Luật phòng chống tham nhũng hiện hành quy định bao nhiêu hành vi tham nhũng trong khu vực nhà nước?

Tham nhũng là gì? Các hành vi tham nhũng [Ảnh minh họa]

1. Tham nhũng là gì?

Theo khoản 1 Điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng 2018, tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi.

Trong đó:

- Người có chức vụ, quyền hạn là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do tuyển dụng, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó, bao gồm:

+ Cán bộ, công chức, viên chức;

+ Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật, công nhân công an trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân;

+ Người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp;

+ Người giữ chức danh, chức vụ quản lý trong doanh nghiệp, tổ chức;

+ Những người khác được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ và có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó.

- Vụ lợi là việc người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn nhằm đạt được lợi ích vật chất hoặc lợi ích phi vật chất không chính đáng.

2. Các hành vi tham nhũng

- Các hành vi tham nhũng trong khu vực nhà nước do người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước thực hiện bao gồm:

+ Tham ô tài sản;

+ Nhận hối lộ;

+ Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản;

+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi;

+ Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi;

+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi;

+ Giả mạo trong công tác vì vụ lợi;

+ Đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi;

+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản công vì vụ lợi;

+ Nhũng nhiễu vì vụ lợi;

+ Không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi;

+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.

- Các hành vi tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước do người có chức vụ, quyền hạn trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước thực hiện bao gồm:

+ Tham ô tài sản;

+ Nhận hối lộ;

+ Đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của doanh nghiệp, tổ chức mình vì vụ lợi.

- Cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước bao gồm cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và tổ chức, đơn vị khác do Nhà nước thành lập, đầu tư cơ sở vật chất, cấp phát toàn bộ hoặc một phần kinh phí hoạt động, do Nhà nước trực tiếp quản lý hoặc tham gia quản lý nhằm phục vụ nhu cầu phát triển chung, thiết yếu của Nhà nước và xã hội.

- Doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước là doanh nghiệp, tổ chức không thuộc trường hợp trên

[Điều 2, khoản 9, 10 Điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng 2018; khoản 3 Điều 217 Luật Doanh nghiệp 2020]

Diễm My

Nội dung nêu trên là phần giải đáp, tư vấn của chúng tôi dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc, vui lòng gửi về Email .

Mục lục bài viết

  • 1.Định nghĩa tham nhũng là gì ?
  • 2. Những đặc trưng cơ bản của tham nhũng
  • 3. Các hành vi tham nhũng theo quy định của pháp luật hiện hành
  • 4.Tham nhũng gây ra những tác hại nào?
  • 5.Nguyên nhân gây ra tham nhũng là gì?

1.Định nghĩa tham nhũng là gì ?

Theo nghĩa rộng, tham nhũng đƣợc hiểu là hành vi của bất kỳ ngƣời nào có chức vụ, quyền hạn hoặc đƣợc giao nhiệm vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc nhiệm vụ đƣợc giao để vụ lợi. Theo Từ điển Tiếng Việt, tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu nhân dân lấy của1 . Tài liệu hƣớng dẫn của Liên hợp quốc về cuộc đấu tranh quốc tế chống tham nhũng [năm 1969] định nghĩa tham nhũng trong một phạm vi hẹp, đó là sự lợi dụng quyền lực nhà nước để trục lợi riêng... Theo nghĩa hẹp và là khái niệm đƣợc pháp luật Việt Nam quy định [tại Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005], tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi2 . Ngƣời có chức vụ, quyền hạn chỉ giới hạn ở những ngƣời làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc hệ thống chính trị; nói cách khác là ở các cơ quan, tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân sách, vốn, tài sản của Nhà nƣớc. Việc giới hạn nhƣ vậy nhằm tập trung đấu tranh chống những hành vi tham nhũng ở khu vực xảy ra phổ biến nhất, chống có trọng tâm, trọng điểm, thích hợp với việc áp dụng các biện pháp phòng, chống tham nhũng nhƣ: kê khai tài sản, công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị, xử lý trách nhiệm của ngƣời đứng đầu.

