.

Thứ hai, người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ được giao.

Sự lợi dụng, lạm dụng thông qua: [1] hoặc là chức năng chính quyền; [2] hoặc là chức năng tổ chức, lãnh đạo; [3] hoặc là chức năng hành chính, kinh tế theo nhiệm vụ, công vụ được giao; [4] hoặc theo thẩm quyền chuyên môn mà người đó đảm nhận.

Thứ ba, người thực hiện hành vi tham nhũng phải có mục đích, động cơ vụ lợi [vụ lợi là lợi ích vật chất, tinh thần mà người có chức vụ, quyền hạn đạt được hoặc có thể đạt được thông qua hành vi tham nhũng].

Đây là dấu hiệu bắt buộc phải có để phân biệt hành vi tham nhũng với những hành vi vi phạm pháp luật khác do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện.

Nếu thiếu một trong ba dấu hiệu đặc trưng trên thì không bị coi là hành vi tham nhũng mà bị coi là hành vi vi phạm pháp luật khác.

Về nguyên nhân của tham nhũng:

Hiện nay, tham nhũng là vấn đề mang tính toàn cầu nhưng đồng thời nó cũng chứa đựng những yếu tố đặc thù gắn với từng quốc gia. Về cơ bản mỗi quốc gia có những nguyên nhân, điều kiện phát sinh tham nhũng riêng. Tuy nhiên, dựa trên cơ sở xem xét nguyên nhân, điều kiện phát sinh tham nhũng của các nước trên thế giới, thấy rằng tuy có điểm riêng nhưng cũng có một số nguyên nhân, điều kiện mang tính chất chung, tương đồng. Đó là:

Sự phát triển của các hình thái nhà nước, đặc biệt là trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế, chính trị tạo ra tiền đề khách quan cho tham nhũng nảy sinh, phát triển. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng nguồn gốc sâu xa của tệ tham nhũng là sự gặp nhau của hai nhân tố: quyền lực công và lòng tham cá nhân. Trong xã hội có giai cấp, nhà nước trước hết đại diện cho quyền lực của một giai cấp nhất định, nó có chức năng điều hòa những lợi ích của các giai cấp khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Quyền lực của nhà nước khi được trao cho những con người cụ thể, những người đại diện cho nhà nước thực thi quyền lực công, nếu không có cơ chế kiểm soát dễ dẫn tới sự lợi dụng quyền lực hoặc lạm quyền. Sự gặp nhau giữa quyền lực công khi không được chế ước với nhu cầu cá nhân vượt quá giới hạn cho phép, lòng tham, đã dẫn tới việc sử dụng quyền lực công phục vụ cho nhu cầu cá nhân. Đó chính là cơ sở nảy sinh tham nhũng. Tham nhũng còn được coi là “sản phẩm của sự tha hóa quyền lực”.

Tham nhũng là hệ quả tất yếu của của nền kinh tế kém phát triển, quản lý kinh tế, xã hội lỏng lẻo, yếu kém, tại đó một phần quyền lực chính trị được biến thành quyền lực kinh tế. Thực tế cho thấy ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển, quản lý công khai, minh bạch, văn minh thì tham nhũng xảy ra ít hơn. Ngược lại, ở các quốc gia, vùng lãnh thổ đang phát triển, trình độ quản lý và dân trí chưa cao thì ở đó tham nhũng phức tạp hơn.

Hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện và đồng bộ hoặc thực thi pháp luật yếu kém cũng là một nguyên nhân và điều kiện của tham nhũng. Cơ chế, chính sách, pháp luật chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán có nhiều “kẽ hỡ” tạo cho những người có chức vụ, quyền hạn, điều kiện để “lách luật” trục lợi, làm giàu bất chính.

Phẩm chất chính trị đạo đức của đội ngũ có chức, có quyền bị suy thoái đặc biệt là suy thoái tư tưởng chính trị. Họ sẵn sàng bỏ qua lợi ích chung, lợi ích tập thể để trục lợi, làm giàu bất chính cho bản thân, gia đình, họ hàng mình; nhất là trong điều kiện khủng hoảng chính trị, xã hội, kinh tế ảnh hưởng tiêu cực tới đạo đức của đội ngũ công chức.

