Toàn bộ các cung đều có khả năng VCD. Đặc biệt là khi một cung đã VCD
thì cung xung chiếu luôn luôn có chính tinh, trong khi cung tam hợp với
cung VCD thì có trường hợp không có chính tinh. Cụ thể:
Cung Tí Ngọ, Thìn Tuất, Tỵ Hợi có một trường hợp VCD
Cung Tí Ngọ VCD có Đồng Âm xung chiếu, Cự Dương tam hợp
Cung Thìn Tuất có Cơ Lương xung chiếu, Cự Dương tam hợp
Cung Tỵ Hợi VCD có Liêm Tham xung chiếu, Phủ và Tướng tam hợp
Cung Sửu Mùi, Dần Thân, Mão Dậu có ba trường hợp VCD
Cung Sửu Mùi VCD có Đồng Cự xung chiếu, Thái Âm và Dương Lương tam hợp
Cung Sửu Mùi VCD có Nhật Nguyệt xung chiếu, Cự Cơ và Thiên Đồng tam hợp
Cung Sửu Mùi VCD có Vũ Tham xung chiếu, Phủ và Tướng tam hợp
Cung Dần Thân VCD có Đồng Lương xung chiếu, Cự Dương tam hợp
Cung Dần Thân VCD có Cơ Âm xung chiếu, Cự và Dương tam hợp
Cung Dần Thân có Cự Dương xung chiếu, Đồng Âm tam hợp
Cung Mão Dậu VCD có Dương Lương xung chiếu, Đồng Cự và Thiên Cơ tam hợp
Cung Mão Dậu VCD có Tử Tham xung chiếu, Phủ và Tướng tam hợp
Cung Mão Dậu VCD có Cự Cơ xung chiếu, Âm Dương và Thiên Lương tam hợp
Nguyên tắc luận giải về cung VCD
Một số sách vở bàn rằng khi gặp cung VCD thì ta lấy chính tinh xung
chiếu làm tọa thủ để luận đoán, có nghĩa là nếu chính tinh này đắc hay
hãm thì đặc tính đắc hãm của nó sẽ được tạm sử dụng để luận giải tại
cung VCD . Quan điểm này thiết tưởng cũng hợp lý vì các sao xung chiếu
vừa là trực chiếu, vừa có ảnh hưởng sâu rộng đến các cung khác hơn các
sao tam chiếu. Ví dụ:
Mệnh VCD thì lấy chính tinh tại cung Di vì chính tinh tại Di còn có tác
động đến cung Phối và cung Phúc, toàn bộ đều là cường cung đối với Mệnh
(Ảnh huởng đến Mệnh bao gồm Tài Quan Di Phối Phúc)
Phụ Mẫu VCD thì lấy chính tinh tại cung Tật vì chính tinh tại cung Tật
còn ảnh huởng đến cung Huynh và cung Điền (ảnh hưởng đến Phụ bao gồm Nô
Tử Tật Điền Huynh)
Phúc Đức VCD thì lấy chính tinh tại cung Tài vì chính tinh tại cung Tài
còn ảnh hưởng đến cung Quan và cung Mệnh (ảnh hưởng đến Phúc bao gồm Di
Phối Tài Quan Mệnh)
Điền Trạch VCD thì lấy chính tinh tại cung Tử vì chính tinh tại cung Tử
còn ảnh hưởng đến cung Nô và cung Phụ Mẫu (ảnh hưởng đến Điền thì bao
gồm Tật Huynh Tử Nô Phụ)
Quan Lộc VCD thì lấy chính tinh tại cung Phối vì chính tinh tại cung
Phối còn ảnh hưởng đến cung Di và cung Phúc (ảnh hưởng đến Quan bao gồm
Mệnh Tài Phối Di Phúc)
Nô Bộc VCD thì lấy chính tinh tại cung Huynh vì chính tinh tại cung Huynh còn ảnh hưởng đến cung Tật và cung Điền)
Thiên Di VCD thì lấy chính tinh tại cung Mệnh vì chính tinh tại cung Mệnh còn ảnh hưởng đến cung Quan và cung Tài.
Tài Bạch VCD thì lấy chính tinh tại cung Phúc vì chính tinh tại cung Phúc còn ảnh hưởng đến cung Phối và cung Di.
