“mang nặng cốt cách phong kiến” là nhận xét của hồ chí minh về chủ trương cứu nước của nhà yêu nước nào?

Thứ sáu, 13/05/2011 06:24

Những nhân tố ảnh hưởng đến quyết định ra đi tìm đường cứu nước của người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành

1. Phong trào yêu nước chống Pháp diễn ra sôi nổi nhưng đều thất bại.

Những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp bắt tay vào khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Xã hội Việt Nam bắt đầu có những biến chuyển và phân hoá. Sự xâm nhập của chủ nghĩa tư bản Pháp đã làm nảy sinh trong xã hội Việt Nam hai giai cấp mới: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Cuộc vận động cải cách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu ở Trung Quốc cũng có ảnh hưởng lớn đến Việt Nam. Các phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta diễn ra đa dạng, sôi nổi: phong trào có khuynh hướng dân chủ tư sản Đông Du, Đông kinh Nghĩa Thục, Duy Tân, Việt Nam Quang Phục Hội; phong trào chống sưu thuế của nông dân ở Trung kỳ; phong trào đánh Pháp như: vụ đầu độc binh lính Pháp ở Hà Nội, cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Yên Thế…

Các phong trào yêu nước chống Pháp trên đều thất bại. Nguyên nhân sâu xa là do thiếu đường lối chính trị đúng đắn, khoa học, thiếu sự lãnh đạo của một giai cấp tiên tiến. Giai cấp phong kiến, có vai trò tiến bộ nhất định trong lịch sử đã trở thành giai cấp phản động, bán nước, tay sai cho đế quốc. Giai cấp tư sản mới ra đời, còn non yếu với lực lượng kinh tế phụ thuộc và khuynh hướng chính trị cải lương, không có khả năng lãnh đạo cuộc đấu tranh chống đế quốc và phong kiến để giành độc lập tự do. Giai cấp nông dân và tiểu tư sản khao khát độc lập, tự do, hăng hái chống đế quốc và phong kiến, nhưng không thể vạch ra con đường giải phóng đúng đắn và không thể đóng vai trò lãnh đạo cách mạng. Cách mạng Việt Nam đứng trước cuộc khủng hoảng trầm trọng về đường lối cứu nước.

Nguyễn Tất Thành rất khâm phục tinh thần yêu nước của các sĩ phu, văn thân, chí sĩ xả thân vì nước, nhưng Người không tán thành đường lối cứu nước của các bậc tiền bối. Tư tưởng yêu nước của Nguyễn Tất Thành tuy lúc đó chưa gặp chủ nghĩa xã hội, nhưng đã thể hiện tầm vóc vượt trước quan điểm cứu nước đương thời. Người cho rằng, chủ trương của cụ Phan Chu Trinh yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương chẳng khác gì “đến xin giặc rủ lòng thương”; chủ trương của cụ Phan Bội Châu nhờ Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp chẳng khác nào “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, chủ trương của cụ Hoàng Hoa Thám tuy thực tế hơn, nhưng không có hướng thoát rõ ràng, “còn mang nặng cốt cách phong kiến”.

Thất bại của các cụ Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh …nói lên một sự thật lịch sử là: không thể cứu nước trên lập trường phong kiến hay lập trường của giai cấp tư sản, tiểu tư sản. Các đường lối và phương pháp này đều không đáp ứng được yêu cầu giải phóng dân tộc trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc đã trở thành hệ thống thế giới. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam đang đòi hỏi được đổi mới, đó là một nhu cầu cấp thiết của dân tộc lúc bấy giờ.

2. Những chuyển biến của tình hình chính trị thế giới

Vào nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã từ giai đoạn tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc và đã xác lập được sự thống trị trên phạm vi thế giới. Phần lớn các nước châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh đã trở thành thuộc địa và phụ thuộc của chúng. Chủ nghĩa đế quốc vừa tranh giành xâu xé, vừa hùa với nhau để nô dịch các dân tộc nhỏ bé. Cùng với những mâu thuẫn cơ bản trong xã hội tư bản - mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và tư sản, chủ nghĩa đế quốc làm phát sinh mâu thuẫn mới - mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc thực dân. Đời sống nhân dân ở các nước thuộc địa và phụ thuộc vô cùng cực khổ, trong đó có nhân dân Việt Nam dưới xiềng xích của chế độ thực dân Pháp. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc bắt đầu phát triển và có xu hướng lan rộng.