Trình độ dân trí thấp, ý thức pháp luật của người dân chưa cao tạo điều kiện cho những người có chức quyền có thể nhũng nhiễu, hạch sách dân chúng, vòi vĩnh nhận quà biếu, tặng hay nói cách khác là nhận hối lộ. Thực tế ở các nước phát triển có trình độ dân trí cao thì tham nhũng ít xảy ra hơn là những nước đang phát triển và kém phát triển với trình độ dân trí thấp, người dân chưa có điều kiện tham gia vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng.

Bộ máy hành chính nhà nước cồng kềnh, với nhiều thủ tục hành chính phiền hà, nặng nề, bất hợp lý tạo điều kiện cho một số cán bộ, công chức nhà nước sách nhiễu, ăn hối lộ của người dân, doanh nghiệp. Một số nước còn tồn tại cơ chế “xin-cho”, đó là “mảnh đất màu mỡ” của tham nhũng.

Chế độ, chính sách đãi ngộ, nhất là vấn đề tiền lương cho cán bộ, công chức chưa thỏa đáng. Một khi cán bộ, công chức nhà nước chưa thể sống no ấm, đầy đủ với tiền lương của mình thì tất yếu họ sẽ tìm mọi cách để kiếm thêm thu nhập từ chính công việc, chức vụ mà nhà nước giao cho mình kể cả tham nhũng.

Hậu quả, tác hại của tham nhũng:

Đối với bất kỳ quốc gia, dân tộc nào thì tham nhũng luôn là một nguy cơ tiềm tàng đối với sự ổn định và phát triển mọi mặt của đời sống xã hội. Tham nhũng gây ra những hậu quả, tác hại hết sức to lớn trên các lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội… Công ước của Liên hợp quốc năm 2003 cho rằng tính nghiêm trọng của các vấn đề do tham nhũng gây ra có thể đe dọa sự ổn định, an ninh xã hội, xâm hại các thể chế và giá trị dân chủ, các giá trị đạo đức, công lý, cản trở sự phát triển bền vững và nguyên tắc nhà nước pháp quyền.

Tham nhũng đe dọa sự ổn định chính trị, tham nhũng và những tác động của nó được ví như dịch bệnh nguy hiểm có thể phá vỡ bất kỳ thể chế chính trị nào. Một đảng cầm quyền còn để xảy ra tham nhũng thì nguy cơ mất quyền là rất cao vì phải chịu nhiều áp lực cả về chính trị lẫn xã hội. Tham nhũng có thể tạo ra những khủng hoảng chính trị do niềm tin của người dân vào đảng cầm quyền, bộ máy nhà nước bị suy giảm. Lênin từng chỉ rõ: Nếu có cái gì đó sẽ làm tiêu vong chúng ta thì chính là quan liêu, tham nhũng; nếu không thành công trong đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng thì sớm hay muộn, đến lượt nó, tệ quan liêu tham nhũng sẽ làm tiêu vong sự nghiệp của những người cộng sản.

Tham nhũng gây ra tác hại rất nghiêm trọng đối với phát triển kinh tế. Tham nhũng làm chậm nhịp độ phát triển kinh tế, phá vỡ những chiến lược và kế hoạch phát triển, gây thiệt hại vật chất rất lớn cho nhà nước và người dân. Trong quan hệ kinh tế giữa các quốc gia, tham nhũng luôn là mối đe dọa đến hiệu quả của sự hợp tác song phương và đa phương, là một trong các nguyên nhân quan trọng và chủ yếu nhất kìm hãm sự phát triển của thế giới hiện đại. Tham nhũng được xem là một tác nhân làm suy yếu thị trường ở ba khía cạnh: Như một loại “thuế”, là hàng rào cản trở sự tham gia vào thị trường; gây ảnh hưởng xấu tới tính hợp pháp của nhà nước; cản trở khả năng cung cấp những thể chế hỗ trợ thị trường.

Tham nhũng làm sai lệch sự lựa chọn chính sách; làm suy giảm các lực lượng cạnh tranh vốn có của thị trường, thị trường ít tính cạnh tranh hơn vì các doanh nghiệp mới và nhỏ bị cản trở bởi tham nhũng, đến mức họ sẽ không tham gia vào được thị trường. Mặt khác tham nhũng thường đi kèm với chi tiêu công cộng dành cho y tế và giáo dục thấp hơn và như vậy nó làm cho người nghèo ít có cơ hội tham gia vào thị trường.

Tham nhũng làm trầm trọng thêm các vấn đề xã hội, phá hoại những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Hơn nữa, tham nhũng đem lại sự nghèo khổ cho một bộ phận không nhỏ những người lao động chân chính, làm tha hóa biến chất bộ máy quan chức trong lĩnh vực công.