Tử Tức VCD thì lấy chính tinh tại cung Điền vì chính tinh tại cung Điền còn ảnh hưởng đến cung Tật và cung Huynh.
Huynh Đệ VCD thì lấy chính tinh tại cung Nô vì chính tinh tại cung Nô còn ảnh hưởng đến cung Tử Tức và cung Phụ Mẫu.
Nguyên tắc lấy chính tinh xung chiếu làm tọa thủ không áp dụng cho ba
trường hợp sẽ nêu dưới đây (VCD có hung tinh đắc địa độc thủ, VCD có
Nhật Nguyệt xung chiếu hoặc Nhật Nguyệt sáng sủa tam hợp chiếu (Nhật
Mão, Nguyệt Mùi) và VCD đắc tam không).
Ngũ hành bản mệnh và cung VCD
Thông thường thì Mệnh Hỏa và Kim thì tốt hơn các Mệnh có hành khác, bởi
cung VCD ví như là nhà không có nóc, cần có hành khí mạnh mẽ là Hỏa và
Kim làm nòng cốt
Cung VCD và Tuần Triệt án ngữ
Ngoại trừ trường hợp cung VCD có hung tinh đắc địa độc thủ thì không nên
có Tuần Triệt án ngữ, còn tất cả các trường hợp cung VCD đều rất cần có
Tuần hoặc Triệt án ngữ tại bản cung để câu hút được chính tinh về, để
ngăn chặn các ảnh hưởng xấu xa do hung tinh lạc hãm đóng tại cung VCD
hoặc chiếu về cung VCD. Nếu gặp Triệt tại Thân Dậu, Tuần tại Thìn Tí
hoặc Dần Mão thì càng hay (Triệt đáo Kim cung, Tuần lâm Hỏa địa hoặc Mộc
vị thì bất kỵ Sát Tinh bại điều tai ương sở tác). Chú ý rằng cung VCD
gặp Tuần án ngữ tốt đẹp hơn cung VCD gặp Triệt, gặp Triệt cũng chỉ đưa
đến sự tốt đẹp của cung VCD ở mức độ kha khá trong trường hợp có chính
tinh sáng sủa xung chiếu và nhiều trung tinh sáng sủa hội chiếu. Nếu
không có Tuần hoặc Triệt đóng tại cung VCD thì hiệu quả ảnh hưởng của
chính tinh xung chiếu yếu đi, và cho dù cung VCD có nhiều sao sáng sủa
hội chiếu cũng không thể coi là rực rỡ được, tốt lắm thì sự tốt đẹp cũng
chỉ ở mức độ trung bình khá mà thôi. Khi có Tuần hoặc Triệt tại cung
VCD thì mặc dầu ban đầu tuy gặp khó khăn trở ngại nhưng về sau lại thuận
lợi hơn, tốt đẹp hơn. Tuần Triệt ở đây còn có tác dụng ngăn trở các sao
xấu, nếu có, chiếu về cung VCD, và giải cứu được trường hợp phi yểu tác
bần nếu VCD tại cung Mệnh. Trường hợp Tuần Triệt án ngữ đồng cung thì
thông thuờng ta có thể giải đoán là cung VCD này không tốt cũng không
xấu, tốt xấu chỉ nằm khoảng ở mức độ trung bình mà thôi. Trong trường
hợp này ta gần như không cần quá chú trọng lắm đến các sao hội chiếu vì
ảnh hưởng gia giảm của các sao này tuy vẫn có nhưng hầu như không nhiều
vì Tuần ngăn các sao tốt chiếu tới là chủ yếu, còn Triệt thì ngăn cản
các hung tinh chiếu tới trong khi các sao tại bản cung thì bị cả Tuần
lẫn Triệt vây trảm. Cần chú ý có một số sao kỵ gặp Tuần Triệt như Tướng
Quân nếu đóng tại cung VCD mà gặp Tuần Triệt thì dễ đưa đến tai họa bất
ngờ nếu rơi vào trường hợp bị đương đầu. Đặc biệt nếu VCD tại Tứ Mộ thì
lại rất cần Tuần Triệt án ngữ.