3. Phẩm chất và trí tuệ của Nguyễn Tất Thành

Nguyễn Tất Thành sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống hiếu học, một địa phương có truyền thống yêu nước. Từ lúc tuổi còn nhỏ, Người sớm được tiếp cận với các tư tưởng lớn của phương Đông, hấp thụ vốn văn hóa truyền thống của dân tộc, Hán học và bước đầu tiếp xúc với văn hoá phương Tây. Chứng kiến chứng kiến cảnh khổ cực của người dân mất nước, tinh thần đấu tranh bất khuất của cha anh, Người càng yêu nước, thương dân sâu sắc và hun đúc những hoài bão lớn lao. Vốn có tư chất thông minh, tinh thần ham học hỏi, khả năng tư duy độc lập, tính ham hiểu biết và nhạy bén với cái mới, Người bị lôi cuốn bởi khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái” và thôi thúc bởi ý định tìm hiểu “cái gì ẩn dấu sau” những từ đẹp đẽ đó ở chính nước sinh ra khẩu hiệu đó. Những tư tưởng tiến bộ của cuộc cách mạng ở Pháp năm 1789, thành tựu văn minh, tiến bộ của nhân loại ở Pháp và các nước châu Âu khác, đã thúc đẩy Người muốn đến tận nơi tìm hiểu. Đó chính là những lý do Nguyễn Tất Thành quyết định chọn nước Pháp, chọn châu Âu làm điểm đến đầu tiên trong cuộc hành trình đi tìm đường cứu nước năm 1911.

II. Hành trình tìm đường cứu nước và những chuyển biến trong nhận thức về con đường giải phóng dân tộc của Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc

1. Hành trang ban đầu của Nguyễn Tất Thành khi ra nước ngoài là tri thức về văn hóa phương Đông và phương Tây, lòng yêu nước nhiệt thành, tiếp thu có chọn lọc con đường cứu nước của các nhà yêu nước lớp trước và một dự định rõ rệt, lớn lao, đó là “xem nước Pháp và các nước khác, sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào ta”, đó là dự định đi tìm con đường cứu nước, cứu dân. Ngày 5 tháng 6 năm 1911, trên con tàu “Đô đốc Latouche Tréville”, từ bến cảng Nhà Rồng của Thành phố Sài Gòn, Nguyễn Tất Thành đã lên đường sang Pháp. Người làm bất cứ việc gì để sống và hoạt động [phụ bếp dưới tàu, làm bánh trong các khách sạn, cào tuyết, đốt lò, chụp ảnh…]. Gần mười năm, vừa lao động kiếm sống, vừa tiến hành khảo sát thực tiễn nhiều nước tư bản và các nước thuộc địa, khảo sát các cuộc cách mạng ở các nước Pháp, Anh, Mỹ… Nguyễn Tất Thành đã có nhận thức quan trọng là: cách mạng tư sản là những cuộc cách mạng vĩ đại, nhưng là những cuộc cách mạng chưa đến nơi. Nó đã phá tan gông xiềng phong kiến cùng những luật lệ hà khắc và những ràng buộc vô lý để giải phóng sức lao động của con người. Cách mạng tư sản xây dựng lên một chế độ mới tiến bộ hơn xã hội phong kiến. Nhưng cách mạng xong rồi dân chúng vẫn khổ, vẫn bị áp bức, bóc lột và vẫn mưu toan làm cách mạng. Từ đó, Người đi đến kết luận, chúng ta đổ xương máu để làm cách mạng thì không đi theo con đường cách mạng này. Nguyễn Tất Thành đã tìm ra những mặt trái của xã hội phương Tây, nhận ra “ở đâu cũng có người nghèo khổ như xứ sở mình” do ách áp bức, bóc lột dã man, vô nhân đạo của bọn thống trị. Điều đó đã giúp Người có một nhận thức quan trọng: nhân dân lao động trên toàn thế giới cần đoàn kết lại để đấu tranh chống kẻ thù chung là giai cấp thống trị; cùng nhau thực hiện nguyện vọng chung là độc lập, tự do.