Tham nhũng còn liên kết với các tội phạm khác, đặc biệt là tội phạm có tổ chức, tội phạm kinh tế, tội phạm tẩy rửa tiền làm thất thoát và sử dụng sai trái một phần quan trọng nguồn lực các quốc gia, gây thiệt hại nghiêm trọng cho ổn định chính trị và phát triển bền vững của các nước đó.

Đảng ta chỉ rõ, tham nhũng là một mối nguy cơ đe doạ an ninh quốc gia, cùng với các nguy cơ khác như nguy cơ "diễn biến hoà bình", "nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế" và nguy cơ "chệch định hướng xã hội chủ nghĩa". Tham nhũng diễn ra nghiêm trọng ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực với phạm vi rộng, tính chất phức tạp, gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút niềm tin của nhân dân, là một trong những nguy cơ lớn đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ ta.

Phân loại tham nhũng:

Tham nhũng thường biểu hiện dưới các dạng sau:

Tham nhũng vật chất: Là dạng tham nhũng nhằm thỏa mãn những nhu cầu vật chất của cá nhân như tiền bạc, tài sản... Đây là dạng tham nhũng phổ biến và dễ nhận thấy. Trước đây, tham nhũng vật chất chủ yếu chỉ xảy ra ở lớp người có quyền lực với thủ đoạn chủ yếu là dùng quyền lực được giao để chiếm đoạt tài sản của nhà nước, của công dân nhằm vụ lợi cá nhân, nhưng ngày nay tham nhũng vật chất đã lan rộng ra mọi tầng lớp dân cư trong xã hội, kể cả lớp người trước đây không thể tham gia vào hoạt động này như thầy giáo, thầy thuốc… Tại nhiều quốc gia đang phát triển, tham nhũng vật chất đã trở thành nguồn sống chủ yếu của một bộ phận quan chức và tầng lớp dân cư có địa vị trong xã hội.

Tham nhũng quyền lực: Là dạng tham nhũng mà người tham nhũng lợi dụng quyền lực cá nhân để đưa những người thân tín vào bộ máy công quyền cũng như vào các tổ chức chính trị, xã hội, đơn vị kinh tế, tài chính... vì động cơ vụ lợi. Tham nhũng quyền lực thường thể hiện ở các mức độ khác nhau như: Lạm dụng, vận dụng một cách sai trái các quyền hợp pháp được nhà nước và xã hội trao cho; tạo ra các hình thức để mở rộng quyền lực nhằm thỏa mãn những lợi ích không hợp pháp; lợi dụng quyền lực để thỏa mãn khát vọng về quyền lực nhằm duy trì quyền lực đã tham nhũng được hoặc mưu cầu cương vị quyền lực cao hơn… Điển hình cho dạng tham nhũng quyền lực là hiện tượng nhiều cá nhân không xứng đáng, không đủ phẩm chất, trình độ, năng lực nhưng lại chiếm giữ nhiều cương vị, nhiều vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước, các tổ chức, đơn vị kinh tế, tài chính. Tư tưởng “một người làm quan cả họ được nhờ”, “tham quyền cố vị” chính là biểu hiện rõ nét nhất của dạng tham nhũng này.

Tham nhũng lớn, tham nhũng nhỏ: Theo Bộ công cụ phòng, chống tham nhũng của Liên hợp quốc, tham nhũng lớn là loại tham nhũng xâm nhập đến tận những cấp bậc cao nhất của chính phủ quốc gia, làm xói mòn lòng tin vào sự quản lý đúng đắn, nguyên tắc nhà nước pháp quyền và sự ổn định của nền kinh tế. Tham nhũng nhỏ là tham nhũng liên quan đến việc đổi chác một số tiền nhỏ, việc làm ơn không đáng kể bởi những người tìm kiếm sự ưu đãi, hoặc việc sử dụng bạn bè hay họ hàng nắm giữ chức vụ nhỏ. Như vậy có thể thấy, tham nhũng lớn thường diễn ra trong lĩnh vực quản lý kinh tế nhà nước, với các hiện tượng phổ biến, như: tham ô tài sản, lập dự án ma, dự án khống để rút tiền, hối lộ các quan chức cấp cao của bộ máy nhà nước để trúng thầu các dự án lớn, “lại quả” khi ký kết hợp đồng mua sắm tài sản công…; tham nhũng nhỏ là dạng tham nhũng phổ biến bởi các hiện tượng, như: bồi dưỡng phong bì cho bác sĩ trong bệnh viện; thu học phí cao hơn quy định của nhà nước trong các trường học; nạn mãi lộ trong cảnh sát giao thông, hiện tượng nhũng nhiễu, vòi vĩnh của cán bộ các cơ quan quản lý nhà nước…

