Làm rõ nhận thức mới về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

.

Cập nhật lúc: 19:37, 25/05/2021 (GMT+7)

Thế lực thù địch thường tung những luận điệu xuyên tạc cho rằng nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) mà nước ta đang xây dựng là một nền KTTT “méo mó, không giống ai”. Thế nhưng, thực tiễn cho thấy nền KTTT tại Việt Nam mà họ tìm mọi cách phủ nhận ấy lại đang là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới.

Làm rõ nhận thức mới về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Ảnh minh họa: Sản xuất công nghiệp tại một doanh nghiệp trên địa bàn Đồng Nai. Ảnh: N.Thành

Thời điểm khó khăn do dịch Covid-19 hiện nay càng giúp chúng ta cũng như những nhà nghiên cứu kinh tế và người dân trên thế giới nhận thức rõ hơn những điểm nổi trội của nền KTTT định hướng XHCN của Việt Nam.

* KTTT tự do đầy khuyết tật

Từ khi kết thúc Chiến tranh lạnh, về tổng thể, thế giới đã chuyển hóa từ bối cảnh đối đầu giữa hai hệ thống XHCN và tư bản chủ nghĩa sang một thế giới toàn cầu hóa, chấp nhận sự đa dạng và cùng tồn tại hòa bình, hợp tác, xen lẫn cạnh tranh gay gắt trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Về cuộc khủng hoảng các mô hình phát triển kinh tế, trong chuyên luận Covid-19: Cuộc tái cấu trúc vĩ đại tại Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF), GS Klaus Schwab, nhà sáng lập và Chủ tịch điều hành WEF nhấn mạnh: Đại dịch Covid-19 đang đào sâu hơn những chia rẽ, bất bình đẳng và phân chia thế giới thành thời kỳ tiền Covid-19 và hậu Covid-19. Trong kỷ nguyên hậu Covid-19, không chỉ Mỹ mà là toàn bộ chủ nghĩa tư bản (CNTB) thế giới sẽ phải thay đổi mô hình phát triển trong trật tự thế giới đa cực. Năm 2021 là năm bản lề, năm quan trọng đối với tương lai và thế giới phải hành động để tương lai nền kinh tế và xã hội của chúng ta cần linh hoạt, bao trùm hơn và bền vững hơn; thúc đẩy quá trình chuyển đổi công nghiệp một cách có trách nhiệm; tăng cường quản trị toàn cầu, đạt tiến triển trong nỗ lực trung hòa khí thải carbon; hướng đến các hệ thống kinh tế và xã hội công bằng hơn, tạo ra đủ việc làm nhằm xây dựng một xã hội hòa nhập hơn...

Trước đó, Báo cáo trung tâm tại WEF năm 2020 cũng đã từng khuyến cáo, CNTB đang đứng trước ngã rẽ lịch sử, trong đó đã đến lúc phải đổi mới mô hình phát triển sang hướng toàn diện, có trách nhiệm xã hội hơn, giải quyết tốt hơn các vấn đề xóa đói giảm nghèo, chống tham nhũng và bảo vệ môi trường. Trong đó, các công ty tư nhân tự coi mình là người được xã hội ủy thác và hoạt động không chỉ nhằm thu được lợi nhuận kinh tế lớn mà còn phải hướng tới khắc phục hậu quả tiêu cực đối với xã hội và môi trường, đáp ứng tốt các quyền lợi hợp pháp và nhu cầu sống của người lao động.

Trên thực tế, khủng hoảng chu kỳ, sự suy thoái kinh tế cả trong quá khứ và hiện nay đã làm phơi bày mặt trái của KTTT tự do, cả về sự đầu cơ quá mức, về thất nghiệp, chênh lệch khoảng cách giàu - nghèo và những bất công xã hội.

