Kết thúc của cách mạng tư sản nước anh đã thiết lập được thể chế chính trị nào

Trong lịch sử thế giới, cụm từ cách mạng tư sản rất quen thuộc. Vậy, cách mạng tư sản là gì? Ý nghĩa của cách mạng tư sản như thế nào?

  • Cách mạng tư sản là gì?
  • Lực lượng của cách mạng tư sản gồm những ai?
  • Ý nghĩa của cách mạng tư sản là gì?
  • Những cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu trên thế giới

Cách mạng tư sản là gì?

Theo cách hiểu thông thường, cách mạng là một hay những cuộc biến đổi nhằm làm thay đổi lớn, theo chiều hướng tiến bộ, trong lĩnh vực nào đó. Đó có thể là sự thay đổi về quyền lực chính trị hoặc cơ cấu tổ chức diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định.

Lịch sử nhân loại ghi nhận rất nhiều cuộc cách mạng khác nhau và rất đa dạng về phương pháp, thời gian, hệ tư tưởng. Kết quả của những cuộc cách mạng là những thay đổi lớn về văn hoá, kinh tế và các thể chế chính trị xã hội.

Theo học thuyết Marx, cách mạng tư sản là cuộc cách mạng do giai cấp tư sản (còn được gọi dưới cái tên giai cấp quý tộc mới) lãnh đạo. Mục đích của cuộc cách mạng này là nhằm lật đổ chế độ phong kiến, thiết lập nền thống trị của giai cấp tư sản, mở đường cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.

Lịch sử ghi nhận cuộc cách mạng tư sản đầu tiên diễn ra vào thế kỉ thứ 16 và đến thế kỷ 20 mới kết thúc. Cách mạng tư sản đã thiết lập nền dân chủ vô sản, tạo ra những bước phát triển mạnh mẽ trong lực lượng sản xuất.

Tuy nhiên, theo nhận định của các chuyên gia, cách mạng tư sản về bản chất sâu xa vẫn là sự bóc lột. Thay vì chế độ bóc lột của tầng lớp phong kiến thì cách mạng tư sản đã thay thế bằng sự bóc lột của chế độ tư bản chủ nghĩa.

Bởi vậy, cách mạng tư sản được đánh giá là vẫn còn nhiều hạn chế vì chưa giải quyết triệt để được những vấn đề cơ bản của xã hội, vẫn là chế độ con người bóc lột con người.

Lực lượng của cách mạng tư sản gồm những ai?

Giai cấp làm cách mạng tư sản thường bao gồm: giai cấp lãnh đạo và quần chúng nhân dân. Trong đó, giai cấp lãnh đạo chính là giai cấp tư sản. Quần chúng nhân dân chủ yếu là nông dân và bình dân thành thị là lực lượng tham gia chính trong cuộc cách mạng tư sản.

Trong các cuộc cách mạng tư sản đầu tiên đã thể hiện rõ vai trò của quần chúng nhân dân. Thậm chí trong nhiều cuộc cách mạng tư sản, quần chúng cũng tham gia hăng hái và đông đảo đến mức không có sự lãnh đạo của tư sản họ vẫn nổi dậy chống chính quyền.

Tuy nhiên, cần lưu ý, mối liên minh giữa giai cấp lãnh đạo (giai cấp tư sản) và quần chúng nhân dân trong quá trình cách mạng tư sản diễn ra chỉ tồn tại trong giai đoạn nhất định. Giai cấp tư lãnh đạo thường sử dụng bạo lực của quần chúng để đạt lật đổ chế độ phong kiến, thiết lập chính quyền của giai cấp tư sản - mục đích cuối cùng của giải cấp tư sản. Sau khi đạt được mục đích họ không quan tâm đến nguyện vọng của quần chúng và quay lưng với quần chúng, đàn áp phong trào của nhân dân mà họ cho là quá khích.

Kết thúc của cách mạng tư sản nước anh đã thiết lập được thể chế chính trị nào

 

Ý nghĩa của cách mạng tư sản là gì?