Xem tiếp kỳ sau

Đó là lập luận với ý đồ xấu nhằm hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh. Là một nhà nghiên cứu lịch sử, PGS, TS Vũ Quang Hiển [Đại học Quốc gia Hà Nội] đã có bài viết gửi Báo Quân đội nhân dân Điện tử phản bác quan điểm sai trái trên.

Ảnh tư liệu.

Do thiếu phương pháp luận khoa học, nhất là quan điểm lịch sử cụ thể và quan điểm toàn diện, họ đã lấy cái cá biệt thay cho cái toàn thể, lấy một hiện tượng thay cho bản chất. Đó là thuật ngụy biện, dẫn đến những kết luận sai lầm và mang nặng tính chủ quan. Nhưng điều tệ hại hơn, những kết luận đó được không ít những người khác lợi dụng để tuyên truyền xuyên tạc, gây hoài nghi về tấm lòng giúp dân, cứu nước của Nguyễn Ái Quốc, nhằm “hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh”, làm lung lạc niềm tin của nhân dân Việt Nam đối với lãnh tụ của mình.

Đã có nhiều bài viết phản bác luận điểm trên, thiết nghĩ không cần phải bàn thêm. Nhưng khảo cứu lại điều kiện lịch sử lúc đó, tôi muốn làm sáng tỏ thêm một vấn đề căn cơ hơn: Vì sao Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước? Xin tóm tắt như sau:

Trước hết, xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc.

Bến Nhà Rồng trong một bưu thiếp thời thuộc địa. Ảnh tư liệu

Từ khi Pháp xâm lược Việt Nam, phong trào đấu tranh chống Pháp của nhân dân Việt Nam đã diễn ra liên tục và anh dũng, với tinh thần “người trước ngã, người sau đứng dậy”. Nhiều phong trào yêu nước và con đường cứu nước theo các khuynh hướng phong kiến và tư sản diễn ra liên tiếp cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, nhưng đều không thành công. Sự nghiệp cứu nước lâm vào một “tình hình đen tối tưởng như không có đường ra”, đặt ra yêu cầu cấp thiết là phải tìm một con đường cứu nước mới.

Đất nước mất độc lập, nhân dân mất tự do. Độc lập tự do là khát vọng cháy bỏng của mọi người Việt Nam yêu nước, thôi thúc nhiều người ra đi tìm đường cứu nước, trong đó có Nguyễn Tất Thành.

Thứ hai, do sự hấp dẫn của văn minh nhân loại, nhất là khẩu hiệu “Tự do – Bình đẳng – Bác ái” của cách mạng Pháp.

Sinh ra và lớn lên trong một nhà Nho giàu lòng yêu nước, Nguyễn Tất Thành sớm chịu ảnh hưởng của gia đình và truyền thống văn hoá của quê hương xứ Nghệ, có sự am hiểu về Nho giáo. Chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hoá phương Đông, nhưng ở Nguyễn Tất Thành không có sự chối bỏ, hay mâu thuẫn với văn hoá phương Tây. Với tư duy văn hoá mở, Nguyễn Tất Thành cảm nhận được sự phong phú của các nền văn hóa, hướng tới một thế giới năng động và sáng tạo, nhất là nơi có khoa học, kỹ thuật phát triển và những tư tưởng mới.

Tháng 9-1905, vào tuổi 13, Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Tất Đạt được thân phụ Nguyễn Sinh Huy xin cho theo học lớp dự bị [préparatoire] Trường tiểu học Pháp - bản xứ ở Vinh. Tại đây, Nguyễn Tất Thành được tiếp xúc với khẩu hiệu TỰ DO – BÌNH ĐẲNG – BÁC ÁI và “muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy”[1]. Trong thời gian làm thầy giáo ở Trường Dục Thanh, Phan Thiết [1910], Nguyễn Tất Thành được đọc Tân thư trong gia đình cụ Nguyễn Thông, tiếp cận với các thuyết nhân quyền, dân quyền, tự do, bình đẳng, bác ái do những triết gia và văn hào Pháp khởi xướng như J.J. Rousseau, Ch. De Montesquieu, Fr. Voltaire… Nguyễn Tất Thành được đọc một số tờ báo phát hành sang Việt Nam, nên “nảy ra ý muốn sang xem “mẫu quốc” ra sao”[2].