2. Những đặc trưng cơ bản của tham nhũng

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tham nhũng có những đặc trƣng cơ bản nhƣ sau: a] Chủ thể tham nhũng là người có chức vụ, quyền hạn Đặc điểm của tham nhũng là chủ thể thực hiện hành vi phải là ngƣời có chức vụ, quyền hạn. Ngƣời có chức vụ, quyền hạn bao gồm: cán bộ, công chức, viên chức; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn - kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nƣớc; cán bộ lãnh đạo, quản lý là ngƣời đại diện phần vốn góp của Nhà nƣớc tại doanh nghiệp; ngƣời đƣợc giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó [khoản 3, Điều 1, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005]. Nhìn chung, nhóm đối tƣợng này có đặc điểm đặc thù so với các nhóm đối tƣợng khác nhƣ: họ thƣờng là những ngƣời có quá trình công tác và cống hiến nên có nhiều kinh nghiệm; đƣợc đào tạo có hệ thống, là những chuyên gia trên nhiều lĩnh vực khác nhau; là những ngƣời có quan hệ rộng và có uy tín xã hội nhất định và thậm chí có thế mạnh về kinh tế. Những đặc điểm này của chủ thể hành vi tham nhũng chính là yếu tố gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, xét xử hành vi tham nhũng. b] Chủ thể tham nhũng lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” để vụ lợi là đặc trƣng thứ hai của tham nhũng. Khi thực hiện hành vi tham nhũng, kẻ tham nhũng phải sử dụng “chức vụ, quyền hạn của mình” nhƣ một phƣơng tiện để mang lại lợi ích cho mình, cho gia đình mình hoặc cho ngƣời khác. Đây là yếu tố cơ bản để xác định hành vi tham nhũng. Một ngƣời có chức vụ, quyền hạn nhƣng không lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó thì không thể có hành vi tham nhũng. Tuy nhiên, không phải mọi hành vi của ngƣời có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó đều đƣợc coi là hành vi tham nhũng. Ở đây có sự giao thoa giữa hành vi này với các hành vi tội phạm khác, do vậy cần lƣu ý khi phân biệt hành vi tham nhũng với các hành vi vi phạm pháp luật khác. c] Mục đích của hành vi tham nhũng là vụ lợi Hành vi tham nhũng là hành vi cố ý. Mục đích của hành vi tham nhũng là vụ lợi. Nếu chủ thể thực hiện hành vi không cố ý thì hành vi đó không là hành vi tham nhũng. Vụ lợi ở đây đƣợc hiểu là lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần mà ngƣời có chức vụ, quyền hạn đã đạt đƣợc hoặc có thể đạt đƣợc thông qua hành vi tham nhũng. Nhƣ vậy, khi xử lý về hành vi tham nhũng, không bắt buộc chủ thể tham nhũng phải đạt đƣợc lợi ích. Pháp luật Việt Nam hiện nay quy định việc đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi tham nhũng chủ yếu dựa trên căn cứ xác định những lợi ích vật chất mà kẻ tham 14 nhũng đạt đƣợc để từ đó quyết định mức độ xử lý. Lợi ích vật chất hiện nay trong cơ chế thị trƣờng thể hiện ở rất nhiều dạng khác nhau, nếu chỉ căn cứ vào những tài sản phát hiện hoặc thu hồi đƣợc để đánh giá lợi ích mà kẻ tham nhũng đạt đƣợc thì sẽ là không đầy đủ. Thêm nữa, các lợi ích vật chất và tinh thần đan xen rất khó phân biệt; ví dụ nhƣ: việc dùng tài sản của Nhà nƣớc để khuyếch trƣơng thanh thế, gây dựng uy tín hay các mối quan hệ để thu lợi bất chính. Trong trƣờng hợp này, mục đích của hành vi vừa là lợi ích vật chất, vừa là lợi ích tinh thần... Đối với khu vực tƣ, khi có vụ việc tham nhũng xảy ra, pháp luật đã có những sự điều chỉnh nhất định. Tuy nhiên, cũng có trƣờng hợp, ngƣời có chức vụ, quyền hạn trong các tổ chức, doanh nghiệp thuộc khu vực tƣ cấu kết, móc nối với những ngƣời thoái hoá, biến chất trong khu vực công hoặc lợi dụng ảnh hưởng của những ngƣời này để trục lợi. Trong trƣờng hợp đó, họ trở thành đồng phạm khi ngƣời có hành vi tham nhũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

3. Các hành vi tham nhũng theo quy định của pháp luật hiện hành

Bộ luật hình sự, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 đã phân loại tham nhũng theo hành vi. Theo đó, những hành vi sau đây thuộc nhóm hành vi tham nhũng: - Tham ô tài sản. - Nhận hối lộ. - Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản. - Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi. - Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi. - Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hƣởng với ngƣời khác để trục lợi. - Giả mạo trong công tác vì vụ lợi. - Đƣa hối lộ, môi giới hối lộ đƣợc thực hiện bởi ngƣời có chức vụ, quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phƣơng vì vụ lợi. - Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nƣớc vì vụ lợi. - Nhũng nhiễu vì vụ lợi. - Không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi. - Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho ngƣời có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi. Trong 12 hành vi tham nhũng nêu trên, có 7 hành vi đã đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999; được sửa đổi, bổ sung ngày năm 2009 và có hiệu lực từ ngày 1-1-2010, bao gồm: - Tham ô tài sản: là lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý. - Nhận hối lộ: là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dƣới bất kỳ hình thức nào để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của ngƣời đƣa hối lộ - Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.

- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi: là việc cá nhân vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nƣớc, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân - Lạm quyền trong khi thi hành công vụ: là cá nhân vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà vượt quá quyền hạn của mình làm trái công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. - Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hƣởng đối với ngƣời khác để trục lợi: là việc cá nhân lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dƣới bất kỳ hình thức nào, gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, để dùng ảnh hƣởng của mình thúc đẩy ngƣời có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc thuộc trách nhiệm hoặc liên quan trực tiếp đến công việc của họ hoặc làm một việc không được phép làm - Giả mạo trong công tác: là cá nhân vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong các hành vi sau đây: + Sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, tài liệu; + Làm, cấp giấy tờ giả; + Giả mạo chữ ký của ngƣời có chức vụ, quyền hạn1 . Hành vi thứ 8 đến hành vi thứ 12 mới đƣợc bổ sung do đây là những hành vi đã phát sinh và đang trở nên phổ biến trên thực tế, cần đƣợc quy định cụ thể làm cơ sở pháp lý cho việc xử lý. So với những hành vi tham nhũng tại Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998 và các tội phạm về tham nhũng trong Bộ luật hình sự năm 1999; được sửa đổi, bổ sung năm 2009 thì Luật phòng, chống tham nhũng có bổ sung 5 hành vi tham nhũng mới. Đây là những hành vi xuất hiện ngày càng phổ biến trong thời gian gần đây. Việc quy định thêm 5 loại hành vi mới này là cần thiết và là cơ sở pháp lý để đấu tranh với những biểu hiện ngày càng phức tạp của tham nhũng. Tuy nhiên, không phải mọi hành vi tham nhũng đều bị xử lý về hình sự mà chỉ những hành vi hội đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm quy định trong Bộ luật hình sự thì mới được xác định là tội phạm và bị xử lý bằng biện pháp hình sự, [các hành vi được quy định từ khoản 1 đến khoản 7, Điều 3 của Luật] còn những hành vi khác [từ khoản 8 đến khoản 12, Điều 3 của Luật] đƣợc xác định là hành vi tham nhũng nhƣng chƣa cấu thành tội phạm thì đƣợc xử lý bằng biện pháp kỷ luật. - Về hành vi “đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi”: Đây là một biểu hiện mới của tệ tham nhũng. Do vẫn còn tồn tại cơ chế “xin - cho” trong nhiều lĩnh vực nên có nhiều cá nhân đại diện cho cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phƣơng đã tìm cách hối lộ cho ngƣời có chức vụ, quyền hạn phụ trách việc phê duyệt chƣơng trình, dự án, cấp kinh phí, ngân sách để đƣợc lợi cho cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phƣơng mình và thông qua đó để đạt đƣợc các lợi ích cá nhân. Hành vi này đƣợc coi là hành vi tham nhũng. Điều cần lƣu ý là hành vi đưa hối lộ, môi giới hối lộ là tội danh đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự không thuộc nhóm các tội phạm về tham nhũng mà thuộc nhóm các tội phạm về chức vụ. Còn hành vi đƣa hối lộ, làm môi giới hối lộ đƣợc thực hiện bởi chủ thể có chức vụ, quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phƣơng vì vụ lợi thì mới đƣợc coi là hành vi tham nhũng. Hành vi này vừa chịu sự điều chỉnh của pháp luật hình sự với tội danh tƣơng ứng [nếu hành vi đó cấu thành tội phạm], vừa là hành vi tham nhũng theo sự điều chỉnh của pháp luật về tham nhũng. - Về hành vi “lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản nhà nước vì vụ lợi”: Đây là hành vi lợi dụng việc đƣợc giao quyền quản lý tài sản của nhà nƣớc để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc một nhóm ngƣời nào đó thay vì phục vụ cho lợi ích công. Biểu hiện cụ thể của hành vi này thƣờng là cho thuê tài sản nhƣ: nhà xƣởng, trụ sở, xe ôtô và các tài sản khác nhằm vụ lợi. Số lƣợng tài sản cho thuê nhiều khi lớn. - Về hành vi “nhũng nhiễu vì vụ lợi”: Nhũng nhiễu là hành vi đã đƣợc mô tả trong phần thuật ngữ khái niệm. Cần nhấn mạnh thêm hành vi này xuất hiện trong hoạt động của một số cơ quan công quyền, nhất là tại các cơ quan hành chính, nơi trực tiếp giải quyết công việc của công dân và doanh nghiệp. Một số cán bộ, công chức không thực hiện trách nhiệm với thái độ công tâm và tinh thần phục vụ mà ngược lại thƣờng tìm cách lợi dụng những sơ hở hoặc không rõ ràng của các thủ tục, thậm chí tự ý đặt ra các điều kiện gây thêm khó khăn cho công dân và doanh nghiệp để buộc công dân và doanh nghiệp biếu xén cho mình quà cáp. Thực chất của hành vi này là sự ép buộc đƣa hối lộ đƣợc che đậy dƣới hình thức tinh vi rất khó có căn cứ để xử lý. Cũng có thể coi hành vi nhũng nhiễu là hành vi “đòi hối lộ” một cách gián tiếp hoặc ở mức độ chƣa thật nghiêm trọng và có thể dùng biện pháp xử lý hành chính. - Về hành vi “lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi”. Hành vi tham nhũng nhiều khi đƣợc che chắn thậm chí là có sự đồng lõa của những ngƣời có chức vụ, quyền hạn ở cấp cao hơn. Vì vậy, việc phát hiện và xử lý tham nhũng là hết sức khó khăn. Việc bao che cho ngƣời có hành vi tham nhũng, việc cản trở quá trình phát hiện tham nhũng có khi đƣợc che đậy dƣới rất nhiều hình thức khác nhau nhƣ: thƣ tay, điện thoại, nhắc nhở, tránh không thực hiện trách nhiệm của mình hoặc có thái độ, việc làm bất hợp tác với cơ quan có thẩm quyền… - Hành vi “không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi” là hành vi thƣờng đƣợc gọi là “bảo kê” của những ngƣời có trách nhiệm quản lý, đặc biệt là một số ngƣời làm việc tại chính quyền địa phƣơng cơ sở, đã “lờ” đi hoặc thậm chí tiếp tay cho các hành vi vi phạm để từ đó nhận lợi ích từ những kẻ phạm pháp.