Tham nhũng chính trị: Là dạng tham nhũng được hình thành do sự câu kết giữa những người có ảnh hưởng trong hệ thống chính trị, chủ yếu là những quan chức cấp cao trong bộ máy cầm quyền, nhằm tạo ra những quyết định, hay tìm cách tác động thiên lệch vào những quyết sách của nhà nước có lợi cho một cá nhân, doanh nghiệp hoặc những nhóm lợi ích nào đó. Như vậy, có thể hiểu tham nhũng chính trị là sự lạm dụng quyền lực chính trị được giao để thu lợi riêng, với mục đích tăng quyền hoặc tăng tài sản. Biểu hiện của dạng tham nhũng này là: dùng vị trí chính trị, ảnh hưởng chính trị của mình để can thiệp vào việc có hoặc không đưa ra một quyết định mang tính chính trị [chính sách, đạo luật, thỏa thuận…] một cách thiên vị nhằm mục đích vụ lợi; mua bán, trao đổi các chức vụ chính trị, vị trí có quyền lực, chạy chức, chạy quyền, sau đó dùng vị trí của mình để trục lợi cá nhân…

Tham nhũng hành chính: Là dạng tham nhũng xảy ra phổ biến trong các hoạt động quản lý hành chính của đội ngũ công chức hành chính. Ở đó những người được giao quyền đã sử dụng quyền lực hành chính, trình tự thủ tục hành chính để gây khó khăn cho công dân hoặc tổ chức nhằm trục lợi cho bản thân. Biểu hiện của tham nhũng hành chính là: hạch sách, nhũng nhiễu trong việc thực hiện một thủ tục, một quyết định cụ thể nào đó mà công dân, tổ chức có quyền được hưởng từ cơ quan hành chính nhà nước; thiên vị trong thực hiện pháp luật…

Tham nhũng kinh tế: Là dạng tham nhũng xảy ra trong hoạt động quản lý kinh tế, như: sản xuất kinh doanh, dịch vụ, mua sắm tài sản công, quản lý tài sản… được thực hiện bởi những người có thẩm quyền trong quản lý nhà nước về kinh tế, những người có thẩm quyền trong doanh nghiệp nhà nước. Biểu hiện của tham nhũng kinh tế là: chiếm đoạt trái phép các tài sản của nhà nước, công dân nhằm trục lợi cá nhân; ra các quyết định kinh tế trái pháp luật hoặc thiên vị nhằm trục lợi cá nhân; lợi dụng sơ hở của pháp luật hoặc vi phạm pháp luật để tiến hành sản xuất, kinh doanh, trục lợi, gây thiệt hại cho xã hội…

Kết quả nổi bật trong công tác phòng, chống tham nhũng thời gian qua

Công tác thông tin, tuyên truyền về phòng, chống tham nhũng được coi trọng, góp phần tạo sự chuyển biến về nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và nhân dân. Điểm mới trong công tác thông tin tuyên truyền, giáo dục là đã chủ động thông tin kịp thời cho báo chí để định hướng dư luận về kết quả thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, kỷ luật, xử lý các vụ việc, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng, kinh tế, kể cả những vấn đề nhạy cảm, xã hội quan tâm; nhắc nhở, chấn chỉnh, xử lý nghiêm nhiều vi phạm trong công tác thông tin, tuyên truyền về PCTN[1]. Báo chí vừa phản ánh về công tác PCTN, vừa đấu tranh phản bác luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, làm cho nhân dân hiểu rõ hơn về những khó khăn, phức tạp, cũng như quyết tâm của Đảng, Nhà nước trong PCTN[2]. Truyền thông, báo chí đã góp phần đắc lực trong công tác PCTN.

Cải cách hành chính, công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị được chú trọng và đạt những kết quả tích cực. Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương tích cực triển khai nhiệm vụ cải cách hành chính, tập trung vào các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, hạn chế tiêu cực, nhũng nhiễu đối với người dân, doanh nghiệp; công khai các thủ tục, người chịu trách nhiệm và thời hạn giải quyết, rút ngắn quy trình xử lý, giảm số lượng thủ tục và đơn giản hóa nội dung hồ sơ; giảm thời gian và chi phí thực hiện thủ tục hành chính[3].