Ý tưởng đi sang phương Tây để tìm hiểu tình hình các nước và học hỏi thành tựu văn minh nhân loại từng bước lớn lên trong tâm trí Nguyễn Tất Thành, thể hiện sự mong muốn tiếp thu giá trị văn hoá nhân loại, là bước khởi động để đưa Việt Nam hội nhập vào các trào lưu tiến bộ của thời đại.

Thứ ba, nhờ trí tuệ và sự nhạy cảm về chính trị chính trị, Nguyễn Tất Thành nhận thấy sự cần thiết phải tìm một con đường mới.

Nguyễn Tất Thành nhận thấy hạn chế trong phong trào cứu nước của các vị tiền bối. Phong trào Đông Du tan rã, chứng tỏ không thể dựa vào Nhật để đánh Pháp, điều đó chẳng khác gì “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Thất bại của phong trào Duy tân cũng cho thấy việc trông chờ vào thiện chí cuả người Pháp để được trao trả nền độc lập cũng chẳng khác gì “xin giặc rủ lòng thương”. Khởi nghĩa của Hoàng Hoa Thám tuy có phần thực tế hơn, “nhưng vẫn mang nặng cốt cách phong kiến". Chính vì thế, mặc dù rất khâm phục tinh thần cứu nước của các vị tiền bối, nhưng Nguyễn Tất Thành không theo con đường của họ.

Được theo phụ thân đi nhiều nơi gặp những người cùng chí hướng để bàn luận về thời cuộc, Nguyễn Tất Thành có điều kiện mở rộng tầm nhìn, tầm suy nghĩ, thấy rõ sự thống khổ của nhân dân, nên “sớm có chí đuổi thực dân Pháp giải phóng đồng bào” và không khỏi băn khoăn khi thấy nhiều cuộc nổi dậy của nhân dân không thành công. Làm thế nào để cứu nước là câu hỏi sớm được đặt ra trong tâm trí người thiếu niên yêu nước Nguyễn Tất Thành.

Năm học 1908-1909, Nguyễn Tất Thành vào học Trường Quốc học Huế, tận mắt chứng kiến cảnh thực dân Pháp khinh rẻ, bóc lột, hành hạ người Việt Nam, được nghe kể về những hành động của những ông vua yêu nước như Thành Thái, Duy Tân và những bàn luận của những sĩ phu yêu nước về con đường cứu nước.

Ngày 4-12-1908, Nguyễn Tất Thành tham gia cuộc biểu tình chống thuế của nông dân Thừa Thiên. Họ đi tay không, chỉ đòi giảm thuế. Để tỏ tình đoàn kết nhất trí, họ đều cắt tóc ngắn và gọi nhau là “đồng bào”. Vì những hoạt động yêu nước, Nguyễn Tất Thành bị người Pháp để ý theo dõi. Ông Nguyễn Sinh Sắc cũng bị chính quyền thuộc địa khiển trách vì để con trai có những hoạt động bài Pháp. Nguyễn Tất Thành được chứng kiến thực dân Pháp khinh rẻ, bóc lột, hành hạ người Việt Nam, nhà trường ca ngợi chế độ thực dân phong kiến; được nghe kể về hành động của những ông vua yêu nước như Thành Thái, Duy Tân và những bàn luận về con đường cứu nước trong các sĩ phu yêu nước…

PGS, TS Vũ Quang Hiển.

Một lần trả lời nhà văn Mỹ Anna Luyxơtơrông, Nguyễn Ái Quốc nói: “Nhân dân Việt Nam, trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”[3].

Thứ tư, một quyết định lịch sử của cá nhân Nguyễn Tất Thành

Được chứng kiến thất bại của các phong trào yêu nước chống Pháp, từ lòng yêu nước và khát vọng giải phóng dân tộc, năm 1911 Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm đường cứu nước.

Trước khi đi, Tất Thành bàn với một người bạn thân: “Tôi muốn đi ra ngoài xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta. Nhưng nếu đi một mình, thật ra cũng có điều mạo hiểm, ví như khi đau ốm… Anh muốn đi với tôi không?”. Khi người bạn hỏi “lấy đâu ra tiền mà đi?”, Nguyễn Tất Thành vừa nói, vừa giơ hai bàn tay một cách tự tin và kiên quyết: “Đây, tiền đây… chúng ta sẽ làm việc. Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi”[4].

Ngày 3-6-1911, Nguyễn Tất Thành với tên gọi Văn Ba được một thuỷ thủ dẫn lên tàu Đô đốc Latútsơ Tơrêvin [Amiral Latouche Tréville], một con tàu lớn của hãng Sácgiơ Rêuyni [Charge Réuni], vừa chở khách, vừa chở hàng, gặp thuyền trưởng Maixen [Maisen] và được nhận làm phụ bếp trên tàu. Chuyến đi được xác định.

Ngày 5-6-1911, con tàu Amiral Latouche Tréville nhổ neo, rời bến cảng Sài Gòn đi Marseille. Với hành trang là chủ nghĩa yêu nước, cuộc hành trình đi tìm chân lý của Nguyễn Ái Quốc bắt đầu. Đó là chuyến đi một mình, không theo một tổ chức nào, cũng không có nguồn tài trợ của bất cứ ai. Từ đây, Nguyễn Ái Quốc vượt qua các đại dương đầy sóng gió, tự lao động để kiếm sống, đến với nhân loại cần lao đang tranh đấu ở nhiều châu lục và quốc gia trên thế giới, ở cả phương Đông và phương Tây, cả các nước tư bản và thuộc địa.

Một thời kỳ mới trong cuộc đời hoạt động của Nguyễn Ái Quốc - thời kỳ khảo nghiệm và tìm kiếm chân lý cứu nước bắt đầu.

Sự kiện Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước [5-6-1911] không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên, mà là một quyết định lịch sử, khởi đầu từ ý tưởng “làm quen với nền văn minh Pháp” xuất hiện từ thuở thiếu thời, khi được nghe các vị tiền bối luận bàn về phương thức cứu nước, cứu dân; được thôi thúc bởi thực tiễn phong trào yêu nước của nhân dân và sự đàn áp khốc liệt của thực dân Pháp. Sự kiện đó thể hiện thiên tài trí tuệ và nhãn quan chính trị sắc bén của Nguyễn Ái Quốc trước những thử thách khắc nghiệt của vận nước và sự biến chuyển của thời đại. Đó là quyết định mang tính nhân văn sâu sắc, nhằm vươn tới một chân trời mới, đưa đất nước hội nhập vào trào lưu tiến hoá của nhân loại, hướng tới giải phóng triệt để con người khỏi sự áp bức về mặt dân tộc, sự bóc lột về mặt giai cấp và sự nô dịch về mặt tinh thần.

Bản lĩnh Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, ngay từ quá trình tìm đường cứu nước, đã khởi đầu một hướng đi mới cho dân tộc Việt Nam, mà Ô. Manđenxtam cảm nhận “như nghe thấy ngày mai, như thấy sự yên tĩnh mênh mông của tình hữu ái toàn thế giới”[5].

PGS, TS VŨ QUANG HIỂN, Đại học Quốc gia Hà Nội

[1] Đây là lời kể với nhà văn Liên Xô Ôlíp Manđenxtam vào năm 1923 [Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 477].

[2] Đây là lời Nguyễn Ái Quốc trả lời phỏng vấn của phóng viên Giôvanni Giécmanéttô [báo L’UNITÀ của Đảng Cộng sản Italia [Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sdd, t. 1, tr. 465].

[3] Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Sđd, tr. 25-26.

[4] Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb, Chính trị quốc gia và Nxb. Trẻ, Hà Nội, 2005, tr. 13-14.

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sdđ, t. 1, tr. 463.

Video liên quan

Chủ Đề