4.Tham nhũng gây ra những tác hại nào?

Tham nhũng được xem như là một tệ nạn diễn ra ở bất kể quốc gia nào, bất kể trình độ phát triển hay giàu nghèo ra sao. Nó là hiện tượng kinh tế, xã hội gắn liền với sự phát triển của bộ máy nhà nước và sự hình thành giai cấp.

Tham nhũng len lỏi vào đời sống xã hội, gây ra hậu quả nghiêm trọng về mọi mặt: kinh tế, chính trị, xã hội… Nó cản trở sự phát triển của xã hội, đụng chạm đến lợi ích của cá nhân, tập thể, dân cư, đất nước.

Hơn nữa, tham nhũng có thể “đánh sập” của một đế chế. Nó gây ra sự suy đồi về đạo đức, thất thoát ngân sách, suy thoái kinh tế.

5.Nguyên nhân gây ra tham nhũng là gì?

Chúng ta cứ lên án về nạn tham nhũng nhưng bản chất gây ra tham nhũng là gì? Đó là do các nguyên nhân sau:

Sâu xa là do chế độ người bóc lột người sinh ra. Đó là lòng tự tư, tự lợi, ích kỷ của bản thân nên gây hại dân.

Do cơ chế thị trường, tự do hoá cạnh tranh tạo ra.

Sự suy thoái về phẩm chất đạo đức của bộ phận không nhỏ cán bộ Đảng viên. Đây được xem là nguyên nhân cốt lõi, gây suy yếu công tác quản lý, giáo dục đào tạo cán bộ đảng viên của các tổ chức Nhà nước và Đảng. Nền kinh tế thị trường cần mở rộng giao lưu bên ngoài. Hơn nữa, tác động của yếu tố vật chất khiến nhiều cán bộ sa ngã, bị lợi ích cám dỗ, trươt vào tham nhũng, tội lỗi.

Cơ chế, chính sách, pháp luật chưa đầy đủ, thiếu sự đồng bộ, chưa thực sự chuyển mạnh sang cơ chế thị trường.

Đảng và Nhà nước có nhiều chỉ thị, nghị quyết về phòng, chống, tham nhũng nhưng việc triển khai cụ thể chưa bàn kỹ, thiếu những giải pháp có hiệu quả, tổ chức chỉ đạo chưa chặt chẽ.

Luật Minh Khuê [ sưu tầm và biên tập]

Video liên quan

Chủ Đề