Nhìn chung, cách mạng tư sản diễn ra với mục đích chính là để lật đổ chế độ phong kiến - giai cấp đang cầm quyền nhằm đưa giai cấp tư sản lên nắm quyền. Khi quyền lực rơi vào tay giai cấp tư sản, họ sẽ đưa đất nước phát triển theo con đường tư bản.

Tuy nhiên, mỗi cuộc cách mạng diễn ra ở những quốc gia khác nhau thì đều mang trong mình những mục đích cụ thể và nhiệm vụ nhất định, chẳng hạn:

- Cách mạng tư sản Anh: Nhiệm vụ chính là mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển, đem lại quyền lợi cho tầng lớp quý tộc mới và tư sản

- Cách mạng tư sản Hà Lan: Nhiệm vụ chính là lật độ sự cầm quyền của vương triều Tây Ban Nha, đưa giai cấp tư sản lên cầm quyền và mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển.

- Cách mạng tư sản Bắc Mỹ: Nhiệm vụ chính là chuẩn bị cho sự ra đời của Hợp chủng quốc Hoa Kì

- Cách mạng tư sản Pháp: Nhiệm vụ là lật đổ hoàn toàn chế độ phong kiến, đưa giai cấp tư sản lên nắm quyền và mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển.

Những cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu trên thế giới

Lịch sử thế giới ghi nhận, cách mạng tư sản của Hà Lan là cuộc cách mạng tư sản đầu tiên ở trên toàn thế giới, diễn ra vào năm 1566.
Mục đích của cuộc cách mạng này là để chống lại sự cai trị của Felipe II  - Tây Ban Nha. Năm 1648, cách mạng Hà Lan đã giành được thắng lại, và quốc gia này đã tiến lên theo con đường chủ nghĩa tư bản.

Cuộc cách mạng tư sản điển hình thứ hai trên thế giới là cách mạng tư sản của Pháp đã diễn ra từ năm 1789 đến năm 1799. Mục đích của cuộc cách mạng này là làm sụp đổ chế độ phong kiến ở Pháp và giải phóng cho toàn thể nhân dân, thiết lập được chế độ mới mà ở đó ruộng đất sẽ được chia đều cho người dân. Ngoài ra, cách mạng tư sản của Pháp đã thiết lập lên quyền bình đẳng giữa người với người.

Cuộc cách mạng tư sản của Anh đã diễn ra từ năm 1642 đến năm 1651. Do nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ quần chúng nhân dân cách mạng tư sản của nước Anh đã giành chiến thắng và góp phần dọn đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ hơn nữa.

Cách mạng tư sản ở Bắc Mỹ đã diễn ra từ năm 1765 đến năm 1783 trên 13 thuộc địa của đế quốc Anh ở khu vực Bắc Mỹ. Ngày 4/7/1776 thì bản Tuyên ngôn độc lập Mỹ đã chính chính được tuyên bố, bản Tuyên ngôn độc lập Mỹ được xem như lời tuyên bố các quyền tự do dân chủ và khẳng định nền độc lập của các thuộc địa Anh ở khu vực Bắc Mỹ.

Trên đây là giải đáp cách mạng tư sản là gì? Ý nghĩa của cách mạng tư sản là gì? Nếu còn thắc mắc, vui lòng liên hệ 

Kết thúc của cách mạng tư sản nước anh đã thiết lập được thể chế chính trị nào
 19006199 để được hỗ trợ.

Trong lịch sử phát triển của mình hình thức chính thể các nước do những cuộc cách mạng tạo nên.ở nước Anh giai cấp tư sản đã liên minh với tầng lớp quý tộc phong kiến tiến hành cuộc cách mạng tư sản lật đổ nền chuyên chế phong kiến . nhưng do những hạn chế của giai cấp lãnh đạo và cuộc cách mạng chưa mang tính triệt để. Nó vẩn duy trì những đặc quyền phong kiến và thiết lập một hình thức Nhà nước quân chủ nghị viện. còn nước Mỹ cuộc đấu tranh kiên cường của nhân dân Mỹ do giai cấp tư sản lãnh đạo đã đi đến thắng lợi và hình thành nên nhà nước Cộng hòa tổng thống. 