Công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế về kinh tế - xã hội và phòng, chống tham nhũng được đẩy mạnh, nhiều quy định mới của Đảng, Nhà nước được ban hành, góp phần tăng cường công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị và phòng, chống tham nhũng. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy định để tăng cường công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị và PCTN, nhất là các Nghị quyết Trung ương 4, 6,7 [khóa XII] về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, các quy định về nêu gương, kiểm tra, giám sát, xử lý kỷ luật đảng, kiểm soát tài sản của cán bộ, thẩm quyền và trách nhiệm của ủy ban kiểm tra đảng trong công tác PCTN, về phân cấp quản lý và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử... Quốc hội, Chính phủ tập trung xây dựng, ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về quản lý kinh tế - xã hội và phòng, chống tham nhũng, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ hơn để phòng, chống tham nhũng, nhất là trong các lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, như: đất đai, tài nguyên, khoáng sản, ngân sách, thuế, hải quan, đầu tư công, đấu thầu, xây dựng, quản lý, sử dụng tài sản nhà nước, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước[4]… Hệ thống các quy định của Đảng, Nhà nước về phòng, chống tham nhũng hiện nay đã tạo cơ sở chính trị, pháp lý cơ bản đồng bộ cho công tác phòng, chống tham nhũng[5].

Công tác phát hiện, xử lý các hành vi tham nhũng được đẩy mạnh, tạo chuyển biến rõ nét. Đáng chú ý, công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng tiếp tục được tập trung thực hiện đạt nhiều kết quả quan trọng, thiết thực góp phần ngăn ngừa sự suy thoái về đạo đức, lối sống, tiêu cực, tham nhũng của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Công tác phát hiện, xử lý tham nhũng được tiến hành quyết liệt, đẩy nhanh tiến độ điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh, kịp thời nhiều vụ án tham nhũng, kinh tế đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm, với những mức án nghiêm khắc và nhân văn, tích cực thu hồi tài sản tham nhũng; thực hiện đúng quan điểm chỉ đạo của Đảng: Không có vùng cấm, không có ngoại lệ, không có đặc quyền, bất kể người đó là ai. Công tác thanh tra, kiểm toán được triển khai tương đối toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào những lĩnh vực nhạy cảm dễ phát sinh tham nhũng; đã phát hiện nhiều vụ việc có hành vi tham nhũng và liên quan đến tham nhũng.

Công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng được coi trọng, đạt những kết quả thiết thực [bình quân mỗi năm Cơ quan điều tra khởi tố khoảng 300 vụ/800 bị can về tội tham nhũng]; nhiều vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp được phát hiện, xử lý; mở rộng điều tra cả hành vi và đối tượng; xử lý nghiêm minh, kịp thời, có tác dụng cảnh tỉnh, răn đe mạnh mẽ, được dư luận xã hội đồng tình, ủng hộ.

Vai trò, trách nhiệm của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và nhân dân đối với công tác phòng, chống tham nhũng từng bước được phát huy và hiệu quả hơn, thông qua thẩm tra các Báo cáo về phòng, chống tham nhũng; thành lập các đoàn giám sát chuyên đề; hoạt động chất vấn... Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các tổ chức thành viên đã quan tâm tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống tham nhũng; giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng; phối hợp giám sát trong một số lĩnh vực kinh tế - xã hội giúp phòng ngừa tham nhũng; tích cực triển khai thực hiện Quyết định số 217-QĐ/TW của Bộ Chính trị về việc giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội.

Quan hệ hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng giữa Việt Nam với nhiều quốc gia trên thế giới tiếp tục được mở rộng và củng cố; qua đó đã cung cấp cho bạn bè trên thế giới những thông tin và tiến bộ của Việt Nam trong công tác phòng, chống tham nhũng; đồng thời tiếp thu được nhiều kinh nghiệm tốt, tranh thủ sự hỗ trợ, hợp tác của các quốc gia, tổ chức quốc tế để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng.