* Mối quan hệ giữa “động cơ” và “bánh lái”

Xây dựng mô hình KTTT định hướng XHCN là phù hợp với xu hướng và yêu cầu thực tiễn phát triển KTTT trên thế giới. Bởi lẽ, thực tế đã, đang và sẽ ngày càng cho thấy, dù ở đâu và thời đại nào, dù chế độ và thể chế chính trị nào, song mọi mô hình KTTT muốn thành công đều phải ngày càng hội tụ vào mục tiêu cao nhất và xuyên suốt là vì phát triển đất nước bền vững và đáp ứng ngày càng tốt hơn khát vọng hạnh phúc cho người dân của quốc gia mình.

Không có bất kỳ mô hình kinh doanh và nhà nước nào ngoại lệ với đổ vỡ, khủng hoảng kinh tế, kể cả các cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới. Thế giới đã thấy rõ ý nghĩa, hiệu quả của việc phải kết hợp cả bàn tay nhà nước và bàn tay thị trường trong một mô hình nhà nước kiểu mới để bảo đảm tính bền vững và hạn chế những khuyết tật của KTTT.

Khi áp dụng KTTT để phát triển đất nước là Đảng ta đã sáng suốt áp dụng một thành tựu của nhân loại trong cách thức phát triển kinh tế, nhưng đồng thời gắn thêm định hướng XHCN để bảo đảm xã hội sẽ phát triển bền vững, nhân văn trong nền KTTT ấy. Đó cũng không khác gì mối quan hệ giữa “động cơ” và “bánh lái” của một con tàu.

Chúng ta không bao giờ được quên mục tiêu phát triển nền kinh tế là để làm gì. Trong bài viết Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu - nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có...”. Đó cũng chính là những luận giải để chúng ta thấy rõ hơn mục tiêu khi xây dựng nền KTTT định hướng XHCN, từ đó tạo cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.

* Một mô hình luôn được bổ sung, hoàn thiện

Để bảo đảm xây dựng nền KTTT phát triển nhưng vẫn bảo đảm định hướng XHCN, các văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định và làm rõ hơn những nét đặc thù quan trọng trong mô hình KTTT định hướng XHCN là: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước... Bảo đảm trên hết và trước hết lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng - an ninh là trọng yếu, thường xuyên.

Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng mô hình KTTT định hướng XHCN là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Nền KTTT định hướng XHCN sẽ được hoàn thiện trong một quá trình dài và việc văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định “bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước” là cần thiết, tạo sự linh hoạt và vận dụng hiệu quả nguyên tắc “dĩ bất biến ứng vạn biến” trong chỉ đạo, điều hành thực tiễn của Đảng trước mọi biến động nhanh, khó lường của thế giới.

Về phát triển kinh tế thời gian tới theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng, các cơ quan chức năng đang tiếp tục xem xét, bổ sung và làm rõ hơn cơ chế quản lý nhà nước. Trong đó, quản lý nhà nước phải phù hợp với các yêu cầu, quy luật và quy trình của KTTT, cũng như với các điều khoản hội nhập quốc tế mà Việt Nam đã cam kết.

Đặc biệt, chức năng nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước đang từng bước được bổ sung, làm rõ hơn, bao gồm việc chủ động dự báo và ngăn chặn, xử lý các khuyết tật, tác động mặt trái và khủng hoảng chu kỳ, vốn thuộc bản chất của KTTT (như chạy theo lợi nhuận đơn thuần, cạnh tranh thiếu lành mạnh, phân hóa giàu nghèo và coi nhẹ các vấn đề y tế, môi trường, xã hội...); nâng cao chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của nền kinh tế và doanh nghiệp; phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ; cải thiện ô nhiễm môi trường và quản lý, điều tiết thị trường, khoảng cách giàu - nghèo và chất lượng giáo dục, chăm sóc y tế và nhiều dịch vụ công ích khác…

Trong quá trình xây dựng KTTT định hướng XHCN ở nước ta, Đảng ta luôn mang tinh thần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc những thành tựu mới của nhân loại để nền KTTT định hướng XHCN của chúng ta luôn tươi mới, luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống.

