Nam 1075, Lý Thường Kiệt chỉ huy đánh chiếm căn cứ nào của nhà Tống

A. Thành Khâm Châu, Liêm Châu, Ung Châu.

B. Thành Ung Châu, Liêm Châu, Kinh Châu.

C. Thành Kinh Châu, Ích Châu, Khâm Châu.

D. Thành Kinh Châu, Ích Châu, Ung Châu.

Chiến dịch đánh Tống 1075–1076 là tên gọi chiến dịch do tướng nhà Lý là Lý Thường Kiệt phát động nhằm tấn công quân Tống ở 3 châu dọc theo biên giới Tống - Việt năm 1075-1076.

Chiến dịch đánh Tống
1075 - 1076
Một phần của Chiến tranh Tống - Việt, 1075-1077

Vị trí Khâm Châu tại Quảng Tây.

Vị trí Ung Châu [ngày nay là Nam Ninh] tại Quảng Tây.

Đại Việt đã huy động 10 vạn quân sang đánh phá căn cứ châu Ung của Tống, bao gồm cả lực lượng chính quy của triều đình lẫn quân của các thủ lĩnh dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc.

Đạo quân của triều đình ở phía Đông do đích thân Lý Thường Kiệt chỉ huy, gồm cả thủy lục quân xuất phát từ châu Vĩnh An [Móng Cái ngày nay] rồi thần tốc lên biên giới phía Đông Bắc tới châu Khâm.

Còn đạo quân của các thủ lĩnh dân tộc thiểu số ở phía Tây đặt dưới sự chỉ huy của Tôn Đản chia làm 4 mũi tiến vào đất Tống: Lưu Kỷ từ Quảng Nguyên [Cao Bằng], Hoàng Kim Mãn từ Môn Châu [Đông Khê - Cao Bằng], Thân Cảnh Phúc từ Quang Lang [Lạng Sơn] và Vi Thủ An từ Tô Mậu [Quảng Ninh] và nhắm tới châu Ung[5]. Đạo quân phía Tây sẽ "giương Tây" để đạo quân phía Đông bất ngờ "kích Đông".

Phòng ngự châu Ung gồm hai phần, tổng số có 5.000 quân.[6] Giữ biên thuỳ Đại Việt và đóng quân trong thành: 2.000 quân đóng ở thành Ung, 3.000 chia đóng ở 5 trại tiếp giáp biên giới Đại Việt: Hoành Sơn, Thái Bình, Vĩnh Bình, Cổ Vạn, Thiên Long[6]. Khâm Châu và Liêm Châu sát biển tiếp giáp Quảng Ninh và Lạng Sơn ngày nay, đặt viên Phòng biên tuần sứ cai quản đoàn quân Đằng Hải để hợp với quân của hai viên tuần kiểm, không quá 500 người, đóng ở hai trại: Như Tích giáp biên thùy châu Vĩnh Anh và Để Trạo ở cửa sông Khâm Châu.[7]

Ngày 27 tháng 10 năm 1075, Vi Thủ An dẫn 700 quân từ Tô Mậu vào đánh Cổ Vạn, chiếm được trại Cổ Vạn. Tin tức đến tận ngày 21 tháng 12 mới tới được triều đình nhà Tống. Tiếp theo, các mũi quân phía Tây lần lượt đánh chiếm trại Vĩnh Bình, Thái Bình, các châu Tây Bình, châu Lộc, trại Hoành Sơn.[8][9]

Quân Tống bị thu hút vào phía Tây, nên lơ là phía Đông. Đã có người Khâm châu phát hiện và báo cho tướng giữ thành là Trần Vĩnh Thái nhưng Thái không tin. Khi có tin đạo quân phía Đông của Đại Việt đến tập kích, Thái vẫn thản nhiên bày tiệc uống rượu. Quân Tống đã không chống đỡ nổi. Ngày 30 tháng 12 năm 1075, châu Khâm bị chiếm, Trần Vĩnh Thái và các thủ hạ Văn Lương, Ngô Phúc, Tưởng Cẩn, Tống Đạo đều bị bắt và bị giết. Quân Lý không phải giao phong một trận nào, lấy hết của cải mang đi[8]. Người dân địa phương của Bắc Tống dù sau này thương Thái bị giết mà lập đền thờ nhưng vẫn chê cười Thái là người ngu muội; hễ thấy ai không thông tuệ thì gọi là Trần Thừa Chỉ [Thừa chỉ là hàm chức của Vĩnh Thái][10].

