Nguyên tác chọn động vật thí nghiệm
Skip to content
Trong lịch sử loài người những thí nghiệm sử dụng động vật đã có một đóng góp to lớn cho sự phát triển của nghiên cứu sinh học cơ bản và y học. Ngày nay, lĩnh vực thực hành này lại đang “có vấn đề”: tính chính xác của các kết quả thí nghiệm khi chuyển từ động vật sang người và những vấn đề đạo đức đặt ra khi sử dụng động vật làm đối tượng thí nghiệm. Phải chăng đã đến lúc chúng ta chấm dứt sử dụng động vật trong nghiên cứu? Các thí nghiệm sử dụng động vật từng là một trong những cột trụ của thực nghiệm y học suốt từ thời cổ đại. Nó góp phần làm nên hàng loạt những khám phá quan trọng. Thế nhưng, ngày nay, khi nhân loại bước vào thế kỷ XXI, với tính chất phức tạp và tinh vi ngày càng tăng lên, khoa học ngày nay đang chạm đến những giới hạn của việc thí nghiệm trên động vật. Một hiện tượng phổ biến là nhiều thí nghiệm có kết quả tích cực trên động vật nhưng khi chuyển sang người lại gây nên những nguy cơ không thể lường trước được thậm chí, trong nhiều trường hợp, có thể gây nên tử vong. Điển hình là biến cố ngày 12.3.2006 ở Anh Quốc khi việc ứng dụng một phương pháp chữa bệnh đã từng cho kết quả tích cực trên động vật đã khiến cho những người tình nguyện suýt chết. Sự khác biệt giữa các loài. Hơn thế nữa, chỉ riêng ở nước Pháp, hiện nay, có hàng chục thí nghiệm y học chống lại những căn bệnh cho đến nay vẫn là nan y như bệnh Alzheimer, các bệnh về hệ cơ hay các dạng ung thư vẫn đang chờ trong phòng thí nghiệm của các hãng dược. Tình hình giống như một dạng “ùn tắc giao thông” do tiến độ thí nghiệm trên người bị làm chậm lại bởi mối lo về các hiệu ứng phụ nguy hiểm. Phillipe Moullier, một chuyên gia về điều trị gene và tế bào tại viện Inserm, Nantes, Pháp, tiết lộ tình trạng trên. Vậy mà những mẫu động vật được dùng để thí nghiệm lại không có hiệu quả lắm trong việc giúp các nhà nghiên cứu xác định hiệu quả cũng như độc tính của các phương pháp điều trị, dẫu rằng những thí nghiệm này đều được tiến hành trên những mẫu động vật đã được biến đổi gene cho phù hợp với các dạng bệnh của người.
Trường hợp các điều trị liên quan đến gene là một trường hợp điển hình. Người ta sử dụng một virus đã được biến đổi để đưa một gene vào trong bộ gene của tế bào bệnh. Cách điều trị này tỏ ra rất hữu hiệu trên động vật nhưng lại có thể gây ra những tai họa khôn lường nơi người. Điển hình là trường hợp những thử nghiệm điều trị cho các trẻ em bị mắc bệnh suy giảm bẩm sinh hệ miễn dịch. Ở một số em, phương pháp điều trị này tỏ ra rất hiệu quả nhưng ở một số em khác lại gây ra một dạng gần như bệnh bạch cầu. Chính Phillipe Moullier tiết lộ sự thật đáng sợ này. Một phương pháp điều trị có thể tỏ ra là “thần diệu” đối với các động vật nhưng lại không hề bảo đảm rằng sẽ cho kết quả tích cực nơi người. Cả giới nghiên cứu, bị trói buộc bởi nguyên tắc phòng ngừa lẫn giới tư bản, những người đã đầu tư hàng chục triệu Euro để thương mại hóa một loại dược phẩm đều cảm thấy lo ngại trước thực trạng này.
Nhưng vậy thì liệu có thể bỏ qua việc thí nghiệm y học trên động vật? Chắc chắn là chưa trong một tương lai gần, Tại Mỹ, trong năm 1999, một số viện nghiên cứu đã thử thí nghiệm trực tiếp trên động vật và bỏ qua thí nghiệm trên người. Cuộc phiêu lưu này đã nhanh chóng phải dừng lại do tỷ lệ tử vong cao. Cho đến nay, dẫu vấp phải những khó khăn rất lớn nhưng những thí nghiệm sử dụng động vật vẫn đóng góp rất lớn vào việc thúc đẩy hiểu biết về bệnh tật cũng như tìm ra những phương pháp điều trị mới. Nói một cách công bằng thì nếu từ bỏ hình thức thí nghiệm này, con người sẽ mất nhiều hơn được, cả trong những nghiên cứu về độc tính cũng như những nghiên cứu về nguyên nhân và cách điều trị một số loại bệnh. Chẳng hạn, trong nghiên cứu bệnh tiểu đường típ 2, một căn bệnh mà giới nghiên cứu dịch tễ đang rất lo ngại. Nhờ có các nghiên cứu trên chuột mà người ta đang xác lập một giả thuyết mới về nguồn gốc từ trong giai đoạn bào thai của căn bệnh này để từ đó, xác định một phương pháp điều trị mới dựa trên một loại hoóc môn tự nhiên GLP-1.
Tiếp đến là nguyên tắc về việc thu hẹp số lượng động vật sử dụng trong các thí nghiệm. Tất nhiên, người ta không thể sử dụng một số lượng vô tội vạ động vật phục vụ cho các thí nghiệm như trước đây nhưng nguyên tắc về sự đảm bảo số lượng quyết định tính chính xác của kết quả thí nghiệm cũng làm cho việc thu hẹp số lượng động vật được sử dụng cũng phải có một ngưỡng. Cuối cùng là nguyên tắc về sự giảm thiểu. Ngày nay, người ta bắt buộc phải sử dụng thuốc giảm đau và thuốc gây mê cho các động vật thí nghiệm. Thế nhưng, điều này cũng có một giới hạn. Người ta không thể áp dụng điều này cho các nghiên cứu về cơn đau và điều trị giảm đau. Qua những điều trên, có thể thấy rằng, với sự phát triển của nghiên cứu sinh học cơ bản và y học, ngày nay, người ta đã chạm đến một số giới hạn quan trọng của việc thí nghiệm sử dụng động vật. Nhiều nỗ lực giải quyết đã được thực hiện nhưng rõ ràng, chưa có một giải pháp nào thực sự hiệu quả để có thể dẫn tới việc chấm dứt hoàn toàn hình thức thực nghiệm khoa học này. Rõ ràng, trong một tương lai tới, người ta sẽ còn phải “chung sống” với tình trạng khó khăn này. Tổng hợp từ Science et Vie, số 1078 năm 2008.
Tìm địa điểm Trường Gọi trực tiếp Chat Facebook Chat Zalo |