Từ thực tiễn trong nước và quốc tế những năm qua, có thể thấy việc xây dựng nền KTTT định hướng XHCN là phù hợp với thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đây là vấn đề có tính nền tảng mà mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân cần hiểu đúng, để xây chắc niềm tin.

Các cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, khủng hoảng năng lượng, lương thực, các vấn đề nóng bỏng về biến đổi khí hậu, mất đa dạng sinh học, ô nhiễm môi trường, an ninh phi truyền thống và dịch bệnh... đã và đang diễn ra dày đặc hơn chứng minh tính không bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái của thế giới hiện hành nói chung, của KTTT tự do của CNTB nói riêng.

Theo QĐND.VN

Nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa qua những năm đổi mới

Ngày phát hành: 22/03/2019 Lượt xem 43006

Đại hội VI của Đảng (1986) mở ra thời kỳ đổi mới đất nước, đã phê phán sâu sắc các quan điểm chủ trương giáo điều, chủ quan, nóng vội, duy ý chí, không tôn trọng quy luật khách quan trong đường lối phát triển kinh tế đất nước nhiều năm trước. Đại hội đề ra đường lối đổi mới để đưa đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế -xã hội. Tuy nhiên, ở thời điểm này, quan điểm của Đảng tập trung vào tháo gỡ những rào cản, những yếu tố trực tiếp cản trở, kìm hãm sản xuất để giải phóng sức sản xuất; quan điểm về phát triển nền kinh tế thị trường mới manh nha ở những ý tưởng ban đầu. Đại hội đề ra đường lối phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, trên cơ sở “củng cố thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa” và “sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác”[1], khẳng định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội đề ra chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, xóa bỏ cơ chế kế hoạch tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế quản lý kinh tế mới “lấy kế hoạch hóa làm trung tâm”, “tính kế hoạch là đặc trưng số một của cơ chế quản lý kinh tế mới”; đồng thời “sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa-tiền tệ là đặc trưng thứ hai của cơ chế mới về quản lý”, “đòi hỏi sản xuất phải gắn với thị trường, mọi hoạt động kinh tế phải so sánh chi phí với hiệu quả”[2], “mở rộng giao lưu hàng hóa, xóa bỏ tình trạng ngăn sông, cấm chợ, chia cắt thị trường theo địa giới hành chính”, “thi hành chính sách một giá, đó là giá kinh doanh thương nghiệp”[3].

Làm rõ nhận thức mới về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Đại hội VII của Đảng (1991) đã hình thành quan điểm về phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội xác định “Tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế”[4], khẳng định “phát huy thế mạnh của các thành phần kinh tế, vừa cạnh tranh, vừa hợp tác, bổ sung cho nhau trong nền kinh tế quốc dân thống nhất”[5], “cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác”[6]. Trong cơ chế đó, “thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương thức sản xuất kinh doanh có hiệu quả”[7]. Đại hội còn chủ trương “từng bước hình thành và mở rộng đồng bộ các thị trường hàng tiêu dùng, tư liệu sản xuất, dịch vụ, thị trường vốn và tiền tệ, thị trường ngoại hối, thị trường sức lao động… xây dựng thí điểm thị trường chứng khoán khi có điều kiện”[8]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội XI thông qua xác định “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu”[9].

Đại hội VIII của Đảng (1996) tiếp tục khẳng định chủ trương “phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”[10] và khẳng định “sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”[11]. Đại hội chủ trương đổi mới kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác xã, thực hiện “cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả”, “phát triển kinh tế hợp tác với nhiều hình thức đa dạng, từ thấp đến cao…, tổ chức thêm cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên, phân phối theo kết quả lao động và theo cổ phần”[12]. Thị trường được xác định “vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch”; kế hoạch được xác định “chủ yếu mang tính định hướng”[13]. Vai trò của nhà nước và quan hệ phân phối được thể hiện rõ và đầy đủ hơn: “Nhà nước quản lý thị trường bằng pháp luật, kế hoạch, cơ chế, chính sách, các công cụ đòn bẩy kinh tế và bằng nguồn lực của khu vực kinh tế nhà nước”[14], “thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp của các nguồn lực khác và phân phối thông qua quỹ phúc lợi xã hội”[15]. Cùng với việc tiếp tục phát triển đồng bộ các loại thị trường, Đại hội còn chủ trương “xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới”[16], “thị trường trong nước gắn với thị trường thế giới”[17].