1. Những nét khái quát về hình thức chính thể:

Hình thức chính thể là cách thức tổ chức và trình tự để lập ra các cơ quan tối cao của nhà nước và xác lập những mối quan hệ cơ bản của các cơ quan đó.

Hình thức chính thể của nhà nước tư sản là cách thức và trình tự thành lập các cơ quan quyền lực tối cao và xác lập mối quan hệ giữa chúng.

Chính thể quân chủ là hình thức trong đó quyền lực tối cao của nhà nước tập trung toàn bộ (hay một phần) trong tay người đứng đầu nhà nước theo nguyên tắc thừa kế

Chính thể cộng hoà là hình thức trong đó quyền lực tối cao của nhà nước thuộc về cơ quan được bầu ra trong một thời gian nhất định.

2. Phân tích sự khác biệt cơ bản về hình thức chính thể của nhà nước ở Anh và Mỹ:

Ta biết rằng ở Anh và Mỹ theo hai hình thức nhà nước khác nhau nhưng cả hai hình thức đều được định hình gồm có bốn bộ phận cơ bản đó là: Hoàng đế hay Tổng thống; Nghị viện; Chính phủ; Tòa án tối cao hay Tòa án tối cao Liên bang. Tuy nhiên thì quyền hạn và chức năng của các bộ phận đó ở hai nước Anh và Mỹ có những điểm khác biệt nhất định.vậy thì sự khác biệt giữa chúng là như thế nào ?

2.1. Tổng Thống (Mỹ) hay Hoàng đế (Anh):

–   Ở Mỹ:

Tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia vừa là người đứng đầu bộ máy hành pháp lại là người có quyền hạn lớn nhất biểu hiện:

Thứ nhất Tổng thống do cử tri bầu ra theo hinh thức gián tiếp với các điều kiện theo điều 2 khoản 1 mục 5 của Hiến pháp năm 1787 “phải là công dân Hoa kỳ từ lúc sinh ra, không dưới 35 tuổi và phải trú ngụ ở Hoa kỳ ít nhất là 14 năm trước ngày bầu cử”

Thứ hai, Tổng thống có những quyền hạn rất lớn: 

Xem thêm: Chính thể là gì? Phân tích các hình thức chính thể của Nhà nước trên thế giới?

Tổng thống bổ nhiệm các bộ trưởng. 

Chính phủ là cơ quan tư vấn cho tổng thống. 

Tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang. 

Trình dự án luật và các dự án ngân sách lên nghị viện. 

Kí các điều ước quốc tế và cử các đại diện ngoại giao. 

Bổ nhiệm thẩm phán của pháp viện tối cao.

Ban bố hoặc phủ quyết các đạo luật của nghị viện. Sử dung rất nhiều quyền phủ quyết như: tuyệt đối, tương đối, lựa chọn, bỏ túi.

Kết thúc của cách mạng tư sản nước anh đã thiết lập được thể chế chính trị nào

Xem thêm: Chính thể cộng hòa là gì? Các chính thể Nhà nước cộng hòa?

Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568

Về nhiệm kì của tổng thống là 4 năm không quá 2 nhiệm kì. Từ đây ta thấy rằng Tổng thống là người có quyền lực vô hạn…”Tổng thống không những trị vì mà còn cả cai trị”. Người ta nhận xét rằng ở Mỹ ngoài hai ông Bộ trưởng Ngoại giao và Quốc phòng, không một bộ trưởng nào có một địa vị và thế lực có thể so sánh với một Thượng nghị sĩ. Do đó uy quyền và thanh thế của Tổng thống lại càng thể hiện rõ Tổng thống là người duy nhất có quyền quản lí, điều hành và cai trị đất nước.
–  Còn ở chính thể nghị viện Anh:

Hoàng Đế do thế tập truyền ngôi, người muốn lên ngôi hoàng đế phải là người nghiêm túc, trong sạch, theo nếp sống “khuôn vàng thước ngọc” của lễ giáo phong kiến, phải là người theo quốc giáo nước Anh…

Hoàng đế là một chức danh rất quan trọng nhưng hoạt động lại rất hình thức, Hoàng đế có chức năng tập trung cho sự thống nhất và vững bền của dân tộc, tượng trưng cho quốc gia, đại diện cho xứ sở. Hoàng đế là nguyên thủ quốc gia người thay mặt quốc gia và các đảng phái, là người lãnh đạo nhà thờ Anh, là trung điểm của lòng ái quốc. Khi có chiến tranh xảy ra thì Hoàng đế sẽ là người đứng lên để kêu gọi quần chúng đứng lên để bảo vệ dân tộc.