Nghe tin Khâm châu thất thủ, quân Tống ở Liêm châu cố phòng bị nhưng không chống nổi. Ngày 2 tháng 1 năm 1076, châu Liêm thất thủ.[8][9] Chúa các trại Như Tích và Để Trạo đều tử trận. Phía Tống bị bắt tới 8.000 tù binh dùng để đưa đồ vật cướp được xuống thuyền sau cũng bị đem giết hết. Quan trấn thủ châu Khâm là Lỗ Khánh Tôn và các thủ hạ Lương Sở, Chu Tông Thích, Ngô Tông Lập đều bị giết.

Sau đó, Lý Thường Kiệt dẫn quân đến châu Ung cùng đạo quân phía Tây quyết tâm hạ thành châu Ung.

Phát "Phạt Tống lộ bố văn"Sửa đổi

Bài chi tiết: Phạt Tống lộ bố văn

Lý Thường Kiệt kéo quân tiến sâu vào nội địa. Phía Tống không còn quân cản đường quân Lý kéo đến thành Ung châu[11]. Nhưng Lý Thường Kiệt vẫn lo ngại dân Tống sẽ cản đường về của quân Lý, do đó nhằm phô trương danh nghĩa cuộc bắc phạt, Lý Thường Kiệt viết Phạt Tống lộ bố văn và sai yết ở dọc đường để kể tội nhà Tống.

Theo sách sử của Đại Việt thì dân Tống thấy lời tuyên cáo đều vui mừng đồng tình, mang rượu thịt ra khao quân Lý. Từ đó mỗi khi dân Tống thấy cờ hiệu Lý Thường Kiệt từ xa đều nói đó là quân của cha họ Lý người nước Nam và cùng nhau bày án bái phục trên đường. Do đó uy danh quân Lý lan rất xa[11].

Trận Ung ChâuSửa đổi

Quân Lý vây thànhSửa đổi

Ngày 10 tháng 12, Tông Đản kéo đến Ung Châu. Cánh quân chiếm được Khâm Châu tiến lên Ung Châu. Cánh chiếm được Liêm Châu tiến sang miền Đông Bắc chiếm châu Bạch[12].

Nửa tháng sau Ty Kinh lược Quảng Tây mới hay tin về cuộc tấn công này để thông báo về triều. Vua tôi nhà Tống hết sức bối rối. Rồi nhiều nơi khác bị mất lại được cáo cấp về, nhà Tống càng hoang mang, sau đó có lệnh của Tống Thần Tông cho Quảng Châu, Quảng Tây phải cố thủ ở các nơi hiểm yếu nhất, vận chuyển tiền, vải, lương thực để khỏi lọt vào tay quân Lý, cách chức Lưu Di, cử Thạch Giám thay coi Quế Châu và đưa viện binh tới các thị trấn đang bị uy hiếp.

Ngày 18 tháng 1 năm 1076, đạo quân của Lý Thường Kiệt cũng tới thành Ung châu. Mấy vạn quân của Lý Thường Kiệt, Lưu Kỷ và các tù trưởng khác vây thành Ung châu vài vòng kín như bưng. Tướng giữ thành là Tô Giám thấy thế quân Đại Việt mạnh nên đã áp dụng triệt để chính sách cố thủ để chờ viện quân, tính chỉ hai tuần lễ có thể đến nơi. Tô Giám ban đầu tin rằng Ung Châu cách Quế Châu chỉ có 14 ngày đường, nên viện binh thế nào cũng sẽ đến kịp cho nên đóng cửa thành cố thủ. Kiểm điểm binh lương, trong thành Ung lúc ấy chỉ có 2.800 quân. Dân thành Ung tất cả được gần 6 vạn người bấy giờ sợ hãi đạp nhau mà chạy. Ông đem hết công nhu [tiền công] phát hết cho dân khích lệ mọi người vững lòng, kiên trí. Kẻ nào bỏ trốn phải tội theo quân lệnh [Địch Tích là một bộ hạ dưới trướng của Tô Giám bị chém trong trường hợp này]. Ông còn phao tin viện binh không còn xa thành là bao nhiêu.

Trước đó con Tô Giám là Tử Nguyên làm quan ở Quế Châu đem gia đình đến thăm cha, lúc sắp trở về thì thành Ung bị vây, Tô Giám lại bắt Tử Nguyên để vợ con ở lại chỉ được về Quế Châu một mình, vì sợ nếu để người nhà đi đông thì nhân dân cũng bỏ trốn hết.