Đại hội IX của Đảng (2001) lần đầu tiên xác định “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”[18] và “đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”[19]. Đại hội xác định “mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”[20], “phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững; tăng trưởng kinh tế gắn liền với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường thiên nhiên; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh”[21]; và chủ trương “sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường”[22].

Đại hội X của Đảng (2006) nêu rõ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là để “thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”[23]. Đại hội khẳng định “Quyền sở hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo hộ”, mọi công dân có quyền bình đẳng trong đầu tư kinh doanh, tiếp cận cơ hội, nguồn lực kinh doanh”[24] và lần đầu tiên xác định “kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế. Doanh nghiệp cổ phần ngày càng phát triển, trở thành hình thức tổ chức kinh tế phổ biến, thúc đẩy xã hội hóa sản xuất kinh doanh và sở hữu”[25]. Để nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước, Đại hôi yêu cầu “Tách chức năng quản lý hành chính nhà nước khỏi chức năng quản lý kinh doanh của doanh nghiệp, xóa bỏ “chế độ chủ quản”; tách hệ thống cơ quan hành chính công khỏi hệ thống cơ quan sự nghiệp”[26]…

Đại hội XI của Đảng (2011) xác định hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một trong ba đột phá chiến lược để phát triển đất nước. Đại hội chỉ rõ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa “là một hình thức kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”[27] và yêu cầu “hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và hiện đại”[28]. Đối với kinh tế tư nhân, Đại hội chủ trương “Tạo điều kiện hình thành một số tập đoàn kinh tế tư nhân và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước”[29]. Về hội nhập kinh tế quốc tế, Đại hội chủ trương “Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, đồng thời giữ vững, tăng cường tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế”[30]. Tiếp tục đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế, Đại hội yêu cầu “Phân định rõ hơn chức năng quản lý kinh tế của nhà nước và chức năng của tổ chức kinh doanh vốn và tài sản của nhà nước”[31], “nghiên cứu hình thành các tổ chức quản lý đầu tư, kinh doanh có hiệu quả các nguồn vốn, tài sản của nhà nước, khắc phục tình trạng bộ máy quản lý hành chính tham gia trực tiếp vào các hoạt động kinh doanh thông qua các mệnh lệnh hành chính”[32]. Đại hội đã đưa vào Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) quan điểm “phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” và xác định đây là một trong tám phương hướng cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Tổng kết 30 năm đổi mới đất nước, Đại hội XII của Đảng thể hiện những nhận thức mới nhất, đầy đủ nhất (cho đến hiện nay) về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội xác định nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam “là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước, là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”[33]; “trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường”[34]. Đại hội yêu cầu “Hoàn thiện thể chế bảo vệ nhà đầu tư, quyền sở hữu, quyền tài sản; hoàn thiện pháp luật phá sản doanh nghiệp theo cơ chế thị trường”[35]; đổi mới tổ chức, quản lý doanh nghiệp nhà nước phù hợp với chuẩn mực quốc tế; chủ động lựa chọn dự án đầu tư nước ngoài có công nghệ hiện đại, liên kết với doanh nghiệp trong nước, có vị trí trong chuỗi giá trị toàn cầu; phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường, “thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường”, “không lồng ghép các chính sách xã hội trong giá”[36], thực hiện cơ chế đấu thầu, đấu giá, thẩm định giá; “tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của nhà nước và chức năng quản lý nhà nước. Xóa bỏ chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước của các bộ, ủy ban nhân dân đối với vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp. Thành lập một cơ quan chuyên trách làm đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước”[37]

