Hai câu thơ 3, 4 cho thấy với tác giả thế nào là thú sống nhàn

I. Tiểu dẫn

- Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 1585), quê ở làng Trung Am, nay thuộc xã Lí Học, huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng.

- Ông đỗ Trạng Nguyên năm 1535 (44 tuổi) làm quan dưới triều Mạc. Ông là người thẳng thắn, cương trực, từng dâng sớ chém 18 tên lộng thần nhưng nhà vua không chấp nhận nên cáo quan về quê, lập am Bạch Vân dạy học. Ông được suy tôn là Tuyết Giang Phu Tử, Vua Mạc, Chúa Trịnh nhiều lần đến hỏi ông, ông đều mách bảo, với mục đích hạn chế chiến tranh chết chóc. Ông được nhà Mạc phong tước Trịnh Quốc Công. Trong dân gian vẫn gọi ông là Trạng Trình vì ông nói nhiều câu sấm ngữ.

- Ông để lại 700 bài thơ chữ Hán trong Bạch Vân am thi tập và 170 bài thơ chữ Nôm trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập. Nội dung thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm mang đậm chất triết lí giáo huấn, ngợi ca chí của kẻ sĩ, thú thanh nhàn, phê phán thói đời đen bạc trong xã hội.

- Bài thơ Nhàn trích trong tập Bạch Vân quốc ngữ thi tập.

II. Văn bản (SGK)

- Bài thơ là tuyên ngôn về lối sống hòa hợp với thiên nhiên, đứng ngoài vòng danh lợi, giữ cốt cách thanh tao. Đó là vẻ đẹp trong cuộc sống nhàn dật, nhân cách thanh cao, trí tuệ sáng suốt của nhà thơ.

- Nhàn là quan niệm sống của các nhà Nho thời loạn, xa lánh chỗ bon chen danh lợi, giữ cốt cách thanh cao, tâm hồn trong sạch.

1. Câu thứ nhất và nhịp điệu hai câu thơ đầu mô tả hoàn cảnh sống và tâm trạng tác giả.

- Trong câu đầu, nhà thơ dùng từ một lặp lại ba lần, cùng với các danh từ đứng sau chỉ công cụ nông ngư Một mai, một cuốc, một cần câu.

- Nhịp điệu trong hai câu thơ đầu thể hiện sự thong thả, ung dung:

Một mai/một cuốc/một cần câu,

Thơ thẩn dầu ai/vui thú nào.

- Hai câu thơ thể hiện quan niệm về cuộc sống nhàn, ung dung trong sinh hoạt hàng ngày (lao động, vui chơi); cuộc sống nghèo, thanh đạm, nhàn nhã và chan hòa cùng thiên nhiên. Ba chữ một trong câu thơ để thấy nhu cầu cuộc sống của tác giả thật khiêm tốn, bình dị.

2. Quan niệm của tác giả về dại, khôn, tác dụng của nghệ thuật đối trong câu 3, 4?

- Hai tiếng ta dại, người khôn khẳng định phương châm sống của tác giả. Dại ở đây là cái ngu dại của bậc đại trí. Người có trí tuệ lớn thường không khoe khoang, bề ngoài rất vụng về, dại dột. Cho nên khi nói ta dại thể hiện nhà thơ rất kiêu ngạo với với cuộc đời.

- Tìm nơi vắng vẻ không phải là xa lánh cuộc đời mà tìm nơi mình thích thú, sống thoải mái, hòa nhập với thiên nhiên, lánh xa chốn quan trường, lợi lộc.

- Chốn lao xao là chốn vụ lợi, chạy theo vinh hoa, lợi ích vật chất, giành giật hãm hại lẫn nhau. Nguyễn Bỉnh Khiêm chọn cách sống nhàn nhã là xa lánh không quan tâm tới danh lợi.

- Tác giả mượn lời nói của đời thường để diễn đạt quan niệm sống của mình mặc người đời cho là khôn hay dại. Nho sĩ thời loạn vẫn tìm về nơi yên tĩnh để ở ẩn.

- Đối lập giữa nơi vắng vẻ với chốn lao xao, tác giả muốn khẳng định cách sống nhàn cư ẩn dật; xa lánh chốn vinh hoa, chạy theo vật chất tầm thường. Hai vế tương phản, làm nổi bật ý nghĩa của mỗi vế.

3. Các sản vật và khung cảnh sinh hoạt trong cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

- Các sản vật và khung cảnh sinh hoạt hết sức giản dị, đạm bạc mà thanh cao, lối sống hòa nhập cùng cỏ cây hoa lá:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao?

- Nhịp thơ của hai câu là 1/3/1/2. Nhịp một nhấn mạnh vào các mùa trong năm, ăn, tắm đều thích thú, mùa nào thức ấy. Cách sống nhàn là hòa hợp với tự nhiên.

- Măng, trúc, giá, hồ sen, ao tất cả đều gần gũi với cuộc sống chất phác, sinh hoạt đạm bạc mà thanh cao. Dù sinh hoạt ấy còn khổ cực, thiếu thốn nhưng đó là thú nhàn, là cuộc sống hòa nhịp với tự nhiên của con người.

- Thú sống nhàn ẩn dật mang tính triết lí của các Nho sĩ là trong thời loạn lạc, người có nhân cách cao đẹp phải xa lánh bon chen tầm thường, tìm đến nơi yên tĩnh, vui thú cùng cỏ cây, vạn vật, an lòng với cảnh nghèo khó, sống hòa mình với thiên nhiên, vũ trụ và giữ được cốt cách thanh cao, trong sạch.

4. Nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

- Với điển tích Thuần vu, hai câu cuối của bài thơ thể hiện quan niệm sống của tác giả. Sống ẩn dật, xa lánh cuộc đời bon chen để giữ tâm hồn, cốt cách trong sạch. Với phú quý (sự giàu sang) nhà nho chỉ thấy tựa chiêm bao (như trong giấc mộng) nghĩa là có như không, rất phù phiếm, không quan trọng...

- Theo triết lí của đạo Nho, thịnh hay suy là quy luật của vũ trụ; đất nước, triều đại có lúc hưng, lúc vong. Nhà nho là người hiểu được ý Trời nên khi nào ra làm quan, khi nào về ở ẩn, tất thảy đều tuân theo mệnh Trời. Trong cả hai trường hợp, nhà nho chân chính đều tự coi mình là cao quý, họ phải giữ cho tâm hồn, cốt cách trong sạch, không bị thói đời làm hoen ố.

- Hai câu cuối cho thấy tâm hồn, nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện rõ là một kẻ sĩ thanh cao và trong sạch.

5. Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

- Quan niệm sống nhàn là cách xa lánh nơi bon chen danh lợi, để hòa hợp với thiên nhiên, giữ cho cốt cách trong sạch.

- Quan niệm sống đó có mặt tích cực nhưng cũng có mặt tiêu cực:

+ Tích cực: Không ủng hộ những thế lực xấu và thói xấu trong xã hội, giữ cho cốt cách trong sạch, thanh cao.

+ Tiêu cực: Về hành động, cách sống ẩn dật là sự xa lánh, thoát li cuộc sống hiện thực.

- Chữ nhàn trong bài thơ là nhàn nhân mà không nhàn tâm vì vẫn băn khoăn, trăn trở trước thời cuộc.