Trên thực tế thì Hoàng đế không có quyền hạn gì, biểu hiện :

– Ở Anh còn tồn tại nguyên tắc chữ kí thứ hai: các văn bản mà Hoàng đế ban hành nếu chỉ có chữ kí của Hoàng đế thì không có hiệu lực được thi hành mà phải có chữ kí kèm theo của thủ tướng hay bộ trưởng.

Ví dụ: khi ban hành một văn bản luật về lĩnh vực giáo dục,nếu chỉ có chữ kí của Hoàng đế thi không có  hiệu lực  thực  thi  mà  còn phải  có  kèm theo chữ kí của  bộ trưởng  bộ giáo dục…

– Hoàng đế không chịu trách  nhiệm trước bất cứ vấn đề gì của  nhà nước cũng như hông phải chịu trách nhiệm trước nghị viện và ngược lại.

– Hoàng đế không bao giờ sử dụng quyền phủ quyết.

Tóm lại có thể kết luận Hoàng đế tồn tại chỉ trên danh nghĩa “nhà vua trị vì, nhưng không cai trị. Chỉ tồn tại mang tính tượng trưng biểu tượng cho một dân tộc.
Giữa một bên là Hoàng đế tồn tại chỉ mang tính tượng trưng không có quyền lực gì trong tay và một bên là tổng thống với những quyền lực tối cao nắm mọi quyền hành về hành pháp. Từ đó cho thấy một điểm khác biệt cơ bản về chức năng và quyền hạn giữa nguyên thủ quốc gia của Anh và Mỹ.

2.2. Nghị viện:

Ở Anh:

Nghị viện có những quyền hạn rất lớn như: Quyền lập pháp, quyền quyết định ngân sách thuế, quyền giám sát hoạt động của nội các, bầu hoặc bãi nhiễm các thành viên của chính phủ.

Từ đó cho thấy chính vai trò và quyền hạn của nghị viện như vậy đã hạn chế tới mức tối đa quyền hạn của nhà vua, làm cho ngai vàng trở thành hư vị.

Về cơ cấu gồm có Thượng nghị viện và Hạ nghị viện:

Thứ nhất, Hạ nghị viện (Viện dân biểu) do nhân dân bầu ra, có quyền lực tối cao trong quốc gia. Những gì hạ  viện tuyên bố là  pháp  luật thì nó có  hiệu lực,  dù cho các thượng  nghị  sĩ,  nhà  vua  có  phản  bác.  Ở  Anh  Hạ  nghị  viện  là  nơi  tập  trung  của  quyền lực…Ví dụ: Bất cứ một bộ  luật nào khác, trừ dự luật tư (private bill) nếu được hạ viện thông qua ở ba khóa họp liên tiếp và chuyển tới thượng viện ít nhất một tháng trước khi khóa họp thứ ba kết thúc, đương nhiên sẽ trở thành luật, cho dù thượng viện ở khóa họp nào  cũng  bác  bỏ…Như  vậy  cho  thấy  rằng  vai  trò  và  chức  năng  của  hạ  viện  là  rất  lớn, quyền lực tối cao nằm trong tay hạ viện.

Thứ  hai, Thượng  nghị  viện (Viện  nguyên  lão):  đại  quý  tộc  mới,  không  phải  qua bầu cử mà do tầng lớp đại tư sản quý tộc cử ra. Vai trò của nó là kìm chế và đối trọng, khi có thượng viện ít nhất trong công đoạn làm luật, làm cho việc thông qua các quyết định phải được tiến hành dài hơn, với những thủ tục rườm rà, để ngăn chặn sự quá tả, vội vàng của Hạ nghị viện. Thượng nghị sĩ được hình thành từ: những quý tộc có phẩm hàm (tước vị), các thủ lĩnh tôn giáo đương nhiệm, các thủ tướng Anh hết nhiệm kì hay do đích thân Hoàng đế bổ nhiệm…

Nghị viện là cơ quan lập pháp, gồm 2 viện: Hạ nghị viện và Thượng nghị viện.