Làm rõ nhận thức mới về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Tổng hợp lại: Trong hơn 30 năm đổi mới, nhận thức, quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã từng bước hình thành, được bổ sung, phát triển ngày càng hoàn thiện, phù hợp với quy luật khách quan, thực tiễn của đất nước và xu hướng chung của thế giới, của thời đại. Cụ thể là:

- Nhận thức chung về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ nhận thức, quan điểm phủ nhận kinh tế thị trường, xem kinh tế thị trường là đặc trưng riêng có của chủ nghĩa tư sản, đối lập kinh tế thị trường với chủ nghĩa xã hội, Đảng đã từng bước thừa nhận sự tồn tại khách quan, tất yếu, cần thiết của kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Quá trình này kéo dài 15 năm, từ Đại hội VI đến Đại hội IX của Đảng, đi từ thừa nhận, cho phép tồn tại, phát triển nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế đến thừa nhận phát triển nền kinh tế hàng hóa; từ xác định đó là nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch, kế hoạch là “tính thứ nhất”, hàng hóa là “tính thứ hai” của nền kinh tế, tới xác định đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thừa nhận cơ chế thị trường, nhưng chưa thừa nhận kinh tế thị trường. Chỉ đến Đại hội IX của Đảng (năm 2001), 15 năm sau khi bắt đầu sự nghiệp đổi mới, Đảng mới xác định nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cho rằng kinh tế thị trường là sản phẩm chung của văn minh nhân loại; trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở một nước nghèo, kinh tế kém phát trển, chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa như nước ta, nhất định phải phát triển nền kinh tế thị trường, sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được Đảng xác định là mô hình kinh tế tổng quát ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Những đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng được nhận thức ngày càng rõ, được bổ sung, phát triển ngày càng hoàn thiện qua các nhiệm kỳ Đại hội Đảng. Đại hội XII của Đảng thể hiện rõ, đầy đủ nhất (đến thời điểm hiện nay) quan điểm của Đảng ta về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường; đồng thời, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

- Nhận thức về vai trò và chủ trương phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ chỗ thừa nhận, cho phép tồn tại, phát triển hai hình thức sở hữu toàn dân (nhà nước) và tập thể về tư liệu sản xuất, hai thành phần kinh tế là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, Đảng đã thừa nhận sự tồn tại, khuyến khích phát triển nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Quyền sở hữu, quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh được bảo vệ. Các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế được khẳng định tồn tại lâu dài, là yêu cầu khách quan, tất yếu, là đặc trưng của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều tự chủ, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng theo pháp luật.

Đối với kinh tế tư nhân, từ chủ trương phát triển kinh tế hộ gia đình trong nông nghiệp, Đảng ta thừa nhận sự tồn tại lâu dài, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân trong các lĩnh vực, các ngành kinh tế, rồi đi tới xác định kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một động lực của nền kinh tế. Hiện nay, kinh tế tư nhân được xác định là một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Doanh nghiệp tư nhân được kinh doanh ở mọi ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Nhà nước tạo điều kiện, khuyến khích hình thành, phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân và tư nhân góp vốn, mua cổ phần của các tập đoàn kinh tế nhà nước. Cùng với phát triển kinh tế tư nhân trong nước, Đảng chủ trương thu hút mạnh đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), thu hút vốn, công nghệ, phương pháp quản lý hiện đại, mở rộng thị trường xuất, nhập khẩu để phát triển kinh tế. Trong những năm gần đây, việc thu hút đầu tư nước ngoài yêu cầu phải được chọn lọc, ưu tiên thu hút những dự án đầu tư có trình độ công nghệ cao, thân thiện với môi trường, có liên kết, chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp trong nước, tạo cơ hội cho doanh nghiệp trong nước tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu.