Trường hợp đặc biệt Mệnh VCD có Tuần hoặc Triệt thủ, có hai trong ba sao
là Tuần, Triệt, Thiên Không chiếu thì gọi là VCD đắc tam không, nếu
mệnh Hỏa hoặc Kim thì phú quí khả kỳ (được hưởng phú quí trong một giai
đọan, bởi vì tính chất của các sao Không trong trường hợp này tuy đưa
đến tốt đẹp nhưng không toàn vẹn, chỉ hưởng tốt đẹp trong một giai đọan
mà thôi). Đắc Tam Không là Tuần Không, Triệt Không và Thiên Không. Không
tính sao Địa Không. Cần một thủ, hai sao chiếu. Trong trường hợp đắc
tam không này ta không lấy chính tinh xung chiếu làm tọa thủ. VCD đắc
tam không mà không có Tuần Triệt án ngữ thì là cách Kiến Không. Mệnh VCD
đắc tam không thì mệnh Hỏa đẹp hơn Mệnh Kim, còn các Mệnh khác thì
không hưởng mấy (không giàu có nhưng nhìn chung thì cuộc sống không đến
nổi xấu, cuộc sống cũng được tạm đủ hoặc kha khá). Phú có câu:
Mệnh VCD đắc Tam Không phú quí khả kỳ
Mệnh VCD hoán ngộ Tam Không hữu Song Lộc, phú quí khả kỳ
Trường hợp VCD đắc tam không, nếu có hung tinh lạc hãm hay đắc địa tọa
thủ tại cung VCD thì cũng chỉ làm xấu một chút mà thôi, ta không đáng lo
ngại lắm về họa của các sao này gây ra
Trường hợp vô chính diệu mà không có Tuần Triệt án ngữ, lại có sao Thiên
Không thủ là cách ngộ Không, là người quyền biến khôn ngoan nhưng cuộc
đời thăng trầm cực khổ. Nếu lại gặp thêm các sao Không khác ở các cung
hội chiếu thì lại thông thường càng xấu hơn, cuộc đời sẽ thăng trầm cực
khổ nếu không bị chết yểu.
Nhìn chung trường hợp VCD mà lấy chính tinh xung chiếu làm tọa thủ thì
cho dù có được chính tinh sáng sủa xung chiếu, được Tuần Triệt án ngữ
cũng chỉ đưa đến sự tốt đẹp của cung đó cũng chỉ là mức độ khá là tối đa
mà thôi, chứ không thể nào rực rỡ như có chính tinh sáng sủa tọa thủ
được. Còn nếu gặp chính tinh lạc hãm xung chiếu hoặc có nhiều sao xấu
hội tụ mà lại không có Tuần Triệt án ngữ cứu nguy thì rơi vào cách phi
yểu tác bần. Nếu có hung tinh lạc hãm khác hành bản Mệnh tọa thủ thì
càng nguy hiểm hơn. Cung VCD mà có sát tinh hãm địa thủ thì rất xấu, dễ
lâm vào trường hợp phi yểu tác bần (rõ nét nhất cho những người có hành
bản Mệnh bị hành của hung tinh khắc) Ngọai trừ có Tuần Triệt án ngữ cứu
nguy hoặc có nhiều cát tinh cứu giải như Quan Phúc, Quang Quí tọa thủ
tại bản cung là tốt nhất.
VCD có hung tinh đắc địa độc thủ
Hung tinh đắc địa này phải là hành Hỏa hoặc hành Kim mới được coi là rơi
vào trường hợp này. Trong trường hợp này thì ta chọn hung tinh này làm
nòng cốt cho cung VCD, không lấy chính tinh xung chiếu để giải đoán. Một
số tác giả cho rằng hao bại tinh đắc địa có thể làm nòng cốt cho cung
VCD như Tang Môn (Mộc), Song Hao (Thủy), Khốc Hư (Thủy) nhưng theo thiển
ý thì không chính xác.