Còn ở Mỹ:

Hạ nghị viện là cơ quan dân biểu, do dân chúng các tiểu bang bầu lên. Hạ viện có chức năng lập pháp, có thể nói rằng hạ viện có những chức năng tương đối độc lập.  Ví  dụ:  hạ  nghị  viện  có  quyền  luận  tội  các  quan  chức  cấp  cao  nhất  của  nhà nước kể cả tổng thống…khi hạ viện đã ra quyết định là hôm nay sẽ họp thì dù cho tổng thống đang đi du ngoạn ở đâu cũng phải về họp…Số đại biểu của hạ viện tỉ lệ với số dân của tiểu bang, nhiệm kì của hạ viện là 2 năm.

Thượng  nghị  viện  là  cơ  quan  đại  diện  của  các  bang,  nghị  viện  cũng  có  những quyền hạn nhất định như quyền kết tội…khi là nghị sĩ của một viện thì không được bầu là nghị sĩ của viện kia và cũng không được là thành viên của  cơ quan hành pháp hay tư pháp…

Nghị Viện có quyền lớn, như quyền thông qua các đạo luật, quyền sửa đổi bổ sung dự án luật và dự án ngân sách của tổng thống, quyền tán thành hoặc không tán thành các quan chức cấp cao do tổng thống bổ nhiệm, quyền phê chuẩn hoặc bác bỏ các điều ước quốc tế do tổng thống đã kí.

Từ  trên  đây  có  thể  thấy  rằng  nếu  như  ở  Anh  quyền  lực  tối  cao  nằm  trong  tay  hạ nghị viện, hạ viện có quyền lực rất bao quát thì ở Mỹ quyền lực của hai cơ quan xuất phát từ  nguyên  tắc  đối  trọng  và  cân  bằng  quyền  lực  thì  quyền  lực  dường  như  tương  đương nhau nếu như hạ nghị viện có quyền luận tội thì thượng nghị viện có quyền kết tội. Từ đó cho thấy giữa nghị viện Anh và nghị viện Mỹ có những khác biệt nhất định tương đối rõ ràng.

2.3. Chính phủ:

Ở Anh chính phủ  là cơ quan có quyền hành pháp. Hạ nghị viện cử ra thủ tướng, vì vậy nên thủ tướng phải chịu trách nhiệm trước hạ nghị viện. Sau đó thủ tướng mới thành lập ra chính phủ. Đó là chính phủ của đảng chiếm đa số trong hạ viện. Ở Anh lập pháp và hành pháp đều nằm trong tay một đảng, hạ viện chỉ có thể bị giải tán nếu chính phủ thấy đảng của mình có đa số mỏng manh trong hạ viện, thì yêu cầu giải tán nghị viện để bầu ra hạ viện mới, nhằm kéo dài thời gian cầm quyền của mình.

Chính phủ thực sự có quyền kiểm tra điều hành cả nghị viện và Hoàng đế, có thực quyền trong cả hai lĩnh vực lập pháp và hành pháp. Chính phủ khởi thảo ra các chính sách đối nội và đối ngoại của nhà nước, bổ nhiệm các quan chức cấp cao dân sự và quân sự, ban hành các văn bản quy phạm dưới luật…Ngoài ra chính phủ còn có quyền trình dự án luật, dự án ngân sách nhà nước. Chính phủ và thủ tướng có quyền đàm phán, kí kết và tham gia tích cực vào quá trình phê chuẩn các hiệp ước quốc tế.
Thủ tướng có quyền bổ nhiệm, bãi nhiệm mọi thành viên của chính phủ. Thủ tướng có quyền yêu cầu giải tán hạ viện và tuyển cử một hạ viện mới…

Ở Mỹ thì  tổng thống chọn ra  những  người trong đảng  chiếm đa số để  lập ra  chính phủ, vì thế nên chính phủ phải chịu trách nhiệm trước tổng thống. Tổng thống có quyền bổ nhiệm, bãi miễn các thành viên của chính phủ.