Làm rõ nhận thức mới về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Kinh tế nhà nước được xác định có vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể từng bước trở thành nền tảng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đồng thời, Đảng yêu cầu phải tăng cường quản lý tài sản công, các nguồn lực nhà nước (đất đai, tài nguyên, vốn nhà nước); cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả đầu tư công và đẩy mạnh sắp xếp lại, đổi mới, nâng cao hiệu quả các doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước được yêu cầu sắp xếp lại, đổi mới bằng việc cho giải thể, phá sản, bán lại tài sản đối với các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, ở những lĩnh vực không cần thiết phải có doanh nghiệp nhà nước; thoái vốn khỏi những ngành, lĩnh vực có hiệu quả thấp, không phải là lĩnh vực kinh doanh chính của doanh nghiệp; chuyển doanh nghiệp nhà nước thành các công ty trách nhiệm hữu hạn và nhất là đẩy mạnh cổ phần hóa để trở thành các công ty cổ phần có vốn nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, trong những năm gần đây, được cơ cấu lại, định hướng tập trung vào các ngành, lĩnh vực then chốt, thiết yếu, những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh. Tổ chức bộ máy và phương thức quản lý, quản trị doanh nghiệp được đổi mới phù hợp với cơ chế thị trường, các thông lệ, chuẩn mực quốc tế. Tách bạch nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và nhiệm vụ chính trị công ích.

Đối với các tổ chức kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác, Đảng chủ trương đổi mới cả về tổ chức và phương thức hoạt động phù hợp với cơ chế thị trường. Các hợp tác xã phải hình thành trên cơ sở liên kết tự nguyện của các thành viên, làm chức năng cung cấp dịch vụ cho các thành viên, hỗ trợ cho các thành viên trong vay vốn, ứng dụng tiến bộ khoa học-công nghệ, tiêu thụ sản phẩm… để giảm chi phí, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đối với các đơn vị sự nghiệp công, Đảng chủ trương đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động, chuyển sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tổ chức bộ máy, biên chế, về tài chính và thực hiện xã hội hóa lĩnh vực dịch vụ công, thu hút các thành phần kinh tế tham gia vào lĩnh vực này.

- Nhận thức về phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường. Từ chỗ tất cả giá cả sản phẩm hàng hóa mua bán, lưu thông đều do Nhà nước quyết định, khi chuyển sang phát triển kinh tế hàng hóa, ban đầu, Đảng chủ trương thực hiện cơ chế hai giá, một giá vẫn do Nhà nước quyết định (đối với một số hàng hóa có ảnh hưởng, tác động lớn đến sản xuất và đời sống nhân dân) và một giá do người sản xuất, kinh doanh quyết định (đối với các hàng hóa do họ sản xuất kinh doanh). Sau đó, cùng với phát triển kinh tế thị trường, giá cả cũng được chuyển sang thực hiện theo cơ chế thị trường đối với hầu hết các hàng hóa, chỉ trừ một số hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực độc quyền nhà nước (điện, xăng dầu,…) và dịch vụ xã hội cơ bản như y tế, giáo dục. Các quyền tự do kinh doanh, tự do lưu thông hàng hóa, cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thực hiện. Cơ chế đấu thầu, đấu giá, thẩm định giá được mở rộng. Phạm vi giá cả hàng hóa do nhà nước quy định ngày càng thu hẹp. Các tổ chức sự nghiệp công lập được chuyển sang cơ chế tự chủ và việc cung cấp các dịch vụ công được xã hội hóa; giá các dịch vụ xã hội cơ bản, như y tế, giáo dục cũng từng bước chuyển sang cơ chế thị trường, không lồng ghép các chính sách xã hội trong giá; chuyển từ cơ chế cấp phát sang cơ chế đặt hàng, từ hỗ trợ cho đơn vị cung cấp dịch vụ sang hỗ trợ trực tiếp cho đối tượng hưởng thụ.