Thứ tự mức độ tốt có thể sắp xếp như sau:
Bạch Hổ đắc địa tốt nhất, tại Thân Dậu tốt đẹp hơn tại Dần Mão
Kình Đà đắc địa, Kình đẹp hơn Đà
Không Kiếp đắc (Tỵ Hợi đẹp hơn Dần Thân), Hỏa Linh đắc
Đặc biệt Thái Tuế (hành Hỏa) cũng được dự phần vào trong cách này với
điều kiện không gặp Tuần hoặc Triệt và phải rơi vào cung Mệnh hoặc Thân
VCD
Một vài ghi nhận về vị trí của hung tinh đắc địa
Không Kiếp hành Hỏa miếu địa tại Tỵ Hợi, đắc tại Dần Thân
Hỏa Linh hành Hỏa đắc địa tại cung ban ngày từ Dần tới Ngọ
Kình Đà hành Kim đới Hỏa, đắc địa tại Thìn Tuất Sửu Mùi
Bạch Hổ hành Kim đắc địa tại Dần Mão, Thân Dậu
Hung Tinh đắc địa phải là hành Kim và Hỏa mới có tác dụng mạnh và bản
Mệnh phải đồng hành với hung tinh này thì mới hưởng tốt đẹp trọn vẹn.
Các Mệnh khác thì hưởng yếu hơn, ta có thể tạm đánh giá thì chỉ nằm
trong mức độ trung bình. Trong tất cả các trường hợp trên thì ngoại trừ
Bạch Hổ và Thái Tuế còn có tác dụng tốt lâu dài về sau, còn lại các
trường hợp khác thì tuy làm cho cung VCD được sáng sủa rực rỡ nhưng chỉ
là một giai đoạn mà thôi, không có tác dụng tốt lâu dài.Mọi sự xấu tốt
đều đến nhanh. Không Kiếp phát huy tính chất lên bất ngờ nhanh chóng
nhất nhưng cũng đưa đến suy bại nhanh nhất trong toàn bộ các hung tinh
vừa kể.
Nếu Mệnh VCD có hung tinh đắc địa độc thủ nhưng bị Tuần Triệt án ngữ thì
không đúng cách đã nói ở trên, trong trường hợp này ta luận giải như
trường hợp lấy chính tinh xung chiếu làm tọa thủ, với Tuần Triệt án ngữ
tại cung.
Cung VCD có Nhật Nguyệt xung chiếu hoặc Nhật Nguyệt sáng sủa tam hợp chiếu (Nhật Mão, Nguyệt Mùi) :
Trường hợp nếu có đủ bộ Âm Dương sáng sủa tại Mão và Mùi Hợi chiếu hoặc
Âm Dương đồng cung xung chiếu đến cung VCD thì ta lại chọn bộ Âm Dương
này làm nòng cốt cho cung VCD, chứ không lấy các chính tinh xung chiếu
bởi vì qui luật của Nhật Nguyệt là chiếu đẹp hơn tọa thủ. Trong trường
hợp nay ta có thể đoán rắng cung VCD này trước tuy có gặp trục trặc trắc
trở nhưng về sau thì khá tốt. Tốt xấu hơn thì phải căn cứ vào sự tụ tập
của các sao khác. Nếu có Tuần hoặc Triệt án ngữ tại cung VCD thì cung
VCD này càng trở nên tốt đẹp bội phần, gặp Tuần tốt hơn gặp Triệt. Gặp
Triệt thì chỉ kha khá thêm một chút mà thôi. Trường hợp Nhật Mão Nguyệt
Mùi thì cần phải không bị sao nào làm giảm sức sáng, ví dụ như cần phải
không có Tuần Triệt án ngữ Nhật Nguyệt, hoặc Hóa Kỵ đóng đồng cung làm
giảm sức sáng của Nhật hoặc Nguyệt. Nếu một sao bị Tuần hoặc Triệt án
ngữ hoặc bị Hóa Kỵ đồng cung, nghĩa là bị giảm sức sáng thi sẽ đưa đến
mức độ tốt giảm đi rất nhiều, cung VCD trong trường hợp nay chỉ tốt ở
mức độ trên trung bình một chút mà thôi. Nếu Nhật Nguyệt được các phụ
tinh làm tăng sức sáng như Xương Khúc Đào Hồng thì lại càng tốt đẹp bội
phần. Trường hợp có Nhật Nguyệt Sửu Mùi chiếu thì nếu Nhật Nguyệt bị
Tuần hoặc Triệt tại cung thì càng tốt, có Hóa Kỵ đồng cung với Nhật
Nguyệt thì càng tốt hơn. Chú ý rằng chỉ rơi vào hai trường hợp này thì
ta mới sử dụng bộ Nhật Nguyệt, còn tất cả các trường hợp khác thì nếu có
Âm Dương chiếu ta cũng lấy chính tinh xung chiếu làm tọa thủ.