Tổ chức và hoạt động của các tổ chức, cơ quan, đơn vị chức năng phòng, chống tham nhũng từng bước được kiện toàn, phát huy hiệu lực, hiệu quả. Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã quyết định tổ chức lại Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng trực thuộc Bộ Chính trị, do Tổng Bí thư làm Trưởng ban; thành lập Ban Nội chính Trung ương làm nhiệm vụ Cơ quan Thường trực của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng và Ban Nội chính tỉnh ủy, thành ủy làm nhiệm vụ tham mưu cho tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương về công tác phòng, chống tham nhũng. Các đơn vị chuyên trách chống tham nhũng thuộc Thanh tra Chính phủ, Bộ Công an và Viện kiểm sát nhân dân tối cao tiếp tục được củng cố, kiện toàn.

Nguyễn Xuân Trường

TS, Vụ trưởng Vụ Địa phương, Ban Nội chính Trung ương

Chú thích:

1. Theo thông tin từ Cục Báo chí, Bộ Thông tin và Truyền thông, từ năm 2014 đến tháng 6/2018 đã xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí đối với 232 trường hợp, với tổng số tiền là 5,620 tỷ đồng; thu hồi thẻ nhà báo do có vi phạm đối với 29 trường hợp.

2. Theo thống kê 40 tờ báo Trung ương và địa phương, từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng đến tháng 6/2018 đã có 10.377 tin, bài về phản ánh về đề tài PCTN.

3. Trong 10 năm thực hiện NQTW3, khóa X, các bộ, ngành đã đơn giản hóa 4.219/4.712 thủ tục hành chính. Đã thiết lập và công bố Bộ cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính tại 4 cấp chính quyền và công khai trên mạng Internet; chuẩn hóa và thống nhất được bộ thủ tục hành chính cấp huyện, cấp xã theo hướng rút gọn; triển khai đề án tổng thể đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu liên quan đến quản lý dân cư; thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông, một cửa điện tử.

4. Quốc hội [khóa XII, XIII] đã ban hành 175 bộ luật, luật; Chính phủ đã ban hành 1.311 nghị định, 604 nghị quyết; Thủ tướng Chính phủ ban hành 6.110 chỉ thị, quyết định trên các lĩnh vực quản lý kinh tế - xã hội. Trong 10 năm [2006-2016], cả nước đã ban hành mới hơn 34.885 văn bản và sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ 27.120 văn bản về chế độ, định mức, tiêu chuẩn trên các lĩnh vực.

5. Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 [khóa X], Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành 29 văn bản; Quốc hội ban hành 14 văn bản; Chính phủ ban hành 22 văn bản; Thủ tướng Chính phủ ban hành 23 văn bản về công tác PCTN, LP.

Tags

Tham nhũng lợi dụng chức vụ quyền hạn vụ lợi đấu tranh phòng chống tham nhũng Việt Nam

Một số giải pháp nâng cao chất lượng phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam

22/04/2019

Xuất bản cuốn sách của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng về quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng

16/04/2019

Giá trị bền vững của ‘Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương’

11/04/2019

Báo chí với công tác tuyên truyền hình ảnh Việt Nam ra thế giới

27/03/2019

Mục lục

  • 1 Khái niệm
    • 1.1 Các quan niệm trước Chủ nghĩa Mác-Lênin
    • 1.2 Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin
    • 1.3 Các quan điểm hiện nay
  • 2 Nguồn gốc và bản chất
    • 2.1 Nguồn gốc kinh tế chính trị
    • 2.2 Bản chất giai cấp của chính trị
  • 3 Lịch sử
  • 4 Ý thức hệ chính trị
  • 5 Thể chế chính trị
  • 6 Tổ chức chính trị
    • 6.1 Đảng phái chính trị
    • 6.2 Nhà nước
    • 6.3 Các tổ chức liên minh đại diện
  • 7 Khoa học chính trị
    • 7.1 Chính trị học
    • 7.2 Triết học chính trị
    • 7.3 Xã hội học chính trị
    • 7.4 Kinh tế chính trị học
  • 8 Xã hội chính trị
    • 8.1 Địa chính trị
    • 8.2 Tham nhũng chính trị
    • 8.3 Chính trị toàn cầu
    • 8.4 Thủ lĩnh chính trị
    • 8.5 Quyền lực chính trị
    • 8.6 Đấu tranh chính trị
    • 8.7 Phong trào chính trị
  • 9 Kinh tế chính trị
  • 10 Văn hóa chính trị
    • 10.1 Nhân vật chính trị
  • 11 Xem thêm
  • 12 Tham khảo
    • 12.1 Tài liệu Tiếng Việt
    • 12.2 Tài liệu Tiếng Anh
  • 13 Chú thích

Video liên quan

Chủ Đề