Đảng chủ trương phát triển đồng bộ, theo hướng hiện đại, vận hành thông suốt các loại thị trường. Phát triển thị trường hàng hóa, dịch vụ đa dạng, theo các phương thực giao dịch, mua bán ngày càng hiện đại (sàn giao dịch, siêu thị, thương mại điện tử,…), bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng, nhất là về giá cả, chất lượng hàng hóa, vệ sinh an toàn thực phẩm, các dịch vụ bảo hành, bảo dưỡng sau bán hàng; bảo vệ thị trường trong nước, không để nước ngoài thâu tóm. Phát triển thị trường tài chính đồng bộ, có cơ cấu hoàn chỉnh, cả thị trường tài chính, thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán, thị trường cổ phiếu, trái phiếu, các công cụ tài chính phái sinh, thị trường cho thuê tài sản, mua bán nợ, thị trường các dịch vụ kế toán, kiểm toán, thẩm định giá, tư vấn thuế… Cơ cấu lại thị trường tài chính, bảo đảm lành mạnh hóa hệ thống tài chính, tiền tệ, ổn định kinh tế vĩ mô, đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Phát triển thị trường bất động sản, bao gồm quyền sử dụng đất và bất động sản gắn liền với đất, làm cho đất đai trở thành nguồn vốn quan trọng cho phát triển; yêu cầu việc phân bổ và sử dụng đất đai phải theo quy hoạch, kế hoạch, thông qua đấu thầu, đấu giá cạnh tranh để sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả. Phát triển thị trường sức lao động; thực hiện rộng rãi chế độ hợp đồng lao động; đa dạng hóa các hình thức giao dịch việc làm, phát triển hệ thống thông tin về thị trường lao động, bảo đảm quyền lợi của cả người lao động và sử dụng lao động; hoàn thiện chính sách tiền công, tiền lương, bảo hiểm, các thiết chế hòa giải, giải quyết tranh chấp lao động. Phát triển mạnh mẽ và đồng bộ thị trường khoa học - công nghệ. Chuyển các tổ chức nghiên cứu và phát triển công nghệ sang cơ chế tự chủ; có chính sách hỗ trợ để khuyến khích các tổ chức, cá nhân, nhất là doanh nghiệp, đầu tư nghiên cứu, phát triển, chuyển giao công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất kinh doanh. Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về công nghệ. Tăng cường thông tin về các sản phẩm khoa học công nghệ; thành lập các tổ chức tư vấn, thẩm định, xác định giá trị để các sản phẩm khoa học công nghệ được mua bán thuận lợi trên thị trường, gắn với bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.

- Nhận thức về mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ chỗ không được thừa nhận, rồi được xem chỉ là yếu tố hỗ trợ cho kế hoạch, vai trò, chức năng của thị trường được nhận thức ngày càng đầy đủ; thị trường được xác định đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ các nguồn lực, xác định giá cả, điều tiết hoạt động của doanh nghiệp, lưu thông của hàng hóa, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực của Nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, đồng thời phải phù hợp với cơ chế thị trường. Từ chỗ Nhà nước làm tất cả, vừa quản lý kinh tế nhà nước, vừa trực tiếp quản lý sản xuất kinh doanh, nhận thức về vai trò, chức năng của Nhà nước từng bước được đổi mới, yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường là xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường thuận lợi, công khai, minh bạch, thông thoáng, cạnh tranh bình đẳng, cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư, phát triển; sử dụng các công cụ luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các nguồn lực của nhà nước để ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng và điều tiết kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ tài nguyên môi trường; phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội; củng cố quốc phòng, an ninh, mở rộng đối ngoại. Quản lý kinh tế của Nhà nước tách khỏi quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Quản lý kinh tế của Nhà nước tôn trọng, tạo điều kiện cho cơ chế thị trường hoạt động, đồng thời hạn chế những tiêu cực của nó. Cùng với nhận thức và giải quyết mối quan hệ Nhà nước và thị trường, vai trò của chủ thể xã hội được coi trọng. Quyền làm chủ của nhân dân, vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội đối với lĩnh vực kinh tế được luật pháp quy định; mở rộng thu thập ý kiến đánh giá của nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp đối với việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội được nhận thức, xử lý ngày càng phù hợp hơn với yêu cầu của các nền kinh tế thị trường hiện đại trên thế giới.

- Nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế. Nhận thức của Đảng đã phát triển từ mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế tới chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; từ đẩy mạnh các hoạt động xuất nhập khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài tới ký kết các hiệp định thương mại, đầu tư song phương, đa phương, tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác cụ thể; kết hợp hiệu quả ngoại lực và nội lực; nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, tiềm lực của các doanh nghiệp trong nước; gắn hội nhập quốc tế với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Hệ thống luật pháp, chính sách được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với đòi hỏi và thực thi có hiệu quả các cam kết quốc tế, tận dụng các cơ hội, phòng ngừa, giảm thiểu các tác động tiêu cực từ bên ngoài, xử lý các tranh chấp quốc tế về thương mại, đầu tư; đồng thời tích cực tham gia vào xây dựng các quy tắc thương mại, đầu tư quốc tế.

Làm rõ nhận thức mới về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

- Nhận thức về định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường. Định hướng xã hội chủ nghĩa là yêu cầu được Đảng đặt ra ngay từ khi xác định nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần (Đại hội VII) và nền kinh tế thị trường (Đại hội IX). Tuy nhiên, nhận thức về những yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa cũng chỉ được hoàn thiện từng bước. Đến hiện nay (Đại hội XII), những yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường là: có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt, là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế; Thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo; phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội.

- Nhận thức về yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng cần phải nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chủ trương phát triển kinh tế - xã hội; đẩy mạnh, nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, vận động, tạo sự đồng thuận trong Đảng và trong xã hội để thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối của Đảng; tăng cường lãnh đạo việc thể chế hóa, tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát việc thực hiện; đào tạo, bồi dưỡng, bố trí đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong lĩnh vực kinh tế; kiên quyết đấu tranh đẩy lùi tham nhũng, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ, công chức. Nhà nước cần phải thể chế hóa và thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối phát triển kinh tế của Đảng. Nâng cao chất lượng ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế; giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực kinh tế của Nhà nước. Đổi mới phương thức quản lý của Nhà nước phù hợp với nền kinh tế thị trường. Đổi mới, cơ cấu lại tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm; đẩy mạnh cải cách hành chính, phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương. Đẩy mạnh cải cách tư pháp. Nâng cao năng lực, hiệu quả giải quyết tranh chấp dân sự, kinh doanh, đầu tư, thương mại. Xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về kinh tế. Bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế./.

PGS.TS Nguyễn Văn Thạo

Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương



[1], 2, 3 Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Hà Nội, Nxb CTQG, 2005, tr.44, 65, 71, 73.

[4], 5, 6, 7 Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Hà Nội, Nxb CTQG, 2005, tr.273, 274.

8, [9] Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Hà Nội, Nxb CTQG, 2005, tr.276, 317.

[10], 11, 12, 13, 14 Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Hà Nội, Nxb CTQG, 2005, tr.468, 481, 479, 480, 482.

15, 16, 17 Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Hà Nội, Nxb Sự thật, 2005, tr.477, 470, 481.

[18], 19, 20 Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Hà Nội, Nxb Sự thật, 2005, tr.635, 637, 636.

21, 22 Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Hà Nội, Nxb Sự thật, 2005, tr. 638, 636-637.

23, 24, 25, 26 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Hà Nội, Nxb CTQG, 2006, tr.77, 86, 83, 79.

[27], 28, 29, 30 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Hà Nội, Nxb CTQG, 2011, tr.205, 107, 209, 205.

[31], 32 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Hà Nội, Nxb CTQG, 2011, tr.215, 207.

[33], 34, 35, 36, 37 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Hà Nội, VPTW, 2016, tr.102, 103, 105, 106, 109.