MỘT VÀI ĐẶC TRƯNG CỦA CUNG VCD
Mệnh VCD
Nhạy bén. Có giác quan thứ sáu, linh cảm được chuyện gần xảy ra. Lúc còn
nhỏ thường vất vả, lận đận, hoặc hay đau yếu, khó nuôi.Khi lớn lên,
thường dễ giảm thiểu được bệnh tật, tai họa đo lường trước hoặc cảm nhận
trước được sự việc sắp xảy ra. Thường hay mắc bệnh dị ứng hoặc trong
đời có lần mắc bệnh dị ứng.
Rất nhạy cảm khi gần người khác phái. Dễ thích ứng được với hoàn cảnh.
Không có lập trường tư tưởng vững vàng nếu không nằm trong các trường
hợp đặc biệt đã nêu. Chỉ làm phụ tá thì bền, làm trưởng thì không bền,
không thể đứng mũi chịu sào được, hoạt động trong bóng tối hoặc ẩn danh
là hay nhất.
Cuộc sống không bền, trôi nổi, cho dù đắc cách thì thường thường phú qui
cũng khả kỳ (phú quí chỉ trong một giai đoạn), hoặc đáng hưởng phú quí
thì lại chết
Nếu là con trưởng thì không sống gần cha mẹ, nên làm còn nuôi họ khác,
nếu gần cha mẹ thì dễ chết non hoặc nghèo (phi yểu tắc bần).
Mệnh VCD thì cần Hỏa mệnh và Kim mệnh vì mệnh VCD như nhà không nóc, cần
bản mệnh có hành khí mạnh mẻ cứng cỏi làm nồng cốt. Các mệnh khác như
Thổ, Thủy, Mộc mệnh chưa chắc ăn được, trường hợp đắc Tam không thì cần
Hỏa hoặc Kim mệnh, có hung tinh độc thủ thì cần đồng hành là tốt nhất,
có Nhật Nguyệt hội chiếu thì có thể áp dụng cho tất cả các hành bản
mệnh. Thường là con vợ hai, vợ lẽ. Mệnh VCD mà cung Tử cũng VCD thì xấu,
cả đời không con hoặc khổ về vấn đề con cái.
Các cung dưới đây thì tùy trường hợp mà luận giải, nhưng đánh giá tốt
xấu thì cơ bản cũng dựa vào cách đánh giá cung VCD đã bàn bên trên. Sự
gia giảm mức độ đương nhiên cũng phải dựa trên bối cảnh Mệnh Thân Phúc
Hạn và các sao khác thủ chiếu tại cung VCD Vài nét sơ luận:
Phụ Mẫu VCD
Phải tự tay tạo lập cuộc sống, không được hưởng di sản của cha mẹ,
thường phải xa cách cha mẹ, ly hương lập nghiệp. Gặp Tuần hoặc Triệt án
ngữ thì phụ mẫu tốt hơn nhưng lại đưa đến dễ khắc cha hoặc mẹ, hoặc phải
sớm xa cách cha mẹ, hoặc làm con nuôi người khác. Nên sớm xa gia đình,
xuất ngoại thì mới có thể có công danh.
Phúc VCD
Thường phải xa cách họ hàng hoặc anh em. Rất tốt, được hưởng phúc, sống
lâu nếu được chính tinh sáng sủa xung chiếu và cát tinh hội họp.
Rất cần gặp Tuần, không nên gặp Triệt. Gặp Tuần thì hưởng phúc, sống
lâu. Gặp Triệt thì họ hàng khá giả nhưng không bền cho dù gặp nhiều sao
tốt hội chiếu, thường phải ly hương lập nghiệp, xa cách họ hàng người
thân.
VCD đắc tam không: được hưởng phúc lộc dồi dào.
Hung Tinh đắc địa độc thủ: hưởng phúc trong một giai đoạn mà thôi. Tại Dần Thân gặp Đà La độc thủ thì hưởng phúc, sống lâu.