2.4. Tòa án tối cao hay Tòa án Liên bang:

Ở  Anh  quyền  tư  pháp  thuộc  về  hệ  thống  Tòa án  và  chỉ  làm  công  tác  xét  xử  vì  chức năng công tố và thi hành án tuộc về chính phủ. Ở Anh không thành lập bộ tư pháp, hệ thống Tòa án dặt dưới sự lãnh đạo của chủ tịch thượng viện, hệ thống Tòa án có tính độc lập  tương  đối  cao  trong  hoạt  động  vì  Anh  là  đất  nước  của  tiền  lệ pháp  và  nguyên  tắc công bằng.

Ở Mỹ quyền tư pháp thuộc về Tòa án tối cao và các Tòa án cấp dưới do quốc hội thành lập, chức năng là xét xử và luôn độc lập với lập pháp và hành pháp trong hoạt động. Hơn thế nữa còn độc lập với cả dân chúng vì nó không được nhân dân bầu, không phải chịu trách nhiệm trước nhân dân . Tòa án tối cao Liên Bang có thẩm quyền về giải quyết các kháng  nghị về  tất cả  các  quyết định của  Tòa án  liên bang,có  quyền phân  giải việc  giải thích không đúng luật hoặc mâu thuẫn lẫn nhau của các Tòa án liên bang và các Tòa án tiểu bang, có quyền xét xử lại các vụ việc khác mà Tòa án khác đã xử.

3. Đánh giá chung:

Tóm  lại  ở  hai  hình  thức  chính  thể  quân  chủ  nghị  viện  Anh  và  cộng  hòa  tổng  thống Mỹ, ngay từ tên gọi đã thể hiện ở Anh quyền lực tập trung trong tay nghị viện còn ở Mỹ thì quyền lực tối cao nằm trong tay tổng thống. Mặt khác ,Ở Anh nguyên thủ quốc gia chỉ mang nghĩa tượng trưng không có thực quyền .Về việc phân quyền ở ba nhánh lập pháp, hành pháp, tư pháp thì ở hai nước này cũng khác nhau, đối với Anh thì quyền lập pháp và hành pháp nằm trong tay của nghị viện, thủ tướng, Tòa án tối cao nắm quyền tư pháp. Đặc biệt Hạ nghị viện là nơi tập trung quyền lực tối cao là cơ quan đại diện cho nhân dân còn ở Mỹ thì ba nhánh quyền này độc lập với nhau theo nguyên tắc “kìm chế” và “đối trọng”.

Quyền lực tối cao nằm trong tay Tổng thống theo quy định của Hiến pháp năm 1787 đã quy định, tổng thống có quyền hạn rất lớn, nghị viện nắm quyền lập pháp, thượng viện được thành lập để chia sẻ quyền lực của Hạ nghị viện, trong khi hai viện là hai đơn vị cách biệt nhau, để kiểm soát lẫn nhau.

Qua  đây  có  thể  thấy  được  sự  khác  biệt  về  hình  thức  chính  thể  của  nhà  nước  Anh  và Mỹ.sự ra đời của Hiến pháp năm 1787 đánh dấu cái mốc hoàn thành việc xây dựng nhà nước liên bang Mỹ . Đặc biệt với cách phân nhánh quyền lực theo nguyên tắc cân bằng quyền lực, “kìm chế” và “đối trọng” nên không bao giờ xảy ra tình trạng lấn quyền hay vượt quyền, chính vì vậy mà Mỹ luôn phát triển hơn các nước tư bản khác. Ngược lại thì Anh lại không phân quyền như vậy và ở Anh sử dụng Hiến pháp không thành văn nên không nói rõ ràng. Hiến pháp Mỹ năm còn 1787 đã quy định quyền lực cho từng bộ phận. Từ đó có thấy điểm khác biệt cơ bản của hai hình thức chính thể này là cách phân quyền và chức năng, quyền hạn của các cơ quan đứng đầu nhà nước.