Viện binh Quý ChâuSửa đổi

Lúc này Lưu Di giữ Quý Châu nghe tin thành Ung bị nguy liền phái Trương Thủ Tiết đem quân đi cứu. Thủ Tiết nghe tin quân Lý đông và mạnh, không dám tiến thẳng đến Ung châu, đi vòng theo đường Quý Châu tới Tân Châu rồi hạ trại ở Khang Hòa nghe ngóng.

Ung Châu bị vây gấp quá, Tô Giám cho người mang lạp thư - thư viết vào giấy rồi bọc trong nến - mà ngậm vào miệng phá vòng vây ra báo cho Tống Cầu ở Quý Châu. Tống Cầu giục Trương Thủ Tiết đi gấp. Tiết bất đắc dĩ kéo quân đi, đến núi Hỏa Giáp[13] rồi ra giữ ải Côn Lôn giữa châu Tân và châu Ung, cách Ung 40km.

Lý Thường Kiệt biết tin viện binh Tống đến, bèn cho quân đón đánh. Ngày 4 tháng Giêng âm lịch, tức ngày 11 tháng 2 năm 1076, quân Lý kéo thẳng đến ải Côn Lôn, quân Tống hốt hoảng bỏ chạy. Trương Thủ Tiết, Nguyên Dụ, Trương Biện, Hứa Dự, Vương Trấn là các chỉ huy của lực lượng viện binh nhà Tống đều bị giết tại trận. Nhiều quân sĩ Tống đầu hàng quân Lý[10].

Quân Lý hạ thànhSửa đổi

Thành Ung Châu vững chắc, chính Vương An Thạch tin rằng quân Lý sẽ không phá nổi.

Để công phá Ung Châu, mấy vạn quân Lý bắc thang mây để leo thành. Quân Tống dùng đuốc mà đốt nên không thể bắc gần được. Lý Thường Kiệt lại dùng tên độc mà bắn, người ngựa trên thành chết nằm gối lên nhau. Quân Tống dùng thần tý [một loại nỏ] ra bắn. Thành cao và chắc, quân Lý đánh phá hơn 40 ngày không hạ được. Có tù binh bên Tống hiến kế với Lý Thường Kiệt dùng phép thổ công, tức là trèo qua bao đất vào thành. Quân Đại Việt liền lấy túi cho đất vào, cứ thế đắp vào chân thành. Khi các bao đất cao lên, quân Lý theo đó mà leo lên mặt thành. Lý Thường Kiệt theo đó mà tiến đánh.

Ngày 1 tháng 3 năm 1076, sau 42 ngày kiên cường kháng cự[14], thành Ung thất thủ. Tô Giám cố gắng đốc thúc tàn quân chiến đấu đến phút cuối cùng. Khi đã kiệt sức ông cho 36 thân nhân tự sát rồi tự thiêu mà chết. Không tìm thấy Tô Giám, quân Đại Việt giết hết dân trong thành, tổng cộng hơn 50.000 người[14]. Theo Tống sử, cứ 100 thây chất làm một đống, cả thảy 580 đống.

Trận này quân Lý bị thiệt hại 10.000 quân, cùng một số voi chiến[15].

Đại Việt rút quân về nướcSửa đổi

Lấy xong Ung Châu, Lý Thường Kiệt kéo quân lên phía bắc, tỏ ý muốn đánh tiếp Tân châu. Tướng giữ Tân châu nhà Tống là Cổ Cấn Lặc nghe tin, sợ hãi bỏ thành chạy.

Lý Thường Kiệt ra lệnh tiêu hủy thành lũy, phá kho tàng dự trữ trong vùng Tả Giang và lấy đá lấp sông chặn đường cứu viện của quân Tống[16].

Liệu chừng đại quân Tống từ phương Bắc sắp kéo xuống, nếu tiến gấp có thể qua vùng khê động đánh vào châu Quảng Nguyên của Đại Việt, mà quân Lý công phá thành Ung Châu hơn 1 tháng đã mệt mỏi, Lý Thường Kiệt quyết định thu quân trở về Đại Việt để lo bố phòng, chuẩn bị phòng tuyến chặn địch.

Tháng 3 năm 1076, quân Lý rút khỏi Ung Châu.