Nhật Nguyệt sáng sủa hợp chiếu: rất tốt, hưởng phúc, sống lâu, được nhờ
cậy họ hàng, họ hàng quí hiển, gặp Tuần Triệt án ngữ càng tốt hơn
Điền VCD
Điền sản thường rất chậm có (sau 40) và hay thay đổi, lên xuống, không
bền. Hay thay đổi chỗ ở. Không hưởng được di sản của cha mẹ để lại, tự
tay phải tạo lập. Gặp Tuần Triệt án ngữ thì trước trắc trở, sau dễ dàng
thuận lợi, không hưởng di sản của cha mẹ để lại. Thường hay thay đổi chỗ
ở, nhà đất mua rồi lại bán, thành bại thất thường, về già mới ổn định
nhưng nhà đất trung bình.
Nếu Tuần Triệt án ngữ đồng cung thì cũng vậy. Đắc tam không thì điền sản
tuy khá nhưng cũng không bền. Gặp Nhật Nguyệt sáng sủa hội chiếu thì
trước trắc trở nhưng càng về sau càng thuận lợi, rất nhiều nhà đất về
sau. Gặp Tuần Triệt án ngữ càng tốt hơn, rất giàu có, nhiều nhà đất.
Hung sát tinh độc thủ: tài sản tạo nên bất ngờ nhanh chóng, nhưng cũng
suy bại nhanh, đặc biệt là Hỏa Linh Không Kiếp. Kình Đà thì tuy trướcc
phá nhưng sau cùng khá giả.
Quan Lộc VCD
Nghề nghiệp thường thay đổi, không bền vững, hoặc chậm có công danh, công danh thấp hoặc bình thường, hoặc không bền.
Nếu rơi vào trường hợp bình thường thì quan lộc không hiển đạt cho dù có
nhiều sao sáng sủa xung chiếu hoặc hội chiếu, trường hợp không có nhiều
sao sáng sủa hội chiếu thì không có công danh.
Trường hợp có Tuần Triệt án ngữ và được nhiều sao sáng sủa hội chiếu thì
công danh cũng trước bị trở ngại, sau tuy khá nhưng không bền vững,
thường là hoạch phát hoạch phá, bởi vì Tuần Triệt mang ý nghĩa gây trục
trặc cho quan trường, Triệt gặp mạnh hơn Tuần. Tuần Triệt án ngữ đồng
cũng thì công danh bình thường cho dù các yếu tố khác như Mệnh Thân Phúc
Hạn tốt
Trường hợp có hung tinh độc thủ: hoạch phát công danh nhưng không bền
Trường hợp có Nhật Nguyệt sáng sủa hội chiếu thì tuy chậm có công danh
cũng tạm khá, thường hoạt động trên lãnh vực chính trị hoặc kinh tế. Chỉ
có trường hợp này thì Tuần hoặc Triệt án ngữ sẽ làm tăng vẻ tốt đẹp của
công danh, càng về sau công danh càng tốt tuy ban đầu có gặp trục trặc
trắc trở. Cần chú ý rằng gặp Tuần thì hay hơn Triệt nhiều, gặp Triệt thì
chỉ khá hơn chút đỉnh và không bền.
Nô Bộc VCD
Bạn bè và người giúp việc không bền, dễ ly tán.
Gặp Tuần hoặc Triệt án ngữ thì tốt hơn, tôi tớ đắc lực hơn, trước mướn
người khó khăn, sau thì dễ hơn nhưng cũng không bền. Hung sát tinh độc
thủ: tôi tớ rất đắc lực nhưng thường hay lấn chủ. Bạn bè tài giỏi,
thường làm ăn táo bạo, thường nằm trong giới giang hồ xã hội đen. Nhật
Nguyệt sáng sủa hội chiếu: tốt đẹp, được bạn bè giúp đỡ, bạn bè khá giả,
người làm có năng lực.
Thiên Di VCD
Nếu rơi vào trường hợp bình thường thì không thể giàu có lớn được, cho
dù có nhiều sao sáng sủa hợp chiếu. Ra ngoài dễ bị chi phối bởi môi
trường, ngoại cảnh. Tuần Triệt án ngữ: tốt hơn nhưng lại dễ chết xa nhà.
Hung sát tinh độc thủ: ra ngoài dễ kiếm tiền, thường kiếm được bất ngờ,
nhưng lại hao hụt nhanh chóng. Nhật Nguyệt sáng sủa hội chiếu: tốt đẹp,
gặp thuận lợi khi ra ngoài.
Tật Ách VCD
Ít bệnh tật tai họa nhưng tai họa đến thì khó tránh khỏi Tuần Triệt án ngữ: tốt, ít bệnh tật tai họa.
Tài Bạch VCD
Tiền tại không đều đặn, lúc có lúc không, không bền vững. Nếu rơi vào
trường hợp lấy chính tinh xung chiếu làm tọa thủ thì không thể giàu có
lớn được, cho dù có nhiều sao sáng sủa họp chiếu. Tuần Triệt án ngữ:
kiếm tiền ban đầu thường khó khăn, sau mới thuận lợi nếu được nhiều sao
tốt hội chiếu nhưng cũng không thể giàu có được. Nếu rơi vào trường hợp
có hung tinh đắc địa độc thủ: hoạch phát nhưng thường hoạch phá, không
bền, chỉ có một giai đoạn. Nhật Nguyệt sáng sủa hội chiếu: tốt đẹp,
nhiều tiền của về hậu vận
Tử Tức VCD
Không có con, ít con, hoặc chậm con, hoặc không nhờ cậy được con, hoặc con đầu lòng sinh ra khó nuôi.
Tuần Triệt án ngữ: thường chậm có con hoặc sinh con ban đầu khó nuôi
nhưng con khá giả. Hung tinh đắc địa độc thủ: con cái khá giả nhưng khó
nuôi con hoặc muộn sinh con, hoặc con cái không hợp với cha mẹ. Có Nhật
Nguyệt chiếu thì con khá giả, quí hiển.
Phối VCD
Lập gia đỉnh thường chậm trễ, hoặc thường không có xu hướng lập gia đình
mạnh mẽ, hoặc hay thay đổi đối tượng, chóng chán, không yêu ai mặn
nồng, yêu cũng chỉ trong một giai đoạn. Nếu lập gia đình sớm thường dễ
bị hình khắc
Gặp Tuần Triệt án ngữ: buổi đầu tuy có khó khăn trắc trở nhưng sau lại
tốt hơn, nên lập gia đình trễ thì tốt hơn, sớm thì dễ không bền vững.
Gặp Tuần tốt hơn gặp Triệt. Đắc Tam không Hỏa Mệnh thì chồng vợ tốt, hoà
thuận.
Hung sát tinh độc thủ: cả hai tuy cương cường, đảm đang nhưng không hoà
thuận, dễ hình khắc hoặc chia ly. Nhật Nguyệt sáng sủa hội chiếu: vợ
chồng tốt đẹp, nhưng nếu có Nhật Nguyệt đóng cũng thì vợ chồng không
nhường nhịn, thường hay tìm cách lấn nhau. Gặp Tuần Triệt án ngữ thì lại
bị trục trặc trắc trở ban đầu về tình duyên, lập gia đình sớm dễ đổ vỡ.
Huynh Đệ VCD
Thường không ở gần anh chị em, anh em ly tán. Tuần Triệt án ngữ: tốt
hơn, nhưng thường có anh chị trưởng chết sớm, thông thường anh em khá
giả về hậu vận, con tiền vận thì long đong. Nhật Nguyệt sáng sủa hội
chiếu: anh em thương nhau, gặp Tuần Triệt án ngữ thì càng tốt hơn.
Hạn VCD
Trường hợp lấy chính tinh xung chiếu làm tọa thủ: mọi sự đều lăng nhăng,
không cảm thấy ưng ý, không thể phát trong giai đoạn này được, thường
có nhiều sự thay đổi xảy ra như thay đổi về công việc, nơi ở
Tuần Triệt án ngữ: tốt đẹp nếu chính tinh xung chiếu tốt, và thường phải
gặp trắc trở trước. Không lo ngại về mọi sự xấu xa xảy ra nếu có.
Hung tinh đắc địa độc thủ: phát nhanh nhưng phá nhanh, rất hợp với Mệnh
có cách Sát Phá Tham. Nhật Nguyệt sáng sủa hội chiếu: tốt đẹp nhưng có
nhiều sự thay đổi xảy ra trong hạn này. Gặp Tuần Triệt án ngữ càng tốt
Hạn đắc tam không: tốt đẹp trong một giai đoạn tuy có gặp trục trặc ban đầu.
Lấy từ « http://www.thuvienkhoahoc.com/tuvi/i...AA_T%C3%ADn%29 »