Kết quả và ý nghĩaSửa đổi

Nhà Tống chủ trương tập trung căn cứ hậu cần tại các cứ điểm phía nam để chuẩn bị đánh Đại Việt. Nhà Lý đánh phá các châu Liêm, Khâm và Ung, đốt hết các trại Vĩnh Bình, Thái Bình, Thiên Long, Cổ Vạn đã đạt được mục tiêu ra quân chặn thế mạnh của Tống.

Sau thất bại này, cả Tống Thần Tông và Vương An Thạch đều quy lỗi cho các tướng dưới quyền. Thẩm Khởi và Lưu Di bị truy xét tội trạng. Vương An Thạch viết trong Tư kỷ:

Vua sai Khởi kinh chế kín việc Giao Chỉ, các đại thần không hay. Phàm Khởi tâu xin gì, vua cũng nghe.

Nhưng Tống Thần Tông từ chối việc từng sai Thẩm Khởi chuẩn bị đánh Đại Việt, tự tay viết chiếu nói:

Trước Thẩm Khởi ở Quảng Tây nói dối là nhận được mật chỉ của triều đình bảo soạn đánh Giao Chỉ.[17]

Cả Tống Thần Tông và Vương An Thạch đều hối tiếc vì không đánh Đại Việt sớm, ngay khi Lý Nhân Tông mới lên ngôi. Sau khi Ung Châu thất thủ, phía nhà Tống thừa nhận không còn cơ hội "đánh úp Giao Chỉ" nhưng vẫn chuẩn bị kế hoạch phục thù.

Nhà nghiên cứu Hoàng Xuân Hãn cho rằng:

Tống tiếc rẻ không đánh Đại Việt trước, nhưng không biết rằng sở dĩ Tống bị đánh trước vì dự định đánh Đại Việt. Trong cuộc chiến này, phía Đại Việt nhờ có Lý Thường Kiệt chủ động đi bước trước nên đã giành thắng lợi hoàn toàn và tránh khỏi được thất bại về sau [trong toàn cuộc chiến với Tống][18].

Xem thêmSửa đổi

  • Nhà Lý
  • Lý Thường Kiệt
  • Lý Nhân Tông
  • Nùng Tông Đản
  • Phạt Tống lộ bố văn
  • Chiến tranh Tống - Việt, 1075-1077
  • Nam Quốc Sơn Hà

Tham khảoSửa đổi

  • Đại Việt sử lược
  • Đại Việt sử ký toàn thư
  • Hoàng Xuân Hãn [1996], Lý Thường Kiệt, lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý, Nhà Xuất bản Hà Nội.
  • Phạm Văn Sơn, Việt Sử Toàn Thư - bản điện tử.
  • Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam [2003], Lịch sử quân sự Việt Nam, tập 3, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia.
  • Tống Sử.
  • Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược - bản điện tử.

Chú thíchSửa đổi

  1. ^ Phạm Văn Sơn, Việt Sử Toàn thư, tr. 146.
  2. ^ Hoàn Xuân Hãn, sách đã dẫn, tr. 165.
  3. ^ a b Phạm Hồng Sơn, Viện Quân sự cấp cao, Nghệ thuật đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam, 1990, tr. 10.
  4. ^ Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam [2003], sách đã dẫn, tr. 238.
  5. ^ Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, sách đã dẫn, tr. 241.
  6. ^ a b Lỗi chú thích: Thẻ sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên VLSQS237
  7. ^ Lỗi chú thích: Thẻ sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Hà Hữu Nga
  8. ^ a b c Hoàng Xuân Hãn, sách đã dẫn, tr. 172.
  9. ^ a b Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, sách đã dẫn, tr. 242.
  10. ^ a b Hoàng Xuân Hãn, sách đã dẫn, tr. 173.
  11. ^ a b Hoàng Xuân Hãn, sách đã dẫn, tr. 174.
  12. ^ Việt Sử Toàn thư, tr. 148.
  13. ^ Có sách nói là núi Đại Giáp.
  14. ^ a b Đại Việt sử lược - Quyển II.
  15. ^ Hoàng Xuân Hãn, sách đã dẫn, tr. 183.
  16. ^ Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, sách đã dẫn, tr. 245.
  17. ^ Hoàng Xuân Hãn, sách đã dẫn, tr. 189.
  18. ^ Hoàng Xuân Hãn, sách đã dẫn, tr. 192.

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề