Nhiệm vụ chung của thể dục thể thao trường học

Ngày 11/9/2020, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) ban  hành Công văn số 3520/BGDĐT-GDTC hướng dẫn nhiệm vụ giáo dục thể chất, thể thao và y tế trường học năm học 2020-2021.

Bộ GDĐT hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ giáo dục thể chất, hoạt động thể thao và y tế trường học năm học 2020-2021 như sau:

 Nhiệm vụ chung nhằm đẩy mạnh công tác giáo dục thể chất, hoạt động thể thao, y tế trường học trong các cơ sở giáo dục; triển khai hiệu quả các tài liệu, học liệu giáo dục nâng cao nhận thức, hướng dẫn kỹ năng an toàn trong hoạt động giáo dục thể chất, chủ động phòng, chống tai nạn thương tích, đuối nước cho học sinh, sinh viên (HSSV); tổ chức có hiệu quả câu lạc bộ thể thao trường học; triển khai thực hiện Đề án đảm bảo dinh dưỡng hợp lý và tăng cường các hoạt động vận động nhằm nâng cao tầm vóc, thể chất của trẻ em, HSSV; tăng cường các biện pháp phòng ngừa, ứng phó với dịch bệnh, đặc biệt là dịch bệnh Covid-19. Tổ chức thành công Hội khỏe Phù Đổng (HKPĐ) tại các khu vực và HKPĐ toàn quốc lần thứ X năm 2021. Hoàn thiện và sử dụng hiệu quả hệ thống cơ sở dữ liệu về giáo dục thể chất và y tế trường học của trẻ em, HSSV trong hệ thống cơ sở dữ liệu ngành Giáo dục.

Nhiệm vụ và giải pháp công tác giáo dục thể chất, hoạt động thể thao trường học bao gồm: Các Sở GDĐT tiếp tục triển khai tổ chức HKPĐ cấp tỉnh/thành phố và chuẩn bị các đội tuyển học sinh tham gia HKPĐ toàn quốc lần thứ X; Tổ chức các hoạt động giáo dục thể chất gắn liền với nội dung môn học nhằm đa dạng hóa các hoạt động vận động, khuyến khích học sinh tích cực, chủ động tham gia rèn luyện sức khỏe, phát triển thể chất; duy trì tổ chức các giải thi đấu thể thao cấp trường, cụm trường, cấp Ngành cho HSSV và tổ chức đội tuyển thể thao tham gia các giải thi đấu thể thao tại khu vực, toàn quốc và quốc tế; Đẩy mạnh việc thành lập và duy trì hiệu quả hoạt động các câu lạc bộ thể thao trong các cơ sở giáo dục; duy trì việc tập luyện thể dục buổi sáng, thể dục giữa giờ, dạy các bài võ Cổ truyền, võ Vovinam... cho HSSV phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, hướng dẫn khai thác, sử dụng và tham gia các hoạt động giáo dục thể chất trên không gian mạng an toàn, hiệu quả; tăng cường công tác xã hội hóa, tạo điều kiện, thu hút sự tham gia của các tổ chức xã hội, các chương trình, dự án hỗ trợ nhằm phát triển công tác giáo dục thể chất và phong trào thể thao trường học.

Công tác Y tế trường học cần đề cao trách nhiệm, tăng cường quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm Lời kêu gọi đoàn kết để chiến thắng đại dịch COVID-19; Tiếp tục chỉ đạo các cơ sở giáo dục thực hiện nghiêm túc công tác y tế trường học; Thực hiện các quy định về an toàn trường học.

Phòng, chống tai nạn thương tích và đuối nước: Đẩy mạnh công tác truyền thông giáo dục xây dựng trường học an toàn, phòng, chống tai nạn thương tích; Chỉ đạo các cơ sở giáo dục thực hiện có hiệu quả công tác đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động, phòng chống cháy nổ trong các cơ sở giáo dục, có kế hoạch thống kê, kiểm soát, bảo quản, thu gom và xử lý các hóa chất độc hại nguy hiểm trong các nhà trường; Tăng cường giáo dục HSSV kỹ năng phòng, tránh các loại tai nạn thương tích trong nhà trường và ngoài cộng đồng; nhắc nhở học sinh không chơi các trò chơi nguy hiểm; Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, lồng ghép nội dung giáo dục nâng cao nhận thức phòng, chống tai nạn đuối nước trong các hoạt động giáo dục, giờ học Giáo dục thể chất nhằm trang bị cho học sinh cách nhận biết nguy cơ đuối nước; Chủ động phối hợp với các Sở, ngành liên quan tổ chức phát động phong trào phòng, chống tai nạn đuối nước và chỉ đạo các cơ sở giáo dục tổ chức các đợt phát động tại nhà trường trước dịp học sinh nghỉ hè năm 2021; tăng cường phối hợp giữa nhà trường, gia đình, chính quyền địa phương triển khai các giải pháp đảm bảo an toàn cho HSSV trước, trong và sau các dịp nghỉ lễ, nghỉ hè.

Về công tác hội nghị, hội thảo tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn và công tác kiểm tra, đánh giá: Tập huấn, bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phương pháp, hình thức và kỹ năng tổ chức các hoạt động thể thao cho đội ngũ giáo viên, giảng viên làm công tác giáo dục thể chất và thể thao trường học; Tập huấn nâng cao chuyên môn nghiệp vụ, phương pháp tổ chức thi đấu, trọng tài các môn thể thao thuộc chương trình HKPĐ cho đội ngũ giáo viên giáo dục thể chất; Tập huấn, hướng dẫn kỹ năng phòng, chống tai nạn đuối nước và phương pháp sơ cấp cứu cho đội ngũ cán bộ giáo viên cốt cán của các sở GDĐT; Tập huấn, hướng dẫn lập kế hoạch và thực hiện giám sát và đánh giá các hoạt động về dinh dưỡng hợp lý trong trường học. Đồng thời tăng cường kiểm tra, đánh giá việc tổ chức và kết quả thực hiện công tác GDTC, hoạt động thể thao và y tế trường học; công tác phòng, chống tai nạn thương tích, đuối nước HSSV tại các cơ sở giáo dục.

Quang Anh


* Mục tiêu của GDTC trong các trường Đại học - Cao đẳng

- Thực hiện mục tiêu chung của giáo dục đại học và sau đại học đã nêu trong Luật Giáo dục là đào tạo người làm công tác chuyên môn, có phẩm chất chính trị, đao đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có sức khoẻ, có kiến thức thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Nâng cao sức khoẻ, thể lực và năng lực vận động, tăng cường hiệu quả học tập, lao động, sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc.

- Góp phần xây dựng cuộc sống văn hoá, tinh thần lành mạnh, ngăn ngừa các tệ nạn xã hội, phát triển và bồi dưỡng tài năng thể thao cho đất nước.

- Phấn đấu đưa việc dạy và học thể dục thành nề nếp trong các trường Đại học - Cao đẳng nâng cao một bước chất lượng giảng dạy trong giờ học nội khoá và ngoại khoá nhằm phát triển thể lực toàn diện, phát hiện và bồi dưỡng tài năng thể thao, nhằm nâng cao thành tích thể thao trong sinh viên.

- Cải tiến phương pháp, các hình thức giảng dạy, phấn đấu tạo điều kiện đảm bảo tối thiểu cho giáo dục thể chất về đào tạo bồi dưỡng cán bộ, cơ sở vật chất, kinh phí và chế độ đãi ngộ cho giáo viên thể dục - thể thao [28].

* Nhiệm vụ của GDTC trong các trường Đại học - Cao đẳng ở Việt Nam

Giáo dục thể chất trong các trường đại học là một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp TDTT và sự nghiệp GD&ĐT. Nó được tiến hành phù hợp với đặc điểm giải phẫu, tâm - sinh lý, giới tính và lứa tuổi sinh viên cùng với một số yêu cầu khác. Căn cứ vào nhiệm vụ chung của hệ thống GDTC, nhiệm vụ GDTC ở các trường Đại học - Cao đẳng được cụ thể hoá như sau:

a. Nhiệm vụ bảo vệ và nâng cao sức khoẻ

- Thúc đẩy sự phát triển hài hoà của cơ thể, giữ gìn và hình thành thân thể cân đối, nâng cao các khả năng chức phận của cơ thể, tăng cường quá trình trao đổi chất, cũng cố và rèn luyện hệ thần kinh vững chắc.

- Phát triển một cách vững chắc các tố chất thể lực và năng lực vận động cơ bản, nâng cao khả năng làm việc về trí óc và thể lực.

- Trên cơ sở phát triển thể chất, tổ chức các hoạt động vui chơi lành mạnh, nghỉ ngơi tích cực, rèn luyện và nâng cao khẳ năng chịu đựng về đề kháng của cơ thể đối với các ảnh hưởng bất lợi của môi trường bên ngoài, phòng chống bệnh tật.

b. Nhiệm vụ giáo dưỡng

- Trang bị cho sinh viên những tri thức về TDTT, kỹ năng, kỹ xảo vận động cần thiết cho các hoạt động khác nhau trong cuộc sống.

- Cung cấp các tri thức và rèn luyện thói quen giữ vệ sinh môi trường, vệ sinh tập luyện, nếp sống văn minh, lành mạnh.

- Phát triển hứng thú và nhu cầu rèn luyện thân thể cường tráng, hình thành thói quen tự tập luyện.

- Trang bị một số kiến thức về mặt tổ chức và phương pháp tiến hành một buổi tập luyện TDTT.

c. Nhiệm vụ giáo dục

Với tư cách là một mặt của giáo dục toàn diện, GDTC góp phần vào việc hình thành các thói quen đạo đức, phát triển trí tuệ, thẩm mỹ, chuẩn bị thể lực cho thanh niên, sinh viên đi vào cuộc sống lao động sản xuất, công tác. Đồng thời phải gắn liền với các yêu cầu cụ thể và các hoạt động chung của nhà trường.

d. Nhiệm vụ tiếp tục bồi dưỡng và phát triển nhân tài thể thao

Giáo dục thể chất có nhiệm vụ phát triển những nhân tài, năng khiếu trong các trường Đại học - Cao đẳng và trong điều kiện khả năng của mình bồi dưỡng nhân tài thể thao cho đất nước hoặc thông báo cho các tổ chức, cơ quan có trách nhiệm để kịp thời bồi dưỡng nhân tài thể thao [8].

Tóm lại, GDTC nhằm tạo nên những con người “Phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”. Vì vậy, trong giai đoạn phát triển của xã hội, GDTC không thể thiếu trong hệ thống giáo dục chung. Nhà giáo Thụy Sĩ Logan Pextalotxi đã khẳng định: “Các bài tập thể chất làm cũng cố và tô luyện cơ thể, xây dựng nền tảng để phát triển các tố chất vận động, chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc sống, tăng cường sức khỏe và phát triển trí lực”.

Giáo dục thể chất là một bộ phận của nền văn hóa xã hội, là di sản quý giá của loài người và là sự tổng hòa những thành tựu xã hội trong sự nghiệp sáng tạo và sử dụng những biện pháp chuyên môn để hoàn thiện thể chất con người, nâng cao sức khỏe. GDTC là một bộ phận của TDTT, đó còn là một trong những hình thức hoạt động cơ bản, có định hướng rõ rệt. GDTC là sự truyền thụ và tiếp thu có hệ thống những cách thức điều khiển hợp lý sự vận động của con người, qua đó sẽ hình thành kỹ năng, kỹ xảo vận động cơ bản cần thiết và những hiểu biết có liên quan [8].

Giáo dục thể chất trong các trường Đại học - Cao đẳng góp phần tích cực của mình vào thắng lợi chung của sự nghiệp giáo dục, góp phần củng cố nâng cao sức khỏe và xây dựng nếp sống mới của sinh viên trong nhà trường, đồng thời giúp sinh viên hiểu biết phương pháp khoa học để tiếp thu rèn luyện thân thể, xây dựng phong trào TDTT cơ sở.

Hiện nay, công tác GDTC trong các trường Đại học - Cao đẳng còn gặp nhiều khó khăn. Hầu hết các trường đã thực hiện đầy đủ chương trình cải tiến của Bộ GD&ĐT quy định. Tuy nhiên, chất lượng dạy còn thấp, phương pháp và hình thức dạy còn nghèo nàn, còn chưa lôi cuốn được đông đảo sinh viên ham thích và tự giác tập luyện, sinh viên học môn thể dục với tính cách đối phó và chưa thật sự nhận thức được tầm quan trọng của GDTC trong sự nghiệp giáo dục chung. Đội ngũ giáo viên còn thiếu về số lượng, chất lượng chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu GDTC trong các nhà trường, việc chuẩn hóa giáo viên chưa được quan tâm đúng mức. Cơ sở vật chất và phong trào TDTT còn yếu kém chỉ tập trung tại một số trường lớn [3].

Mục tiêu công tác GDTC và TDTT trường học là nhằm góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, quản lý kinh tế và văn hóa xã hội, phát triển hài hòa đáp ứng yêu cầu chuyên môn nghề nghiệp, có thể chất cường tráng.

Giáo dục thể chất và thể thao trường học duy trì và cũng cố sức khỏe, nâng cao trình độ thể lực cho sinh viên, rèn luyện thân thể, đạt tiêu chuẩn thể lực, trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về nội dung, phương pháp tập luyện, kỹ năng vận động và kỹ năng động tác một số môn thể thao, rèn luyện sinh viên ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần tập thể, xây dựng lối sống lành mạnh, tinh thần tự giác rèn luyện thân thể [3].




Chia sẻ với bạn bè của bạn:

Nhiệm vụ chung của thể dục thể thao trường học
Nhiệm vụ chung của thể dục thể thao trường học
Nhiệm vụ chung của thể dục thể thao trường học
Nhiệm vụ chung của thể dục thể thao trường học
Nhiệm vụ chung của thể dục thể thao trường học
Nhiệm vụ chung của thể dục thể thao trường học
Nhiệm vụ chung của thể dục thể thao trường học
Nhiệm vụ chung của thể dục thể thao trường học


Page 2


Tổ chức y tế thế giới (WHO, 1946) đưa ra quan điểm sức khỏe là “Trạng thái toàn diện về thể chất, tinh thần và sự thịnh vượng xã hội” (a complete state of physical, mental and social prosperity). Trong khi định nghĩa này gợi lên một giấc mơ không tưởng, nó cũng có giá trị đưa ra 1 tầm nhìn về sức khỏe không chỉ là không bệnh tật. Trạng thái khỏe mạnh không phải là bất biến, một số yếu tố nhất định có thể duy trì hay làm tăng tình trạng sức khỏe và cũng có những yếu tố làm suy giảm sức khỏe. Trong đó, việc tập luyện TDTT là những hoạt động có lợi cho sức khỏe. Trong quá khứ, thể thao không phải là mục tiêu phát triển sức khỏe, cho đến cuối thế kỷ 19 với câu châm ngôn của Juvenal “mens sana in corpore sano” có nghĩa: một tinh thần khỏe mạnh trong 1 cơ thể cường tráng (a sound mind in a sound body), đã hình thành một quan điểm mới về tập luyện TDTT khi những lợi ích của TDTT được thừa nhận [44].

Từ thế kỷ 19, các nhà khoa học đã nghiên cứu tác động tích cực của TDTT đến việc nâng cao chất lượng cuộc sống. Một số kết quả tiêu biểu có liên quan đến đối tượng sinh viên:

Theo Bouchard (1994): các Vận động viên môn chèo thuyền ở ĐH Cambridge và Oxford, và Vận động viên trượt tuyết Phần Lan có tuổi thọ cao hơn người không tập luyện.

Kết quả nghiên cứu của Rook (1954) về tuổi thọ của 2045 cựu sinh viên của ĐH Cambridge từ năm 1860 đến 1900 cho thấy không có sự khác biệt đáng kể giữa nhóm có tham gia hoạt động thể thao, nhóm trí tuệ (luôn được điểm số cao trong các kỳ kiểm tra và nhóm đối chiếu. Tính trung bình, tuổi thọ của nhóm trí tuệ cao hơn 2 năm so với nhóm đối chiếu và cao hơn 18 tháng so với nhóm thể thao.

Một nghiên cứu khác của Paffenbarger và cộng sự (1986) trên hơn 15.000 cựu sinh viên ĐH Harvard cho thấy những người tham gia hoạt động TDTT, đặc biệt là đi bộ, thì tuổi thọ tăng lên gần 2 năm so với người bình thường. Kết quả này dường như chưa rõ ràng vì đối tượng nghiên cứu là sinh viên, thành phần trí thức, nhưng bổ sung cho quan điểm tuổi thọ của thành phần trí thức cao hơn. Mặt khác, tuổi thọ của nhóm SV tham gia TDTT của Harvard lại thấp hơn nhóm SV không tham gia TDTT.

Nghiên cứu của Etneir (1997) chứng minh tác động tích cực của TDTT đối với năng lực học tập, nhận thức của sinh viên, học sinh là rõ ràng.

Một trong những tác động có hại dễ thấy nhất của rối loạn chức năng vận động là các bệnh tim mạch. Kết quả nghiên cứu được tiến hành từ 1968 đến 1978, trên 16.882 người của Morris khẳng định tỉ lệ bệnh tim mạch xảy ra ít hơn đối với nhóm có hoạt động TDTT, 3.1% so với 6.9% ở nhóm không TDTT (1980). Một nghiên cứu trên 16.936 cựu sinh viên Harvard cho thấy: những người có tham gia TDTT nhưng ít, 1 lần/tuần, có nguy cơ bị tim mạch cao hơn 64% so với nhóm tham gia TDTT cường độ cao (Paffenbarger et al., 1978).

Ý thức vai trò và lợi ích của hoạt động TDTT đối với việc nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân cũng như các tác động tích cực đến sự phát triển của xã hội, các nghiên cứu về lĩnh vực hoạt động TDTT vẫn thường xuyên được chú trọng tiến hành trên khắp thế giới. Sinh viên, học sinh được xem là lực lượng nòng cốt trong việc bảo vệ và phát triển đất nước trong tương lai. Do đó, các nghiên cứu về hoạt động TT trong trường học vẫn thường xuyên được tiến hành tại hầu hết các trường Đại học – Cao đẳng trên thế giới, trong đó, các nghiên cứu đặc biệt chú trọng đến là lợi ích mà sinh viên nhận được thông qua việc tham gia hoạt động TDTT, các chương trình TDTT và dịch vụ TDTT của nhà trường.

Kết quả của nhiều công trình cho thấy lợi ích của hoạt động TDTT đối với SV có thể tổng kết như sau: Việc tham gia hoạt động TDTT có tác dụng giảm stress cho SV (Kimball & Freysinger, 2003); Phát triển ý thức cộng đồng (Dalgarno, 2001); Giúp năng lực học tập tốt hơn thông qua hiệu quả tăng cường trí nhớ và tư duy (Belch, Gebel, & Mass, 2001); thành công hơn trong học tập (Foubert & Grainger, 2006); hài lòng hơn với các trải nghiệm trong quá trình học tập và phát triển năng lực lãnh đạo cho SV (Hall-Yannessa & Forrester, 2008).

Ngoài ra, nhiều nghiên cứu mô tả về việc tham gia hoạt động TDTT cũng cho thấy các chương trình TT phong phú cùng cơ sở vật chất của nhà trường cũng là một yếu tố quan trọng trong việc chiêu sinh cũng như việc duy trì số lượng SV theo học. Kết quả khảo sát cho thấy thông qua việc tham gia các chương trình TT trong trường học, SV cảm nhận được những lợi ích rõ rệt như: 1) Cảm thấy khỏe khoắn, ít bệnh tật hơn; 2) cảm giác hoàn thành nhiệm vụ; 3) Năng lực hoạt động thể chất tăng lên; 4) Sức mạnh thể chất tăng lên; và 5) giảm căng thẳng [4].

Tổng kết về GDTC trong trường học tại Úc cho thấy: “Thể thao là môn bắt buộc đối với SV Úc, cho dù SV bắt buộc phải tham gia hoạt động TT, nhưng không nhất thiết phải tham gia học các chương trình của nhà trường. SV được chọn lựa tham gia các Câu lạc bộ (CLB) ưa thích của nhà trường hoặc gia nhập các CLB TT bên ngoài trường nếu các môn này nhà trường không có điều kiện tổ chức”.

Chủ tịch hội đồng Giáo dục thể chất & thể thao Đại học quốc gia Singapore, Alan Koh Swee Wan, tổng kết về đặc điểm công tác GDTC trong trường học tại Singapore như sau: “ Tất cả sinh viên, học sinh đều phải tham gia hoạt động thể thao để cuộc sống mạnh mẽ và phong phú hơn. Họ được chọn môn thể thao họ yêu thích. Trong quá trình tập luyện, nếu người nào thể hiện được sự vượt trội về năng lực và có thiên hướng thể thao chuyên nghiệp, chúng tôi sẽ chuyển họ sang trường chuyên TDTT để theo đuổi sự nghiệp thể thao chuyên nghiệp…”.Từ bậc tiểu học đến đại học, HS-SV thường xuyên học trung bình 2 giờ GDTC mỗi tuần trong suốt năm học, ngoại trừ mùa thi cử.

Tại Malaysia, HS từ tiểu học đến trung học phải tham gia 1 giờ GDTC mỗi tuần trong suốt năm học. Các môn phổ biến ở cấp Trung học phổ thông là cầu lông, cầu mây, bóng đá và quần vợt. Tại Anh, HS phải tham gia trung bình 2 giờ GDTC/tuần. Vào năm học cuối giờ học tối thiểu là 1 giờ/tuần. Tại Ba Lan, HS phải tham gia tối thiểu 3 giờ/tuần trong suốt cấp học Trung học cơ sở và Trung học phổ thông. SV Đại học phải tham gia tối thiểu 60 giờ GDTC/học kỳ. Tại Mỹ, chương trình GDTC trong trường học được xây dựng sao cho HS – SV có thể tham gia tập luyện tối thiểu các loại hình sau: các môn TT dưới nước, các môn thể dục, các môn TT cá nhân/đôi, các môn đồng đội, các môn nhịp điệu và các môn khiêu vũ. HS – SV được khuyến khích lựa chọn môn ưa thích từ năm học này sang năm học khác. Hiện nay, ước tính 1088 trường đại học ở Mỹ đều có các chương trình GDTC và thể thao cho SV, đây cũng được xem là một trong những tiêu chí quan trọng để thu hút lượng SV đăng ký vào học.

Tại Hàn Quốc, từ năm 1948, chính sách giáo dục luôn khuyến khích các trường xem môn học GDTC là môn chính vì tác dụng tích cực đến lối sống lành mạnh của HS – SV. Chính phủ xây dựng và thường xuyên cải tiến “Chương trình GDTC quốc gia” áp dụng thống nhất cho tất cả các trường học, chương trình bao gồm 4 lĩnh vực: (1) Mục tiêu và mục đích, (2) Nội dung giảng dạy (3) Phương pháp dạy và học, và (4) Đánh giá.

Thời lượng học trung bình 3 buổi/tuần, các năm cuối cấp giảm còn 2 buổi/tuần vì dành thời gian học và thi (Aug.01.2005; JOPERD-The Journal of Physical Education, Recreation & Dance).

Giáo dục thể chất trong trường Đại học là một bộ phận cấu thành của giáo dục phát triển toàn diện.

Mục tiêu của GDTC Đại học nước ta là “nhằm tăng cường sức khỏe, phát triển thể chất, góp phần hình thành bồi dưỡng nhân cách, đáp ứng yêu cầu giáo dục toàn diện cho người học”. Đó là phương hướng chiến lược quan trọng nhất của GDTC Đại học, trong đó đòi hỏi tất cả các mặt giáo dục phải hướng tới phát triển cho sinh viên toàn diện tất cả các mặt: đức, trí, thể, mỹ, để họ trở thành những con người mới xã hội chủ nghĩa.

Đức dục và trí tuệ rất quan trọng, thể dục cũng rất quan trọng cho sinh viên trong thời đại mới. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII đã chỉ rõ: “cơ thể cường tráng là cơ sở vật chất của đời sống vật chất và tinh thần của xã hội”. Không có thể chất cường tráng, sinh viên khó hoàn thành nhiệm vụ học tập và khó phát huy tác dụng của mình trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước trong tương lai.

Hồ Chủ Tịch cũng đã chỉ rõ cho thanh niên: “phải rèn luyện thân thể cho khỏe mạnh. Khỏe mạnh thì mới có đủ sức để tham gia một cách dẻo dai, bền bỉ những công việc ích nước lợi dân”. Những quan điểm đó của nhà lãnh đạo cách mạng là tư tưởng chỉ đạo cho GDTC trường học, đồng thời cũng chỉ rõ vị trí, ý nghĩa quan trọng của GDTC trong giáo dục toàn diện, cũng như mối quan hệ biện chứng giữa thể dục, đức dục và trí dục [37].

Trong thời kỳ mới - thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa càng yêu cầu cao đối với việc nâng cao thể chất cho sinh viên, sinh viên phải có sức khỏe tốt, thể chất phát triển một cách hài hòa để sau này khi ra trường có thể công tác trong điều kiện lao động với tốc độ cao, cường độ lớn và thần kinh căng thẳng đặc biệt đối với ngành nghề như hàng hải, hàng không, vận tải… Vì vậy, vai trò của GDTC đối với sinh viên có ý nghĩa hết sức to lớn.

+ Giáo dục thể chất trong sinh viên là cơ sở của TDTT toàn dân.

Bác Hồ đã từng nói: “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có được vẻ vang sánh vai với cường quốc năm Châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu”. GDTC trường học có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát triển và bồi dưỡng nhân tài, nâng cao trình độ thể thao nước nhà.

+ Giáo dục thể chất trường học có tác dụng quan trọng đối với việc đẩy mạnh phong trào TDTT quần chúng phát triển. Vì vậy, GDTC trong trường học có ý nghĩa chiến lược quan trọng đối với việc phát triển TDTT nước nhà, có tác dụng lâu dài, toàn diện và cơ bản.

+ Giáo dục thể chất trong sinh viên là một yếu tố tích cực phát triển đời sống văn hóa tinh thần. Giáo dục thể chất trong trường học có tác dụng to lớn trong việc xây dựng một nền văn hóa mới và con người mới. TDTT là biện pháp xây dựng những phẩm chất cao quý cho sinh viên. Cơ thể cường tráng, đặc biệt là hệ thống thần kinh khỏe mạnh, là cơ sở vật chất cho sự phát triển trí lực. Khoa học đã chứng minh, sự thông minh của con người có liên quan đến trạng thái kết cấu vật chất và cơ năng của đại não. Thường xuyên luyện tập TDTT có thể cung cấp đầy đủ dưỡng khí cho đại não, làm cho thần kinh ở đại não phát triển mạnh mẽ.

Rèn luyện GDTC và hoạt động TDTT với các hình thức khác nhau trong trường Đại học còn có thể trang bị thêm các trí thức, kỹ thuật và kỹ năng, làm phong phú thêm nội dung sinh hoạt văn hóa bổ ích.

Giáo dục thể chất trường học còn có tác dụng trong việc giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên. Luyện tập TDTT thường xuyên, có thể làm cho cơ thể đẹp, cân xứng về hình thể, đồng thời có những vai trò to lớn trong việc bồi dưỡng động tác đẹp, tư thế đẹp, tâm hồn đẹp và óc mỹ quan chính xác.

Giáo dục thể chất và tập luyện TDTT của sinh viên trong các trường Đại học - Cao đẳng hiện nay ở nước ta có một vai trò quan trọng trong việc giáo dục một nếp sống văn hóa lành mạnh, đồng thời nó là biện pháp hữu hiệu để chiếm lĩnh trận địa tư tưởng văn hóa ngoài giờ, ngăn ngừa và khắc phục các hành vi tiêu cực của sinh viên như: rượu chè, cờ bạc, ma túy…

Giáo dục thể chất trong sinh viên có ý nghĩa quan trọng trong việc giáo dục tư tưởng, đạo đức sinh viên, bồi dưỡng tốt về phẩm chất, ý chí, tác phong cũng như xây dựng một lối sống cao thượng cho sinh viên. Tính chất của các bài tập TDTT rất khác nhau là điều kiện hữu ích để bồi dưỡng lòng dũng cảm, tinh thần hợp tác, ý thức tập thể…. cho sinh viên.

Tính tranh đua cao độ trong thi đấu TDTT cũng tạo điều kiện để bồi dưỡng tinh thần sáng tạo, chí tiến thủ, phấn đấu vượt qua gian khổ, tinh thần trách nhiệm và trọng danh dự.

+ Giáo dục thể chất trong trường học góp phần làm phong phú đời sống xã hội hiện đại.

Ngoài vai trò nêu trên của GDTC trong nhà trường, nó còn góp phần làm phong phú xã hội ngày nay. Trong xã hội hiện đại, sinh hoạt thường ngày không tách rời với TDTT, trong đó giáo dục thể chất trường học đóng vai trò tích cực. Trong trường, khi sinh viên được giáo dục những kiến thức về hoạt động TDTT, sau này sẽ là người chủ động hoạt động TDTT trong đời sống xã hội, làm cho sinh hoạt của con người ngày thêm văn minh, hạnh phúc và phát triển.

Tóm lại, GDTC trường Đại học - Cao đẳng ngày càng có tác dụng to lớn lẫn cả chiều sâu và chiều rộng, có ý nghĩa chiến lược quan trọng, không những dừng lại ở chức năng tăng cường thể chất mà tác dụng đến việc phát triển cơ thể hài hoà, góp phần xây dựng cuộc sống văn minh cho con người.

1.4. Nhu cầu, động cơ và các khó khăn trở ngại khi tham gia hoạt động TDTT.

1.4.1. Khái quát về Nhu cầu.

Từ lâu nhu cầu đã là đối tượng nghiên cứu của hầu hết các ngành khoa học nghiên cứu sinh học và xã hội. Trong lĩnh vực kinh tế - xã hội vấn đề về nhu cầu được tìm thấy trong nghiên cứu của các nhà khoa học tên tuổi như Jeremy Bentham, Benfild, William Stanley Jevons, John Ramsay McCulloch, Edward S. Herman.( hok có tài liệu ). Đó là hiện tượng phức tạp, đa diện, đặc trưng cho mọi sinh vật. Sự hiện diện của nhu cầu ở bất kì sinh vật nào, ngay cả ở bất kì xã hội nào được xem như cơ thể sống phức tạp, là đặc điểm để phân biệt chủ thể đó với môi trường xung quanh.

Cho tới nay chưa có một định nghĩa chung nhất cho khái niệm nhu cầu. Các sách giáo khoa chuyên ngành hay các công trình nghiên cứu khoa học thường có những định nghĩa mang tính riêng biệt. Trong phạm vi nhận thức hiện tại có thể định nghĩa nhu cầu là tính chất của cơ thể sống, biểu hiện trạng thái thiếu hụt của chính cá thể đó và do đó phân biệt nó với môi trường sống. Nhu cầu tối thiểu nhất, hay còn gọi là nhu yếu tuyệt đối, đã được lập trình qua quá trình rất lâu dài tồn tại, phát triển và tiến hóa.

Nhu cầu được hiểu là sự cần thiết về một cái gì đó. Nhưng "cái gì đó" chỉ là hình thức biểu hiện bên ngoài của nhu cầu. Sau hình thức biểu hiện ẩn chứa bản chất của nhu cầu mà có thể tạm gọi là "nhu yếu". Nhu yếu đang nói đến lại có thể được xem là hình thức biểu hiện của một nhu yếu khác căn bản hơn. Như vậy khái niệm nhu cầu và nhu yếu mang tính tương đối với nhau. Điều đó cho thấy rằng nhu cầu của cơ thể sống là một hệ thống phức tạp, nhiều tầng lớp, bao gồm vô số các chuỗi mắc xích của hình thức biểu hiện và nhu yếu liên kết chằng chịt, có khả năng phát triển và đa dạng hóa. Tuy nhiên, để dễ nhận dạng, một nhu cầu riêng biệt đơn giản nhất được cấu thành bởi một nhu yếu và một hình thức biểu hiện.

Hình thức biểu hiện nhất định được cụ thể hóa thành đối tượng của một nhu cầu nhất định. Đối tượng của nhu cầu chính là cái mà nhu cầu hướng đến và có thể làm thỏa mãn nhu cầu đó. Một đối tượng có thể làm thỏa mãn một số nhu cầu, một nhu cầu có thể được thỏa mãn bởi một số đối tượng, trong đó mức độ thỏa mãn có khác nhau.

Tính đa dạng của đối tượng tạo nên sự vô hạn của nhu cầu. Alfred Marshall viết rằng: "Không có số để đếm nhu cầu và ước muốn". Về vấn đề cơ bản của khoa học kinh tế - vấn đề nhu cầu con người - hầu hết các sách đều nhận định rằng nhu cầu không có giới hạn.

Nhu cầu là một hiện tượng tâm lý của con người; là đòi hỏi, mong muốn, nguyện vọng của con người về vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển. Tùy theo trình độ nhận thức, môi trường sống, những đặc điểm tâm sinh lý, mỗi người có những nhu cầu khác nhau.

Nhu cầu là cảm giác thiếu hụt một cái gì đó mà con người cảm nhận được.

Nhu cầu là yếu tố thúc đẩy con người hoạt động. Nhu cầu càng cấp bách thì khả năng chi phối con người càng cao. Về mặt quản lý, kiểm soát được nhu cầu đồng nghĩa với việc có thể kiểm soát được cá nhân (trong trường hợp này, nhận thức có sự chi phối nhất định: nhận thức cao sẽ có khả năng kiềm chế sự thoả mãn nhu cầu).

Nhu cầu của một cá nhân, đa dạng và vô tận. Về mặt quản lý, người quản lý chỉ kiểm soát những nhu cầu có liên quan đến hiệu quả làm việc của cá nhân. Việc thoả mãn nhu cầu nào đó của cá nhân đồng thời tạo ra một nhu cầu khác theo định hướng của nhà quản lý, do đó người quản lý luôn có thể điều khiển được các cá nhân.

Nhu cầu là tính chất của cơ thể sống, biểu hiện trạng thái thiếu hụt hay mất cân bằng của chính cá thể đó và do đó phân biệt nó với môi trường sống. Nhu cầu tối thiểu hay còn gọi là nhu yếu đã được lập trình qua quá trình rất lâu dài tồn tại, phát triển và tiến hóa.

Nhu cầu chi phối mạnh mẽ đến đời sống tâm lý nói chung, đến hành vi của con người nói riêng. Nhu cầu được nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên cứu và sử dụng ở nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống, xã hội.

1.4.2. Tháp nhu cầu của Maslow (1954).

Theo Manfred Max-Neef (1991), các nhu cầu cơ bản của con người được xem là mang tính bản thể, có số lượng ít, có hạn và có thể phân loại được (khác với thuật ngữ kinh tế “nhu cầu” là vô hạn và không thể thỏa mãn hết).

Theo lý thuyết động cơ, nhu cầu là một động lực bên trong mỗi cá nhân, có thể được xem như một trạng thái tìm kiếm sự thỏa mãn hoặc giai đoạn tâm lý không hoàn hảo dẫn đến tìm kiếm trạng thái hoàn hảo (IFER/ DART, 1976, 2.46).

Theo một cách nhìn đơn giản, nhu cầu con người là điều gì đó thiếu hụt, được định nghĩa là “bất cứ sự thiếu hụt gì đó trong mỗi người nảy sinh do tự ý hoặc tâm lý” (Morgan & King, 1996). Nhu cầu thường được nhắc đến ám chỉ một động cơ hoặc trạng thái nội tâm hướng đến một động cơ, ví dụ như khi buồn ngủ thì con người có nhu cầu ngủ. Đây là phương pháp tiếp cận của Abraham Maslow (1943 & 1968), người phân tích về “nhu cầu cơ bản” nổi tiếng trên toàn thế giới. Maslow phát triển học thuyết về động cơ của con người, trong đó ông đề cập đến một số nhu cầu quan trọng và sắp xếp theo một hệ thống cấp bậc. Có mỗi một bậc nhu cầu được đáp ứng, con người lại tìm cách thỏa mãn bậc nhu cầu tiếp theo. Các cấp bậc bao gồm: Nhu cầu sinh lý, an toàn, xã hội, được tôn trọng và khẳng định bản thân. Vui chơi và giải trí cũng là thành tố quan trọng thỏa mãn ít nhất là 3 bậc cao nhất trong hệ thống nhu cầu của Maslow [41].

Theo bản năng tự nhiên mọi người sẽ cố gắng né tránh các tình huống tạo ra những cảm xúc xấu và nỗ lực tối đa để có được các điều kiện giúp cho chúng ta có những cảm xúc tốt. “Tất cả các điều kiện nhằm có cảm xúc tốt hoặc tránh được cảm xúc xấu hình thành nên khái niệm được gọi là “nhu cầu” của con người.”

Theo lý thuyết Maslow, mỗi cá nhân sẽ cần được thỏa mãn những nhu cầu theo các cấp độ từ 1 tới 5. Khi đã đạt được 1 nấc nhu cầu căn bản, cá nhân sẽ mong muốn được thỏa mãn nấc nhu cầu cao hơn.

thể hiện

bản thân

được tôn trọng

Được chấp nhận và yêu thương

an toàn cá nhân


Nhu cầu sinh tồn cơ bản

Hình 1.1 Tháp nhu cầu của Maslow

Mức 1 - Nhu cầu sinh tồn cơ bản. Đây là các nhu cầu cơ bản nhất để con người có thể tồn tại được trong xã hội như: ăn, uống, thở - hoạt động, đi lại - ngủ, nghỉ ngơi - suy nghĩ.

Mức 2 - Nhu cầu về an toàn cá nhân. Đây là nấc nhu cầu thứ 2 của con người, là các điều kiện cần thiết để duy trì sự an toàn của cá nhân trong xã hội như: nhà ở - giày dép, quần áo - phương tiện đi lại - công việc (thu nhập) - các kiến thức nền tảng (đọc, viết).

Mức 3 - Nhu cầu được chấp nhận và yêu thương. Hầu hết các xúc cảm tốt được tạo ra từ những mối quan hệ tương tác giữa người với người, do vậy cá nhân luôn có nhu cầu được thuộc về một tập thể lớn để được chia sẻ, được yêu thương, được đóng góp.

Mỗi cá nhân cùng lúc có thể tham gia vào nhiều tập thể khác nhau. Tùy theo các đặc thù riêng về chủng tộc, giới tính, địa phương, ngành nghề, tôn giáo mà cá nhân sẽ chọn cho mình những tập thể phù hợp.

Mức 4 - Nhu cầu được tôn trọng. Khi cá nhân đã là thành viên trong tập thể, nấc nhu cầu kế tiếp là “được tôn trọng” - nói cách khác là “Địa vị xã hội”. Địa vị xã hội cao sẽ cho phép cá nhân được tác động, sai khiến người khác làm công việc thay cho họ, tuân phục họ, ca ngợi họ. Theo tư tưởng phong kiến của Châu Á thì loại nhu cầu này được coi như nấc cuối cùng của xã hội.

Mức 5 - Nhu cầu hiện thực hóa bản thân hay nhu cầu thể hiện bản thân. Nhu cầu này chính là nấc nhu cầu cao nhất của con người - Được làm “những điều vĩ đại - có ý nghĩa lớn lao - tác động đến xã hội” - Được xã hội ghi nhận.

Trong xã hội Phương Tây, nhu cầu này đặc biệt được coi trọng và được khuyến khích. Đây cũng chính là lý do tuy ra đời chậm hơn nền văn minh Châu Á, nhưng xã hội Phương Tây đã có những bước phát triển vượt bậc và vượt lên dẫn đầu trong vòng chỉ vài thế kỷ.

Các loại nhu cầu trên đây thực tế chỉ là bề nổi, là mặt bên ngoài, thể hiện các loại ham muốn của con người để có được các cảm xúc tốt. Trên thực tế, rất khó để tính hết được các loại nhu cầu cụ thể của con người.

Năm nhóm nhu cầu theo phân loại của Maslow giúp chúng ta thấy được những nhóm mục đích chính dẫn dắt các hành vi con người để hướng tới sự thoả mãn theo các tiêu chí do xã hội đặt ra.

1.4.3. Động cơ tham gia TDTT:

Trong thể thao giải trí và thể thao thi đấu có rất nhiều khía cạnh tạo ra sự thu hút các đối tượng tham gia. Sự tham gia trong TTGT hay giải trí đơn thuần có sự liên quan chặt chẽ đến các động cơ của người tham gia.

Theo nghiên cứu của Kraus (1997), các động cơ tham gia giải trí bao gồm:

Con người tham gia giải trí để thư giãn hay giảm bớt áp lực công việc hay các tình trạng căng thẳng khác. Các hoạt động giải trí có thể là khán giả xem truyền hình, xem phim hay các dạng khác của các loại hình giải trí điện tử.

Đối với một số đối tượng tham gia, giải trí mang tính cạnh tranh, chủ động có thể cung cấp một nguồn giải trí khác làm giảm bớt tranh cãi hay thù hận, hoặc phải chống chọi lại với sự khắc nghiệt của môi trường phiêu lưu mạo hiểm.

Một số cá nhân tham gia các hoạt động giải trí liên quan đến dịch vụ cộng đồng hay tạo điều kiện cho họ được lãnh đạo trong các tổ chức tôn giáo hay cá nhân một nhóm người. Một vài người tham gia trong các hoạt động khuyến khích sử dụng thể lực và sức khỏe cao độ. Ngày càng có nhiều người tham gia vào các hoạt động giải trí điện tử và giao tiếp gồm chơi trò chơi điện tử, internet. Một số tham gia các lĩnh vực như văn hóa về âm nhạc, kịch nghệ, khiêu vũ, văn chương và nghệ thuật.

Ngoài các động cơ quen thuộc như tìm kiếm niềm vui, sự thư giãn, người ta còn tham gia giải trí và hoạt động TDTT vì nhiều động cơ khác, bao gồm các mục tiêu cá nhân theo nhu cầu có bạn bè, thoát khỏi trạng thái căng thẳng hoặc sự buồn chán của cuộc sống thường ngày, tìm kiếm thách thức, cảm giác hoàn thiện bản thân, thể lực tốt hay cảm giác thoải mái tinh thần. Việc tham gia hoạt động giải trí và TDTT còn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố tuổi tác, giới tính hay đặc điểm tính cách của người tham gia cũng như bản chất riêng biệt của các hoạt động (Kraus, 2001). Mull (2005) đặc biệt quan tâm đến đặc điểm phát triển của các nhóm tuổi, “hiểu được nhiệm vụ và nhu cầu phát triển của các nhóm tuổi giúp các nhà chuyên nghiệp về TTGT cung cấp các hoạt động nâng cao sự phát triển thể chất, nhận thức, tình cảm và xã hội”.

Mỗi cá nhân có cái nhìn về giá trị, tiêu chuẩn, sở thích và khả năng khác nhau. Người tham gia do đó có định hướng, nhu cầu và mong muốn khác nhau. Từ đó, theo Challedurai (2006), xem xét sự hài lòng của từng nhóm khác nhau là hợp lý. Nhà cung cấp dịch vụ cần biết không chỉ các môn thể thao được chọn tại các trung tâm TDTT mà còn thời gian giải trí, tình hình xã hội và thu nhập phụ thêm của người dân. Theo nghiên cứu của Ifedi (2008), khi con người có mức sống cao hơn, họ sẽ sẵn sàng tham gia vào các hoạt động thể thao và giải trí nhằm nâng cao cuộc sống. Mức sống cao hơn thì thu nhập con người sẽ tăng, chế độ nghỉ ngơi tốt hơn là nguyên nhân phù hợp để tham gia thể thao và xã hội hơn sẽ tập trung hơn vào việc phát triển hệ thống cơ sở vật chất thể thao. Những yếu tố này tác động đến sự tham gia thể thao và thúc đẩy người dân hướng theo động lực phát triển và nâng cao các điều kiện về thể chất và tinh thần.

1.4.4. Các khó khăn trở ngại khi tham gia hoạt động giải trí và TDTT:

Theo nghiên cứu của Kraus (1997), có những yếu tố có khuynh hướng ngăn chặn hay hạn chế sự tham gia các hoạt động giải trí và TDTT. Điều quan trọng là không phải chỉ hiểu được lý do tại sao con người tham gia theo đuổi các hoạt động giải trí và đạt được những gì từ các hoạt động đó, mà còn phải nắm được nguyên nhân gì làm cho họ không nắm bắt những cơ hội đó.

MacGuire và O’Leary đưa ra một số trở ngại chính làm hạn chế sự tham gia chung như là thiếu thời gian rảnh rỗi, sự quan tâm, khả năng tài chính, cơ sở vật chất, trang thiết bị/dụng cụ hay các kỹ năng. Trong mỗi trường hợp, họ đề nghị một số chiến lược có thể áp dụng để giảm khó khăn và thúc đẩy sự tham gia, như là tăng cường giáo dục về hoạt động cộng đồng, lập kế hoạch/thời gian biểu linh hoạt cho chương trình, giảm chi phí hay phạm vi trượt giá, và tăng cường thêm các địa điểm, môn chơi hay các cơ sở vật chất giải trí thích hợp.

Trong nghiên cứu của Scottvaf Munson (1997) về các đối tượng tham gia giải trí tại công viên Greater Cleverland, thu nhập là trở ngại lớn nhất đến sự tham gia của du khách. “Nhu cầu sử dụng của các công viên bị hạn chế bởi lo lắng về tội phạm, thiếu bạn cùng tham gia, sức khỏe kém, các vấn đề về phương tiện vận chuyển, và chi phí.” Một số lượng không nhỏ tuyên bố rằng “sẽ tham gia nếu họ được đảm bảo an toàn hơn, chi phí liên quan đến công viên giảm, và họ được hỗ trợ trong việc chăm sóc trẻ em hay các thành viên khác trong gia đình.”

Kraus (1997) cũng công bố một số nghiên cứu đề nghị một số lượng lớn các yếu tố xã hội và cá nhân liên quan đến quy trình chọn lọc và tham gia các hoạt động giải trí và TDTT. Những yếu tố này bao gồm các nhân tố như lứa tuổi, giới tính và chủng tộc. Ngoài ra, các khó khăn trở ngại còn liên quan đến các yếu tố tài chính, khả năng thể chất và tinh thần, thiếu kỹ năng hay không cảm thấy tự tin, hoặc nỗi lo sợ bị người khác từ chối.

1.5. Thực trạng công tác GDTC trường học tại VN.

Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam, Đảng và nhà nước ta luôn coi trọng công tác TDTT đối với thế hệ trẻ và khẳng định cần có chính sách giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ Việt Nam phát triển hài hòa, toàn diện các mặt thể chất, tinh thần, trí tuệ và đạo đức.

Công tác GDTC và hoạt động TDTT trong trường học là một mặt giáo dục quan trọng, không thể thiếu trong sự nghiệp GD&ĐT, góp phần thực hiện các mục tiêu: Nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài cho đất nước để đáp ứng nhu cầu đổi mới sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội. Nhà trường là cơ sở quan trọng để giáo dục và phát triển con người. Mục đích của GDTC cho SV – HS là góp phần đào tạo những chuyên gia có trình độ cao, có tri thức khoa học, những công nhân có tay nghề, có kỹ thuật, đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của lao động xã hội, xứng đáng với vai trò người chủ xã hội trong tương lai.

Chỉ thị 36 của Ban chấp hành Trung ương Đảng: “Hiệu quả GDTC trong các trường còn thấp, hai ngành Giáo dục – Đào tạo và Thể dục Thể thao phối hợp chỉ đạo cải tiến chương trình giảng dạy, tiêu chuẩn rèn luyện thân thể, đào tạo giáo viên TDTT cho trường học các cấp, tạo điều kiện cần thiết về cơ sở vật chất để thực hiện chế độ GDTC ở tất cả các trường học” [5].

Nhận thức được tầm quan trọng của công tác GDTC cho SV – HS, nhiều trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp đã thực hiện những quy định của Bộ GD&ĐT, đồng thời vận dụng sáng tạo, cải tiến chương trình theo điều kiện đặc thù của từng trường nhằm nâng cao chất lượng GDTC cho SV – HS.

Tuy nhiên, thực tiễn hiện nay cho thấy, nhiều công trình nghiên cứu, khảo sát của các nhà khoa học, giảng viên GDTC, cũng như dư luận xã hội phản ánh thông qua ý kiến của người học về thực trạng công tác GDTC trong trường học còn nhiều bất cập và chưa đạt hiệu quả như mong muốn, có thể nêu một số dẫn chứng cụ thể sau:

Thạc sĩ Đào Đức Tuyên, Phó trưởng Khoa Ngoại ngữ Trường ĐH Nông Lâm TP.HCM phát biểu: môn giáo dục thể chất được quy định trong chương trình khung của bộ, nên chăng đổi lại thành môn tự chọn vì như vậy sinh viên có thể chọn những môn thể thao phù hợp với điều kiện sức khỏe và thể lực của mình.

Nội dung giảng dạy không phù hợp với đại đa số trường đại học ở VN. Khi khảo sát một vòng ở những giờ dạy thể dục tại một số trường đại học trên địa bàn TP.HCM cho thấy các giờ dạy và học điền kinh chủ yếu mang tính đối phó. Hầu hết sinh viên chỉ có được sự thích thú với những giờ học môn thể thao tự chọn [24].

Để SV không còn tâm lí sợ học môn GDTC, hay học đối phó thì việc lựa chọn môn học phù hợp với thể trạng, chuyên ngành cũng như giới tính của đại đa số SV từng trường cụ thể là yếu tố cần thiết. Tại sao không có những cuộc trưng cầu ý kiến SV để không còn tình trạng học theo kiểu đối phó?

Đi tiên phong trong việc “xé rào” này là Trường Đại học Kinh tế TP.HCM. Theo ông Lê Đào Ái Quốc - giảng viên bộ môn Taekwondo khoa Giáo dục thể chất, xuất phát từ thực tế sinh viên quá chán ngán khi học các môn chạy, nhảy, đẩy nên nhà trường đã mạnh dạn cắt những tiết học không cần thiết để thay thế bằng những môn tự chọn như bóng chuyền, bóng bàn và taekwondo… những buổi học thể dục của sinh viên đã sôi động và hào hứng hơn hẳn những trường bám theo chương trình của Bộ GD&ĐT. Tương tự các trường Đại học Dân lập Hồng Bàng, Cao đẳng Cao Thắng, ĐH Nông lâm, ĐH Sư phạm TP.HCM… Điều thú vị là những trường “xé rào” đều là những trường có phong trào TDTT mạnh vào loại hàng đầu hiện nay [36].

Giáo dục thể chất là môn học chính trong các trường đại học, thế nhưng có một thực tế đáng buồn là khi hỏi các sinh viên: “Bạn có thích học môn GDTC không?” thì tất cả đều lắc đầu thở dài: “Càng học càng mệt!”. Thay vì tìm thấy sự thoải mái để thư giãn thì môn thể dục lại là môn học khô cứng, càng học càng mệt mỏi. Sự khủng khiếp còn ghê gớm hơn nếu SV nào lỡ đăng ký học ca 3 (từ 13-15g). Khi ấy ngoài những vòng chạy dài, họ còn phải chịu đựng cái nắng cháy da của buổi trưa [23].

Tìm hiểu việc học giáo dục thể chất tại một số trường ĐH, Cao đẳng có thể dễ dàng nhận thấy một thực tế là nhiều trường không có hệ thống sân bãi cho việc học môn này, một số trường có nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu học thể dục cho SV. Tình trạng không có sân tập phải tập tại sân trường hoặc thuê, nhờ địa điểm khác… hệ quả là SV phải di chuyển khác xa, mất nhiều thời gian, công sức, chi phí cho việc di chuyển đến nơi học [28].

Gần đây, một số trường đã linh hoạt điều chỉnh khung chương trình để tạo thuận lợi cho SV. Trong đó một số điều chỉnh được đánh giá là mang tính tích cực trong việc nâng cao hiệu quả GDTC là: SV được chọn môn ưa thích, phù hợp với khả năng; Phát triển các môn thể thao giải trí mới theo điều kiện cụ thể từng trường; Sắp xếp thời gian học hợp lý hơn; Tăng cường hoạt động TDTT ngoại khóa thông qua hình thành các CLB TT; Đổi mới nội dung lý thuyết trong chương trình nội khóa…

Bộ GD&ĐT tiến hành khảo sát các trường đại học công lập trên cả nước. Kết quả hầu hết các trường không lập và thực hiện quy hoạch xây dựng theo quy định của Luật Quy hoạch đô thị. Bình quân diện tích đất cho một sinh viên (SV) quá thấp, khoảng 35,7 m2, trong khi tiêu chuẩn là 55 - 85 m2 một SV; 40% trường có quỹ đất dành cho SV dưới 5 m2. Do thiếu quỹ đất nên hầu hết diện tích trường chỉ dành để xây phòng học, diện tích dành để tập thể dục thể thao hầu như không có [26].

Vụ trưởng Vụ Công tác học sinh sinh viên, Bộ GD&ĐT Phùng Khắc Bình cho biết, công tác giáo dục thể chất và y tế trường học sẽ được đặc biệt quan tâm với yêu cầu các cấp quản lý nâng cao nhận thức đối với công tác này trong việc giáo dục toàn diện cho học sinh, sinh viên. Theo đó, các giải pháp hữu hiệu trong việc rèn luyện thân thể, chăm sóc sức khỏe sẽ được đưa ra trên cơ sở nghiên cứu động cơ, sự ham thích của người học [14].

Ngày 16/1/2010, đã diễn ra Hội nghị Giáo dục thể chất và y tế trường học lần thứ V tại Trường Đại học Hàng Hải (Hải Phòng). Đã có trên 100 báo cáo khoa học có tính thực tiễn cao đề cập và đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa cả về nội dung, phương pháp về các điều kiện đảm bảo đồng bộ cho công tác giáo dục thể chất và y tế trường học trong giai đoạn mới. Kết luận của hội nghị nêu ra các định hướng nghiên cứu, trong đó định hướng thứ 2 là: Nghiên cứu khoa học giáo dục thể chất và y tế trường học phải xuất phát từ nhu cầu người học, nhu cầu giáo dục và thực tiễn xã hội [8].

1.6. Các công trình nghiên cứu có liên quan:

Tại Đại hội đồng lần thứ 27 của UNESCO vào tháng 11/1993, các báo cáo đã đề cập nhiều đến vai trò quan trọng của giáo dục (GD) trong thế kỷ XXI là chìa khóa tiến tới một thế giới tốt đẹp hơn; các báo cáo đều cho thấy vai trò của GD là phát triển tiềm năng con người, GD là đòn bẫy mạnh mẽ nhất mà nhân loại cần có để tiến vào tương lai; GD là quyền cơ bản nhất của con người.

Vì vậy, phải quan niệm đầy đủ hơn vai trò của GD trong công cuộc phát triển con người trong thời đại mới (thế kỷ XXI), đó là GD không chỉ là tích tụ tri thức mà còn thức tỉnh tiềm năng sáng tạo to lớn trong mỗi con người, cho phép tất cả mọi người phát triển tất cả tiềm năng, đóng góp tốt hơn cho xã hội. Để thực hiện tốt quyền và trách nhiệm này, đòi hỏi con người không chỉ có trí tuệ mà cần phải có đầy đủ năng lực thể chất, phát huy tốt nhất các phẩm chất và khả năng của bản thân. Vì vậy, vấn đề nghiên cứu về phát triển năng lực thể chất cho con người, đặc biệt là trong lứa tuổi HS-SV trong những năm thế kỷ XXI đều được hầu hết các nước trên thế giới quan tâm, trong đó có Việt Nam.

Tổng hợp từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau cho thấy từ năm 2000 đến nay, có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến công tác TDTT trường học. Các kết quả nghiên cứu này là cơ sở cũng như đã tạo tiền đề để xác định nhiệm vụ của luận văn. Có thể nêu dưới đây một số công trình tiêu biểu mà luận văn tiếp cận được.

Năm 2008, tác giả Vũ Đức Văn với luận án “Nghiên cứu một số giải pháp nâng cao chất lượng GDTC cho HS THCS của thành phố Hải Phòng” đã lựa chọn và ứng dụng hai giải pháp sư phạm vào thực tiễn GDTC ở các trường THCS Hải Phòng là đổi mới khâu chuẩn bị của giảng viên và lựa chọn phương pháp, hình thức dạy học theo hướng tích cực hóa.

Năm 2011, tác giả Nguyễn Văn Thời với nghiên cứu “Dạy học tự chọn GDTC theo chủ đề và hoạt động ngoại khóa tự nguyện trong các trường THCS”, đã làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn về dạy học tự chọn theo chủ đề bám sát ở HS THCS.

Luận án của Lê Trường Sơn Chấn Hải năm 2011 “Đổi mới chương trình GDTC cho sinh viên các trường đại học sư phạm vùng Trung Bắc theo hướng bồi dưỡng nghiệp vụ tổ chức hoạt động TDTT trường học” đã xác định luận cứ về đổi mới chương trình GDTC trong trường đại học sư phạm vùng Trung Bắc theo hướng lồng ghép mục tiêu đào tạo, mở rộng năng lực tổ chức GDTC trong quá trình đào tạo sinh viên; tạo ra cách nhìn mới về phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xã hội hóa TDTT trường học.

Năm 2011, tác giả Bùi Trọng Toại với đề tài “Nghiên cứu giải pháp nâng cao hiệu quả chương trình GDTC tại ĐH Tôn Đức Thắng thông qua quan điểm, mức độ hài lòng, nhu cầu và những khó khăn của sinh viên trong hoạt động TDTT”. Đề tài đã nghiên cứu được các quan điểm, mức độ hài lòng, nhu cầu và những khó khăn của sinh viên trường Đại học Tôn Đức Thắng. Qua đó, nghiên cứu đã đưa ra 20 giải pháp có ý nghĩa thiết thực trong việc nâng cao hiệu quả chương trình GDTC tại trường Tôn Đức Thắng.

Năm 2014, tác giả Lê Công Bằng thực hiện nghiên cứu:“Nhu cầu, động cơ và khó khăn của sinh viên khi tham gia các hoạt động thể thao ngoại khoá tại một số trường đại học Thành phố Hồ Chí Minh”. Đề tài đã nghiên cứu được nhu cầu, động cơ và khó khăn của sinh viên khi tham gia các hoạt động thể thao ngoại khóa tại 5 trường Đại học lớn trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Đề tài cũng đã đưa ra được 7 giải pháp để nâng cao chất lượng ngoại khóa tại 5 trường đại học gồm:


  • Cần ưu tiên các nhóm môn sinh viên ưa thích đưa vào chương trình ngoại khoá cho sinh viên theo hình thức tự chọn, thành lập câu lạc bộ thể thao ngoại khóa. Tuy nhiên, cần cân nhắc tuỳ theo điều kiện cơ sở vật chất, giảng viên, đặc điểm môn thể thao, giới tính, hệ đào tạo… để xác định các môn phù hợp
  • Bố trí huấn luyện viên (HLV), hướng dẫn viên hướng dẫn sinh viên tập luyện. Động viên, khuyến khích giảng viên có chuyên môn tham gia phụ trách các CLB hướng dẫn sinh viên tập luyện thể thao ngoại khóa.
  • Tạo môi trường, loại hình, điều kiện hoạt động TDTT ngoại khoá lôi cuốn sinh viên hoạt động trong thời gian rảnh rỗi. Giảm thiểu hạn chế các yếu tố trở ngại khi tham gia hoạt động thể thao ngoại khoá.
  • Tăng cường nhận thức cho sinh viên về lợi ích của hoạt động TDTT qua các động cơ: phát triển nhân cách, phát triển kỹ năng vận động, cũng như có cơ hội giao tiếp kết bạn.
  • Cần nâng cấp điều kiện cơ sở vật chất.
  • Tạo liên kết giữa các trường đại học, tăng cường tổ chức giải giao lưu thi đấu giữa các trường định kỳ hàng năm hoặc hàng quý theo từng nhóm môn thể thao. Nhu cầu thi đấu là từ 1 đến 3 tháng 1 lần.
  • Đảm bảo chế độ ưu đãi cho sinh viên khi tham gia các đội tuyển thi đấu thể thao.

CHƯƠNG II: PHƯƠNG PHÁP VÀ TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU

2.1. Phương pháp nghiên cứu

Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

2.1.1. Phương pháp đọc, phân tích và tổng hợp tài liệu có liên quan:

Là tìm đọc, phân tích và tổng hợp tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu như các: luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, các tạp chí sách báo chuyên ngành giáo dục và TDTT, các văn bản pháp quy về công tác GDTC trong trường học, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Nhà nước cũng như các văn bản của lãnh đạo ngành GD&ĐT, ngành TDTT… Từ việc phân tích tổng hợp các tư liệu, tác giả xác định được cơ sở lý luận, mục đích, nhiệm vụ của các vấn đề nghiên cứu. Danh mục các tài liệu nêu trên được trình bày trong “Danh mục tài liệu tham khảo”.

2.1.2. Phương pháp điều tra xã hội học:

2.1.2.1. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi

Là phương pháp thu thập thông tin xã hội về đối tượng nghiên cứu là sinh viên của trường Đại học Giao Thông Vận Tải TP.HCM thông qua tri giác trực tiếp và ghi chép trung thực những nhân tố có liên quan đến đối tượng và mục đích nghiên cứu.

2.1.2.2. Phương pháp phỏng vấn:

Phiếu phỏng vấn được xây dựng dựa trên các tài liệu, các đề tài nghiên cứu khoa học đã được công bố, đồng thời ứng dụng lý thuyết về tháp nhu cầu của Maslow (1943) và lý thuyết về những trở ngại khi tham gia giải trí của Alexandris và Caroll (1997).

Phiếu phỏng vấn gồm 3 phần – 50 mục hỏi: (phần phụ lục)

  • Phần 1. Thông tin cá nhân – Quan điểm và nhu cầu hoạt động TDTT: 16 mục hỏi.
  • Phần 2. Mức độ hài lòng về công tác GDTC nhà trường: 22 mục hỏi.
  • Phần 3. Khó khăn – trở ngại khi tham gia hoạt động TDTT tại nhà trường: 12 mục hỏi.

2.1.2.3. Phương pháp chuyên gia.

Là phương pháp thu thập và xử lý những đánh giá dự báo bằng cách tập hợp các ý kiến của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà quản lý TDTT, GDTC, về giải pháp nâng cao hiệu quả chương trình GDTC tại trường Đại học Giao Thông Vận Tải TP.HCM. Các bước tiến hành trong phương pháp này cụ thể như sau:

- Lựa chọn chuyên gia.

- Trưng cầu ý kiến chuyên gia về các nhóm giải pháp mà nghiên cứu đề xuất.

- Tổng hợp ý kiến thu thập được.

2.1.3. Phương pháp SWOT:

Phân tích những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức nhằm đưa ra các giải pháp theo mục tiêu của đề tài.




Chia sẻ với bạn bè của bạn:


Page 3


* Mục tiêu của GDTC trong các trường Đại học - Cao đẳng

- Thực hiện mục tiêu chung của giáo dục đại học và sau đại học đã nêu trong Luật Giáo dục là đào tạo người làm công tác chuyên môn, có phẩm chất chính trị, đao đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có sức khoẻ, có kiến thức thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Nâng cao sức khoẻ, thể lực và năng lực vận động, tăng cường hiệu quả học tập, lao động, sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc.

- Góp phần xây dựng cuộc sống văn hoá, tinh thần lành mạnh, ngăn ngừa các tệ nạn xã hội, phát triển và bồi dưỡng tài năng thể thao cho đất nước.

- Phấn đấu đưa việc dạy và học thể dục thành nề nếp trong các trường Đại học - Cao đẳng nâng cao một bước chất lượng giảng dạy trong giờ học nội khoá và ngoại khoá nhằm phát triển thể lực toàn diện, phát hiện và bồi dưỡng tài năng thể thao, nhằm nâng cao thành tích thể thao trong sinh viên.

- Cải tiến phương pháp, các hình thức giảng dạy, phấn đấu tạo điều kiện đảm bảo tối thiểu cho giáo dục thể chất về đào tạo bồi dưỡng cán bộ, cơ sở vật chất, kinh phí và chế độ đãi ngộ cho giáo viên thể dục - thể thao [28].

* Nhiệm vụ của GDTC trong các trường Đại học - Cao đẳng ở Việt Nam

Giáo dục thể chất trong các trường đại học là một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp TDTT và sự nghiệp GD&ĐT. Nó được tiến hành phù hợp với đặc điểm giải phẫu, tâm - sinh lý, giới tính và lứa tuổi sinh viên cùng với một số yêu cầu khác. Căn cứ vào nhiệm vụ chung của hệ thống GDTC, nhiệm vụ GDTC ở các trường Đại học - Cao đẳng được cụ thể hoá như sau:

a. Nhiệm vụ bảo vệ và nâng cao sức khoẻ

- Thúc đẩy sự phát triển hài hoà của cơ thể, giữ gìn và hình thành thân thể cân đối, nâng cao các khả năng chức phận của cơ thể, tăng cường quá trình trao đổi chất, cũng cố và rèn luyện hệ thần kinh vững chắc.

- Phát triển một cách vững chắc các tố chất thể lực và năng lực vận động cơ bản, nâng cao khả năng làm việc về trí óc và thể lực.

- Trên cơ sở phát triển thể chất, tổ chức các hoạt động vui chơi lành mạnh, nghỉ ngơi tích cực, rèn luyện và nâng cao khẳ năng chịu đựng về đề kháng của cơ thể đối với các ảnh hưởng bất lợi của môi trường bên ngoài, phòng chống bệnh tật.

b. Nhiệm vụ giáo dưỡng

- Trang bị cho sinh viên những tri thức về TDTT, kỹ năng, kỹ xảo vận động cần thiết cho các hoạt động khác nhau trong cuộc sống.

- Cung cấp các tri thức và rèn luyện thói quen giữ vệ sinh môi trường, vệ sinh tập luyện, nếp sống văn minh, lành mạnh.

- Phát triển hứng thú và nhu cầu rèn luyện thân thể cường tráng, hình thành thói quen tự tập luyện.

- Trang bị một số kiến thức về mặt tổ chức và phương pháp tiến hành một buổi tập luyện TDTT.

c. Nhiệm vụ giáo dục

Với tư cách là một mặt của giáo dục toàn diện, GDTC góp phần vào việc hình thành các thói quen đạo đức, phát triển trí tuệ, thẩm mỹ, chuẩn bị thể lực cho thanh niên, sinh viên đi vào cuộc sống lao động sản xuất, công tác. Đồng thời phải gắn liền với các yêu cầu cụ thể và các hoạt động chung của nhà trường.

d. Nhiệm vụ tiếp tục bồi dưỡng và phát triển nhân tài thể thao

Giáo dục thể chất có nhiệm vụ phát triển những nhân tài, năng khiếu trong các trường Đại học - Cao đẳng và trong điều kiện khả năng của mình bồi dưỡng nhân tài thể thao cho đất nước hoặc thông báo cho các tổ chức, cơ quan có trách nhiệm để kịp thời bồi dưỡng nhân tài thể thao [8].

Tóm lại, GDTC nhằm tạo nên những con người “Phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”. Vì vậy, trong giai đoạn phát triển của xã hội, GDTC không thể thiếu trong hệ thống giáo dục chung. Nhà giáo Thụy Sĩ Logan Pextalotxi đã khẳng định: “Các bài tập thể chất làm cũng cố và tô luyện cơ thể, xây dựng nền tảng để phát triển các tố chất vận động, chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc sống, tăng cường sức khỏe và phát triển trí lực”.

Giáo dục thể chất là một bộ phận của nền văn hóa xã hội, là di sản quý giá của loài người và là sự tổng hòa những thành tựu xã hội trong sự nghiệp sáng tạo và sử dụng những biện pháp chuyên môn để hoàn thiện thể chất con người, nâng cao sức khỏe. GDTC là một bộ phận của TDTT, đó còn là một trong những hình thức hoạt động cơ bản, có định hướng rõ rệt. GDTC là sự truyền thụ và tiếp thu có hệ thống những cách thức điều khiển hợp lý sự vận động của con người, qua đó sẽ hình thành kỹ năng, kỹ xảo vận động cơ bản cần thiết và những hiểu biết có liên quan [8].

Giáo dục thể chất trong các trường Đại học - Cao đẳng góp phần tích cực của mình vào thắng lợi chung của sự nghiệp giáo dục, góp phần củng cố nâng cao sức khỏe và xây dựng nếp sống mới của sinh viên trong nhà trường, đồng thời giúp sinh viên hiểu biết phương pháp khoa học để tiếp thu rèn luyện thân thể, xây dựng phong trào TDTT cơ sở.

Hiện nay, công tác GDTC trong các trường Đại học - Cao đẳng còn gặp nhiều khó khăn. Hầu hết các trường đã thực hiện đầy đủ chương trình cải tiến của Bộ GD&ĐT quy định. Tuy nhiên, chất lượng dạy còn thấp, phương pháp và hình thức dạy còn nghèo nàn, còn chưa lôi cuốn được đông đảo sinh viên ham thích và tự giác tập luyện, sinh viên học môn thể dục với tính cách đối phó và chưa thật sự nhận thức được tầm quan trọng của GDTC trong sự nghiệp giáo dục chung. Đội ngũ giáo viên còn thiếu về số lượng, chất lượng chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu GDTC trong các nhà trường, việc chuẩn hóa giáo viên chưa được quan tâm đúng mức. Cơ sở vật chất và phong trào TDTT còn yếu kém chỉ tập trung tại một số trường lớn [3].

Mục tiêu công tác GDTC và TDTT trường học là nhằm góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, quản lý kinh tế và văn hóa xã hội, phát triển hài hòa đáp ứng yêu cầu chuyên môn nghề nghiệp, có thể chất cường tráng.

Giáo dục thể chất và thể thao trường học duy trì và cũng cố sức khỏe, nâng cao trình độ thể lực cho sinh viên, rèn luyện thân thể, đạt tiêu chuẩn thể lực, trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về nội dung, phương pháp tập luyện, kỹ năng vận động và kỹ năng động tác một số môn thể thao, rèn luyện sinh viên ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần tập thể, xây dựng lối sống lành mạnh, tinh thần tự giác rèn luyện thân thể [3].




Chia sẻ với bạn bè của bạn:


Page 4


Vấn đề nghiên cứu

Thông tin đối tượng

nghiên cứu


- GIỚI TÍNH

- NĂM HỌC


NHU CẦU

MỨC ĐỘ HÀI LÒNG

KHÓ KHĂN – TRỞ NGẠI

Thống kê mô tả, t - test, one – way ANOVA

THỰC TRẠNG NHU CẦU, MỨC ĐỘ HÀI LÒNG

KHÓ KHĂN – TRỞ NGẠI TRONG THAM GIA HOẠT ĐỘNG TDTT

Phân tích SWOT

CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GDTC

Cấu trúc nghiên cứu


2.1.4. Phương pháp toán học thống kê.

Phân tích số liệu thu thập được, bao gồm:

Bước đầu tiên trong phương pháp Phân tích độ tin cậy nội tại, tôi nghiên cứu sử dụng phần mềm phân tích số liệu SPSS cho Windows phiên bản 16.0 để phân tích nhân tố (factor analysis) các số liệu vừa thu thập được để loại bỏ những thang đo của các mục hỏi không cần thiết.



  • Tính toán Phân tích nhân tố (factor analysis) với SPSS:
    • Tại Menu của SPSS chọn Analyze > Data reduction > Factor …
    • Trong hộp thoại này chọn các biến đưa vào ô Variables. Sau đó, nhấp vào các nút Descriptives, Rotation, và Options chọn các đại lượng thống kê cần thiết.
    • Trong hộp thoại Descriptives, nhấp chuột chọn KMO and Bartlett’s test of sphericity. Sau đó nhấp nút Continue để trở về hộp thoại đầu tiên.
    • Trong hộp thoại Rotation, nhấp chuột chọn Varimax. Sau đó nhấp nút Continue để trở về hộp thoại đầu tiên.
    • Trong hộp thoại Scores, nhấp chuột chọn Sorted by size và Suppress absolute values less than (chọn giá trị 0.3). Sau đó nhấp nút Continue trở về hộp thoại đầu tiên rồi nhấp Ok.
    • Sau khi phân tích nhân tố để loại bỏ những mục hỏi không cần thiết, bước tiếp theo là phân tích độ tin cậy nội tại (Internal Consistent Reliability Analysis).

  • Phân tích nhân tố khám phá EFE

  • Phân tích thống kê suy diễn gồm :

Phân tích sự khác biệt số trung bình 2 mẫu độc lập (independent sample t-test).

Phân tích phương sai một yếu tố (one-way ANOVA) để so sánh số trung bình giữa các nhóm, kết hợp với kỹ thuật hậu kiểm Scheffe (post – hoc Scheffe) để so sánh sự khác biệt giữa các số trung bình theo từng cặp có thể có.

2.2. Tổ chức nghiên cứu

2.2.1. Đối tượng nghiên cứu:

- Đối tượng nghiên cứu:

+ Thực trạng công tác GDTC tại trường Đại học Giao thông vận tải TP.HCM.

+ Các giải pháp nâng cao hiệu quả chương trình GDTC tại trường Đại học Giao thông vận tải TP.HCM.

- Khách thể nghiên cứu: 12 chuyên gia, cán bộ quản lý, giảng viên GDTC và 490 SV đã và đang học GDTC tại Nhà trường (67,35% là nam và 32,65% là nữ).

2.2.2. Địa điểm nghiên cứu:

- Trường Đại học Giao thông vận tải TP.HCM.

- Trường Đại học Thể dục Thể thao TP.HCM.

2.2.3. Kế hoạch tổ chức nghiên cứu:



TT

Nội dung

Thời gian

Địa điểm

Bắt đầu

Kết thúc
1 Chọn đề tài 11/2014 01/2015
Trường ĐH

TDTT TP.HCM


Xây dựng đề cương
Bảo vệ đề cương
2 Lập phiếu phỏng vấn 02/2015
Kiểm định độ tin cậy của phiếu phỏng vấn 03/2015
3 Lấy số liệu 03/2015 08/2015 Trường ĐH GTVT TP.HCM
4 Xử lý số liệu 09/2015 12/2015
Trường ĐH

TDTT TP.HCM


5 Viết luận văn 01/2016 05/2016
6 Hoàn thiện đề tài 06/2016 09/2016
7 Bảo vệ luận văn 09/2016

CHƯƠNG III: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN Chương này trình bày kết quả của các nhiệm vụ nhằm giải quyết mục đích nghiên cứu của đề tài. Nội dung chính của chương gồm 2 phần:
    • Đánh giá thực trạng công tác GDTC tại trường Đại học Giao thông Vận tải TP.HCM, thông qua quan điểm, nhu cầu, mức độ hài lòng, khó khăn – trở ngại của SV.
    • Đề xuất các giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả chương trình GDTC nội khóa cũng như đẩy mạnh hoạt động TDTT ngoại khóa của SV nhà trường.

3.1. Đánh giá thực trạng công tác GDTC tại trường Đại học Giao thông Vận tải TP.HCM, thông qua quan điểm, nhu cầu, mức độ hài lòng, khó khăn – trở ngại của SV.

3.1.1. Xây dựng phiếu phỏng vấn

Để xác định thực trạng nhu cầu, động cơ và khó khăn của sinh viên khi tham gia các hoạt động TDTT tại trường Đại học GTVT TP.HCM, đề tài thực hiện các bước sau:

  • Bước 1: Xây dựng phiếu phỏng vấn.
  • Bước 2: Phỏng vấn chuyên gia về nội dung phiếu phỏng vấn dự thảo
  • Bước 3: Phỏng vấn thử test – retest.
  • Bước 4: Phỏng vấn thu thập dữ liệu.
  • Bước 5: Phân tích dữ liệu
Qua quá trình tổng hợp tài liệu có liên quan cũng như tham khảo ý kiến của các chuyên gia, đề tài tiến hành xây dựng phiếu phỏng vấn dự kiến với 4 nội dung chính sau:
  • Thông tin cá nhân: sử dụng thang đo định danh với 2 mục thông tin cần thu thập.
  • Nhu cầu tham gia hoạt động TDTT: sử dụng thang đo định danh nhằm thu thập thông tin về nhu cầu đối với các môn thể thao cụ thể cũng như chi phí phù hợp, thời gian thích hợp có thể tham gia… với tổng số 16 mục thông tin.
  • Mức độ hài lòng khi tham gia hoạt động TDTT: sử dụng phương pháp thang đo Linkert 3 mức độ, với 22 biến quan sát để đánh giá các khía cạnh tạo nên động cơ tham gia hoạt động TDTT tại Trường.
  • Khó khăn – trở ngại khi tham gia hoạt động TDTT: sử dụng phương pháp thang đo Linkert 3 mức độ, với 12 biến quan sát để đánh giá các khía cạnh tạo nên động cơ tham gia hoạt động TDTT tại Trường.

Sau khi xây dựng mẫu phiếu điều tra dự kiến, đề tài gửi mẫu phiếu điều tra cho 12 chuyên gia, nhà khoa học để kiểm tra tính phù hợp và khả thi của phiếu điều tra. Kết quả phản hồi của các chuyên gia sẽ mang lại giá trị hợp lệ, tính tương quan cao giữa các nội dung của mẫu phiếu phỏng vấn.

Kết quả phỏng vấn tính phù hợp và khả thi của các nội dung trong phiếu phỏng vấn được trình bày qua bảng 3.1 sau:

Bảng 3.1: Kết quả phỏng vấn tính phù hợp và khả thi của nội dung phiếu phỏng vấn



TT

Mục hỏi

Ý kiến tán thành

Tỷ lệ %

A. Thông tin chung về nhân khẩu học
1 Giới tính 15/15 100
2 Sinh viên năm thứ mấy tại trường 15/15 100

B. Nhu cầu tham gia hoạt động TDTT của SV Đại học GTVT TP.HCM
1 Bạn thích chơi thể thao 15/15 100
2 Bạn thích xem thi đấu thể thao 15/15 100
3 Môn thể thao ưa thích nhất của bạn? 14/15 93
4 Trong 1 năm gần đây, trung bình, bạn tập luyện TDTT bao nhiêu lần / tuần? 15/15 100
5 Theo bạn, tập luyện TDTT bao nhiêu lần (buổi) / tuần là lý tưởng? 15/15 100
6 Hiện nay, trung bình bạn tập luyện bao nhiêu phút / lần? 15/15 100
7 Theo bạn, tập luyện TDTT bao nhiêu phút / lần là lý tưởng? 15/15 100
8 Theo bạn, giờ tập luyện lý tưởng nhất trong ngày thường? 14/15 93
9 Theo bạn, giờ tập luyện lý tưởng nhất trong ngày chủ nhật và ngày nghỉ? 15/15 100
10 Bạn thường xuyên tập luyện bao nhiêu môn? 15/15 100
11 Bạn thích chơi TT ngoài trời hay trong nhà? 15/15 100
12 Bạn thích chơi môn TT cá nhân hay tập thể? 15/15 100
13 Lợi ích của tập luyện TT đối với bản thân bạn là gì? 15/15 100
14 Bạn muốn tham gia vào một câu lạc bộ thể thao của nhà trường? 15/15 100
15 Qua các học kỳ, bạn muốn học chỉ 1 môn hay thay đổi môn khác sau từng học kỳ trong chương trình GDTC của nhà trường? 15/15 100
16 Do điều kiện sân bãi và cơ sở vật chất chưa đầy đủ, nhà trường không thể tổ chức giảng dạy tất cả các môn thể thao theo nhu cầu của sinh viên. Do đó, bạn có chấp nhận đóng chi phí thuê sân bãi để được học môn thể thao ưa thích (chương trình nội khóa)? 15/15 100

C. Mức độ hài lòng về công tác GDTC của nhà Trường

I. Cơ sở vật chất, sân bãi, thiết bị dụng cụ
1 Địa điểm sân tập 15/15 100
2 Trang thiết bị, dụng cụ tập luyện 15/15 100
3 Không gian sân tập (rộng rãi, thoáng mát…) 15/15 100
4 Tình hình vệ sinh ở sân tập (sạch sẽ, gọn gàng…) 15/15 100
5 Mức độ an toàn trong tập luyện 15/15 100
6 Dịch vụ ăn uống, gửi xe tại sân tập (giá cả, vệ sinh…) 15/15 100

II. Chương trình học tập
7 Môn học phù hợp với sở thích, năng lực 15/15 100
8 Thời khóa biểu phù hợp với các môn học khác 15/15 100
9 Mỗi tuần học 1 buổi là phù hợp 15/15 100
10 Thời gian 1 buổi học (3tiết) là phù hợp 15/15 100
11 Nội dung kiểm tra phù hợp với nội dung học và trình độ SV 15/15 100
12 Số lượng SV / lớp phù hợp 15/15 100
13 Đạt được mục tiêu thực hành (biết chơi môn TT) sau khi kết thúc chương trình học 15/15 100
14 Nắm được kiến thức về môn TT sau khi kết thúc chương trình học 15/15 100

III. Giảng viên và phương pháp giảng dạy
1 GV truyền đạt dễ hiểu, dễ tiếp thu 15/15 100
2 GV có phương pháp tổ chức lớp học tốt, kỷ luật lớp học tốt 15/15 100
3 GV có kết hợp giáo dục đạo đức, tâm lý cho SV 15/15 100
4 GV đánh giá SV một cách công bằng (kiểm tra cuối học phần, cuối kỳ) 15/15 100
5 GV có thái độ đúng mực, tôn trọng SV 15/15 100
6 GV luôn nhiệt tình hướng dẫn SV, nhất là các SV yếu. 13/15 86
7 Bài tập sinh động, không nhàm chán. 15/15 100
8 GV tạo được không khí học tập sôi động, vui vẻ 15/15 100

D. Khó khăn – trở ngại khi tham gia hoạt động TDTT
1 Áp lực học hành 15/15 100
2 Thời gian rảnh rỗi ít 15/15 100
3 Thời tiết (mưa, nắng khi tập ngoài trời) 15/15 100
4 Khoảng cách, thời gian di chuyển đến sân thể thao 15/15 100
5 Phương tiện di chuyển không thuận lợi 15/15 100
6 Giảng viên – Huấn luyện viên 15/15 100
7 Không khí lớp học 15/15 100
8 Không có môn chơi ưa thích 15/15 100
9 Sức khỏe, khả năng vận động hạn chế 15/15 100
10 Cơ sở vật chất, sân bãi tập luyện 15/15 100
11 Không thấy rõ lợi ích của tập luyện thể thao 15/15 100
12 Điều kiện sức khỏe của bản thân không cho phép. 15/15 100



Chia sẻ với bạn bè của bạn:


Page 5

Nhiệm vụ chung của thể dục thể thao trường học

trang5/11
Chuyển đổi dữ liệu16.09.2018
Kích0.55 Mb.
#33531

Như vậy, các nội dung trong phiếu phỏng vấn dự thảo đều nhận được ý kiến đồng thuận của các chuyên gia.

Để kiểm tra các nội dung phiếu phỏng vấn có gây khó hiểu cho đối tượng phỏng vấn và dẫn đến việc đưa ra câu trả lời không chính xác. Với phiếu phỏng vấn đã xây dựng, đề tài tiến hành phỏng vấn thử nghiệm 50 sinh viên lớp QL15A Trường Đại học Giao thông vận tải TP.HCM. Quá trình phỏng vấn được tiến hành 2 lần, mỗi lần cách nhau 7 ngày, với cùng nhóm khách thể trả lời phỏng vấn. Kết quả tính hệ số tương quan giữa 2 lần phỏng vấn được trình bày qua bảng 3.2 sau:


Bảng 3.2: Kết quả phỏng vấn thử test – retest



TT

Mục hỏi

Tương quan giữa 2 lần phỏng vấn (r)

MỨC ĐỘ HÀI LÒNG
1 Địa điểm sân tập 0.924
2 Trang thiết bị, dụng cụ tập luyện 0.884
3 Không gian sân tập (rộng rãi, thoáng mát…) 0.987
4 Tình hình vệ sinh ở sân tập (sạch sẽ, gọn gàng…) 0.841
5 Mức độ an toàn trong tập luyện 0.939
6 Dịch vụ ăn uống, gửi xe tại sân tập (giá cả, vệ sinh…) 0.858
7 Môn học phù hợp với sở thích, năng lực 0.879
8 Thời khóa biểu phù hợp với các môn học khác 0.991
9 Mỗi tuần học 1 buổi là phù hợp 0.868
10 Thời gian 1 buổi học (3tiết) là phù hợp 0.936
11 Nội dung kiểm tra phù hợp với nội dung học và trình độ SV 0.995
12 Số lượng SV / lớp phù hợp 0.856
13 Đạt được mục tiêu thực hành (biết chơi môn TT) sau khi kết thúc chương trình học 0.991
14 Nắm được kiến thức về môn TT sau khi kết thúc chương trình học 0.942
15 Môn học phù hợp với sở thích, năng lực 0.958

KHÓ KHĂN
16 Áp lực học hành 0.942
17 Thời gian rảnh rỗi ít 0.958
18 Thời tiết (mưa, nắng khi tập ngoài trời) 0.922
19 Khoảng cách, thời gian di chuyển đến sân thể thao 0.87
20 Phương tiện di chuyển không thuận lợi 0.864
21 Giảng viên – Huấn luyện viên 0.991
22 Không khí lớp học 0.991
23 Không có môn chơi ưa thích 0.868
24 Sức khỏe, khả năng vận động hạn chế 0.936
25 Cơ sở vật chất, sân bãi tập luyện 0.995
26 Không thấy rõ lợi ích của tập luyện thể thao 0.856
27 Điều kiện sức khỏe của bản thân không cho phép. 0.926

Kết quả tính toán cho thấy có sự tương quan chặt giữa 2 lần phỏng vấn ở tất cả các mục (r > 0.8), chứng tỏ các mục hỏi trong phiếu là rõ ràng, giúp người trả lời phỏng vấn hiểu câu hỏi và xác định câu trả lời chính xác. Có thể dùng phiếu phỏng vấn này để phỏng vấn chính thức.

Từ cơ sở trên, nghiên cứu xây dựng bộ phiếu khảo sát phục vụ cho nghiên cứu chính thức. Mẫu phiếu khảo sát chính thức bao gồm các phần như sau:
Bảng 3.3: Các nội dung trong phiếu khảo sát chính thức.


STT

Nội dung

Mục hỏi
1 Phần 1: Thông tin chung về mẫu nghiên cứu. 2
2 Phần 2: Nhu cầu tham gia hoạt động TDTT của SV Đại học Giao thông vận tải TP.HCM. 16
3
Phần 3: Mức độ hài lòng của SV đối với chương trình GDTC nội khóa hiện nay của nhà trường.

- Cơ sở vật chất, sân bãi, dụng cụ tập luyện

- Chương trình học tập

- Giảng viên và phương pháp giảng dạy



6

8

8
4 Phần 4: Những khó khăn – trở ngại của SV khi tham gia hoạt động TDTT tại nhà trường. 12

3.1.2. Thực trạng về chương trình giáo dục thể chất cho sinh viên trường Đại học GTVT TP.HCM.

3.1.2.1. Chương trình giáo dục thể chất.

Giảng dạy thể dục và tổ chức các hoạt động thể thao trong trường cho sinh viên Đại học là một hoạt động sư phạm mang đặc tính nhân văn nhằm hoàn thiện và phát triển các tố chất thể lực, nhân cách người sinh viên, góp phần thực hiện mục tiêu: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Xây dựng những lớp người chủ nhân của xã hội tương lai được phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, trong sáng về đạo đức, phong phú về tinh thần.

Để nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng được yêu cầu của trường Đại học GTVT TP.HCM trong tình hình mới hiện nay, và để góp phần chăm sóc sức khoẻ cho sinh viên, Bộ môn Giáo dục thể chất đã tiến hành xây dựng chương trình giảng dạy, thi kết thúc các học phần giáo dục thể chất áp dụng cho sinh viên hệ Đại học và Cao đẳng chính quy tập trung trong trường Đại học GTVT TP.HCM. Chương trình này hiện nay đã được áp dụng từ năm học 2001 – 2002 và thay thế chương trình giáo dục thể chất của những năm trước.

Theo quy định của Bộ Giáo dục & Đào tạo, căn cứ vào điều kiện thực tế của nhà trường, chương trình giáo dục thể chất (gồm 3 học phần: Điền kinh; Bóng chuyền (1, 2); Bơi (1, 2)). Do đặc điểm của từng chuyên ngành nên có những học phần không đồng nhất theo từng học kỳ, sinh viên chỉ đăng ký học hoàn thành 3 học phần thì được xét cấp chứng chỉ giáo dục thể chất.

Tổng quỹ thời gian trong toàn khóa học của chương trình giáo dục thể chất là 120 tiết cho khối ngành không đi tàu biển và 135 tiết cho khối ngành đi tàu biển (khoa Hàng hải, khoa Máy tàu thủy).

Nội dung cụ thể các môn học trong chương trình giáo dục thể chất cho sinh viên trường Đại học GTVT TP.HCM được trình bày ở bảng 3.4.

Bảng 3.4: Nội dung chương trình giáo dục thể chất cho sinh viên trường ĐH GTVT TP.HCM



TT

Học phần

Môn học

Nội dung

Lý thuyết

Thực hành

Tổng
1 I Điền kinh 06 39 45
2 II Bóng chuyền 1 06 39 45
3 III Bóng chuyền 2 04 26 30
Khối ngành không đi tàu biển 120
1 I Bơi 1 06 39 45
2 II Bơi 2 06 39 45
3 III Điền kinh. 06 39 45
Khối ngành đi tàu biển 135

Tại mỗi học phần, Bộ môn quy định điều kiện để các sinh viên đủ điều kiện tham dự thi kết thúc như sau:

- Phải tham gia học tập, tập luyện đầy đủ thời gian theo quy định.

- Có ý thức tổ chức kỷ luật, đạo đức tốt.

- Phải đạt yêu cầu các nội dung thực hành quy định trong học phần.

3.1.2.2. Thực trạng về nội dung, phương pháp tổ chức quá trình giảng dạy giáo dục thể chất.

3.1.2.2.1. Về nội dung.

Nhà trường đã thực hiện nghiêm túc chương trình giáo dục thể chất mà Bộ GD&ĐT ban hành, với nội dung chương trình gồm hai phần lý thuyết và thực hành:

- Phần lý thuyết chung và chuyên môn: Đã có đề cương chi tiết do Bộ môn biên soạn theo chương trình và tài liệu của Bộ GD&ĐT và Ngành Thể dục Thể thao ban hành, đã đáp ứng yêu cầu của chương trình quy định và quá trình học tập của học sinh sinh viên. Quá trình giảng dạy lý thuyết đã giúp cho sinh viên có nhận thức đúng đắn về vị trí vai trò tác dụng của công tác giáo dục thể chất trong nhà trường, trong tự rèn luyện sức khoẻ cũng như cung cấp được những hiểu biết về kỹ thuật động tác và nguyên tắc tập luyện rèn luyện thân thể và thi đấu thể thao.

- Phần thực hành: Việc giảng dạy kỹ thuật động tác được tiến hành trong các giờ lên lớp nội khóa theo thời khóa biểu của nhà trường. Nội dung chương trình gồm một số môn thể thao thể dục, nhảy xa, chạy ngắn, chạy cự ly trung bình, bóng chuyền, bơi lội. Trong từng học phần có kiểm tra đánh giá từng nội dung theo quy cách và quy phạm do Bộ môn quy định.

3.1.2.2.2. Về phương pháp tổ chức quá trình giáo dục.

Bộ môn tiến hành tổ chức quá trình giáo dục thể chất cho học sinh, sinh viên theo hai hình thức nội khóa và ngoại khóa.

- Giờ nội khóa: Là những buổi tập theo kế hoạch thời khóa biểu của nhà trường, theo quỹ thời gian, chương trình quy định, có quy cách kiểm tra đánh giá cho điểm.

Giờ nội khóa đã tiến hành giảng dạy kỹ thuật các môn thể thao trong chương trình môn học, và được tiến hành trong giờ học thể dục thể thao. Quá trình giảng dạy chưa cải tiến được phương pháp tổ chức buổi tập, chưa thay đổi nhiều nội dung, bài tập sinh động, chưa hướng dẫn và tổ chức cho sinh viên tập luyện theo các tiêu chuẩn rèn luyện thân thể.

- Giờ ngoại khóa: Bao gồm các buổi huấn luyện các đội tuyển tham gia các giải Ngành Giáo dục – Đào tạo, Hội sinh viên ở khu vực và toàn quốc. Tổ chức trọng tài các giải thể thao sinh viên trong toàn trường. Chưa có các hình thức tổ chức hướng dẫn sinh viên tập luyện để hoàn thiện các nội dung học tập chính khóa. Chưa phát động được phong trào tự rèn luyện tập luyện của sinh viên theo các nội dung, tiêu chuẩn rèn luyện thân thể. Nên chất lượng kiểm tra kỹ thuật và rèn luyện thân thể của sinh viên chưa được nâng lên.

Hoạt động xây dựng các câu lạc bộ thể thao chưa được coi trọng, chưa có các hình thức tập luyện theo nhóm có người hướng dẫn.

3.1.3. Nhu cầu tham gia hoạt động TDTT của SV Trường Đại học GTVT TP.HCM.

Chúng tôi đã thu thập số liệu trên 500 sinh viên của 04 khóa sinh viên Trường Đại học GTVT TP.HCM. Tỷ lệ phiếu thu lại đạt yêu cầu là 490 phiếu (chiếm tỷ lệ 98%).

Thống kê mô tả về nhân khẩu học của sinh viên Trường Đại học GTVT TP.HCM. được thể hiện trên Bảng 3.5.

Trong số người tham gia điều tra thì có 330 nam (chiếm 67.35%) và 160 nữ (chiếm 32.65%). Các đối tượng tham gia điều tra phân bố đầy đủ trên các năm học. Trong đó sinh viên năm thứ nhất chiếm đa số (47.34%), kế đến là năm thứ hai (32.86%), sau đó là sinh viên năm thứ ba (10.41%) và năm thứ tư (9.39%).

Bảng 3.5: Các đặc điểm nhân khẩu học của sinh viên


TT

Biến số

Nội dung

Tần suất

%
1 Giới tính Nam 330 67.35
Nữ 160 32.65
2 Năm học Năm thứ nhất 232 47.34
Năm thứ hai 161 32.86
Năm thứ ba 51 10.41
Năm thứ tư 46 9.39

Kết quả về nhu cầu tham gia hoạt động TDTT của SV Trường Đại học GTVT TP.HCM được thể hiện trong Bảng 3.6 dưới đây.

Về vấn đề sự ham thích tham gia các hoạt động thể thao tại Trường: có hơn 91.84% sinh viên quan tâm đến việc tham gia các môn thể thao tại Trường. Tuy nhiên, tỷ lệ ham thích xem thi đấu thể thao, hay tham gia cổ vũ các hoạt động thể thao có xu hướng giảm (chỉ còn 8.16%).

Hầu hết các sinh viên đều có tham gia ít nhất một môn thể thao tại Trường chiếm tỷ lệ 92.45%, trong đó số lượng sinh viên thường xuyên tập luyện 1 đến 2 môn thể thao chiếm 86.73%. Có 7.55% không thường xuyên tập luyện môn nào.

Nhu cầu cần thiết về lực lượng hướng dẫn viên và huấn luyện viên thể thao: Khi tham gia hoạt động thể thao, nhu cầu này của SV cũng rất lớn, chiếm đến gần 79.8% sinh viên yêu cầu phải có người hướng dẫn khi tham gia thể thao.

Qua kết quả phản ánh nhu cầu của sinh viên Trường Đại học GTVT TP.HCM thì có đến hơn 3/4 số lượng sinh viên được khảo sát mong muốn tham gia vào CLB Thể thao ngoại khóa của Trường, bên cạnh thời gian học chương trình Giáo dục thể chất chính khóa.

Đây là những điểm mạnh của SV nhà trường trong nhận thức về việc tham gia tập luyện TDTT, là cơ sở mang tính tiềm năng để phát triển hoạt động thể thao ngoại khóa tại nhà trường.

Bảng 3.6. Thực trạng các vấn đề về chương trình GDTC tại Trường.


TT

Biến số

Nội dung

Tần suất

%
1 Thích chơi thể thao Không 40 8.16
450 91.84
2 Thích xem thi đấu thể thao Không 92 18.78
398 81.22
3
Số môn thường xuyên

tập luyện



Page 6

Bảng 3.7 thể hiện kết quả về các vấn đề liên quan đến Chương trình GDTC nội khóa như các môn học tự chọn và chi phí. Trong đó, có đến hơn 59.39% sinh viên mong muốn các môn học trong chương trình GDTC nội khóa sẽ thay đổi theo từng học kỳ để tạo nên sự đa dạng và phong phú, ngoài ra còn giúp cho sinh viên tăng sự hiểu biết về nhiều môn thể thao. Với 28.57% SV mong muốn được học 1 môn ưa thích trong suốt chương trình GDTC nội khóa, đây cũng là nhu cầu hợp lý, chính đáng đối với các SV muốn nắm vững kỹ năng của 1 môn thể thao và phát triển thành tích thể thao qua các giải thi đấu. Đây chính là tiền đề để phát triển các CLB thể thao và thể thao thành tích cao của nhà trường.

Về vấn đề chi phí sân bãi khi sinh viên chơi các môn thể thao, có đến 65.92% sinh viên đồng ý đóng chi phí sân bãi nhằm tăng chất lượng chương trình GDTC nội khóa, còn lại 34.08% sinh viên không tán đồng ý kiến trên.

Bảng 3.7. Thực trạng các vấn đề liên quan đến Chương trình GDTC nội khóa



TT

Biến số

Nội dung

Tần suất

%

1

Học một môn ưa thích hay thay đổi trong chương trình nội khóa
Chỉ một môn 140 28.57%
Đổi môn sau từng học kỳ 291 59.39%
Không có ý kiến 59 12.04%

2

Chấp nhận đóng chi phí sân bãi
Không chấp nhận 167 34.08%
Chấp nhận 323 65.92%

Khi được hỏi ý kiến về loại hình thể thao mà sinh viên quan tâm thì có đến 49.4% số lượng sinh viên quan tâm đến các môn thể thao trong nhà. Số lượng sinh viên chọn lựa tham gia các môn thể thao ngoài trời chỉ chiếm 19.3%. Cuối cùng là khoảng 1/3 số lượng sinh viên quan tâm đến cả 2 loại hình thể thao trong nhà và ngoài trời.

Biểu đồ 3.1: Loại hình thể thao ưa thích của sinh viên
Trường ĐH GTVT TP.HCM
.

Khi được hỏi ý kiến về hình thức thể thao mà sinh viên quan tâm thì có đến 37.6% số lượng sinh viên quan tâm đến các môn thể thao cá nhân, 21.5% tham gia các môn thể thao tập thể, cuối cùng là 40.9% chọn cả 2 hình thức thể thao.


Biểu đồ 3.2: Hình thức thể thao ưa thích của SV Trường ĐH GTVT TP.HCM.

Kết quả tại Biểu đồ 3.3 cho thấy, số lượng SV tham gia hoạt động thể thao cao nhất là 1 buổi/tuần (chiếm 26.6%), ở vị trí thứ 2 là mức độ tham gia 2 lần/buổi (chiếm 24.8%) và ở vị trí thứ 3 là mức độ tham gia 3 lần/tuần (chiếm 21.5%). Trong khi đó, số buổi tập luyện lý tưởng nhất trong 1 tuần theo ý kiến của sinh viên tăng lên, cao nhất là 3 buổi/tuần (chiếm 31.3%). Số buổi tập luyện thể thao lý tưởng của sinh viên nằm ở mức tập luyện thường xuyên chiếm đến gần 2/3 số lượng sinh viên. Điều này cho thấy thời lượng tập luyện thể thao trong tuần chưa đáp ứng được nhu cầu của sinh viên.


Tỷ lệ phần trăm

Tần số tập luyện

Biểu đồ 3.3. So sánh giữa số buổi tập luyện thực tế và lý tưởng của SV

Kết quả ở Biểu đồ 3.4 cho thấy, thời gian tập luyện 1 buổi của sinh viên hiện nay phần lớn là 30 phút/buổi. Tuy nhiên thời gian lý tưởng nhất cho 1 buổi tập theo ý kiến đa số của sinh viên là 60 đến 90 phút. Như vậy, thời lượng tập luyện thể thao hiện nay ở trường chưa thể đáp ứng nhu cầu của sinh viên cả về thời gian tập luyện trong 1 buổi lẫn số buổi tập luyện trong tuần.


Tỷ lệ phần trăm


Thời gian (phút)

Biểu đồ 3.4: So sánh giữa thời gian tập luyện thực tế và lý tưởng của SV

Thời gian lý tưởng để tham gia thể thao được thể hiện trong Biểu đồ 3.5 dưới đây. Trong đó, thời gian lý tưởng nhất cho sinh viên tham gia các môn thể thao là thời gian trước 7h ở các ngày trong tuần (với 259 chọn lựa, chiếm 52.9%) lẫn ngày cuối tuần (với 181 chọn lựa, chiếm 36.9%). Kế đến là thời gian từ 7 đến 9h ở các ngày trong tuần (với 95 chọn lựa, chiếm 19.4%) lẫn ngày cuối tuần (với 167 chọn lựa, chiếm 34.1%) và thứ ba là thời gian từ 17h đến 19h ở các ngày trong tuần (với 81 chọn lựa, chiếm 16.5%) lẫn ngày cuối tuần (với 92 chọn lựa, chiếm 18.8%).

Qua các kết quả trên đây về thời gian tập luyện lý tưởng cho thấy hầu hết sinh viên đều muốn tập luyện vào những thời gian ngoài giờ học tập hoặc vào buổi sáng lúc thời tiết thuận lợi để chơi thể thao.


Tỷ lệ phần trăm

Thời gian

Biểu đồ 3.5: Thời gian tập luyện lý tưởng của sinh viên trong ngày

Với các vấn đề về lợi ích của việc tập luyện thể thao, vì đây là câu hỏi có nhiều sự lựa chọn, do đó đề tài đã sử dụng phương pháp đa phản hồi (Multiple response analysis) để thống kê và sắp thứ tự các lợi ích của tập luyện thể thao của các sinh viên Trường ĐH GTVT TP.HCM.

Qua kết quả của Bảng 3.8, động cơ “Duy trì và tăng cường sức khỏe thể chất và tinh thần” là động cơ quan trọng nhất (chiếm 20.2%) đối với sinh viên khi tham gia các hoạt động thể thao tại Trường Đại học GTVT TP.HCM; tiếp theo là động cơ “Thư giãn (giảm sự mệt mỏi, chán nản)” chiếm 17.2% và động cơ “Có dáng vóc, thể hình đẹp; tăng cân và giảm cân” chiếm 15.8%; động cơ thứ 4 là “Phát triển kỹ năng vận động” chiếm 12.8% và động cơ cuối cùng trong tốp 5 là “Có thêm cơ hội kết bạn, giao lưu, giao tiếp” chiếm 11.2%.

Bảng 3.8. Các nhận thức về lợi ích tập luyện thể thao của SV Trường ĐH GTVT TP.HCM.


Biến số

Nội dung

Tần suất

%

Lợi ích tập luyện thể thao


Duy trì tăng cường sức khỏe thể chất, tinh thần 398 20.2


Page 7

Đề tài đã tiến hành so sánh, đánh giá và xếp hạng để xác định được sự khác biệt giữa Giới tính, Năm học đối với nhu cầu tham gia các môn thể thao nhằm có được những định hướng phù hợp cho sự tham gia tập luyện thể thao của sinh viên Trường ĐH GTVT TP.HCM.

Giới tính:

Kết quả cho thấy các môn thể thao ưa thích của sinh viên Trường ĐH GTVT TP.HCM vẫn là các môn thể thao như: Bóng đá, Cầu lông, Bóng chuyền, Bơi lội, Võ Vovinam.

Tuy nhiên thứ tự chọn lựa các môn thể thao lại có sự khác biệt giữa nam và nữ. Đối với nam, môn thể thao ưa thích nhất là môn Bóng đá (chiếm 45.9% số lượng sinh viên nam) còn ở nữ là môn Cầu lông (chiếm 21.2% số lượng sinh viên nữ).

Ở môn thể thao được chọn lựa nhiều thứ 2, nam chọn môn Bóng chuyền để tham gia (chiếm tỷ lệ là 11.5%), còn nữ chọn môn Bơi lội (tỷ lệ là 15.0%). Ở môn thể thao được chọn lựa thứ 3, ở nam là môn Cầu lông (chiếm 11.0%) trong khi đó ở nữ là môn Bóng chuyền (chiếm 13.9%).

Ở nhóm môn được chọn thứ 4, có sự tương đồng ở nam và nữ sinh viên, họ chọn môn võ Vovinam để tham gia, ở nam là 9.2% và ở nữ là 12.8%.

Môn thể thao thứ 5 mà sinh viên chọn lựa lại có sự khác biệt giữa nam và nữ khi nam sinh viên chọn môn Bơi lội để tập luyện (chiếm 6.4%), trong khi đó đối với nữ là môn Thể dục nhịp điệu (chiếm 11.3%).

Các sự khác biệt ở Giới tính về sự chọn lựa các môn thể thao khác được thể hiện trong Bảng 3.12 dưới đây.

Bảng 3.12: So sánh giữa giới tính và các môn thể thao ưa thích nhất



Môn thể thao

Nam

Nữ

%

TT

%

TT
Bóng đá 45.9 1 0.7 10
Bóng chuyền 11.5 2 13.9 3
Bóng rổ 3.2 9 5.5 9
Bóng bàn 3.7 8 6.2 7
Cầu lông 11.0 3 21.2 1
Karatedo 4.1 7 5.8 8
Vovinam 9.2 4 12.8 4
Bơi lội 6.4 5 15.0 2
Điền kinh 5.5 6 7.3 6
Thể dục nhịp điệu 0 10 11.3 5

Năm học:

Kết quả cho thấy nhóm môn thể thao ưa thích của sinh viên Trường ĐH GTVT TP.HCM vẫn là các môn thể thao như Bóng đá, Bóng chuyền, Cầu lông, Vovinam và Bơi lội.

Tuy nhiên thứ tự chọn lựa các môn thể thao lại có sự khác biệt giữa các năm học. Đối với sinh viên năm nhất, môn thể thao ưa thích nhất là môn Bóng đá (chiếm 24.7% số lượng sinh viên năm nhất), môn thể thao ưa thích thứ hai là môn Cầu lông (chiếm 15.7%), môn thứ ba là môn Bơi lội (chiếm 12.3%), môn thứ tư là môn Võ Vovinam (chiếm 9.4%) và môn thứ 5 là Bóng chuyền (chiếm 8.5%).

Đối với sinh viên năm hai, môn thể thao ưa thích nhất lại là môn Võ Vovinam (chiếm 16.6% số lượng sinh viên năm hai), môn thể thao ưa thích thứ hai mới là môn Cầu lông (chiếm 15.3%), môn thứ ba là môn Bóng đá (chiếm 14.7%), môn thứ tư là môn Bơi lội (chiếm 11.0%) và môn thứ 5 là Bóng chuyền (chiếm 10.4%).

Đối với sinh viên năm ba, môn thể thao ưa thích nhất là môn Bóng chuyền (chiếm 23.5% số lượng sinh viên năm ba), môn thể thao ưa thích thứ hai là môn Bóng đá (chiếm 19.6%), môn thứ ba là môn Bơi Cầu lông (chiếm 17.6%), môn thứ tư là môn Võ Vovinam (chiếm 11.8%) và môn thứ 5 là Bơi lội (chiếm 9.8%).

Đối với sinh viên năm cuối, môn thể thao ưa thích nhất vẫn là môn Bóng chuyền (chiếm 32.6% số lượng sinh viên năm cuối), môn thể thao ưa thích thứ hai là môn Cầu lông (chiếm 25.5%), môn thứ ba là môn Bóng đá (chiếm 20.9%), môn thứ tư là môn Bơi lội (chiếm 9.3%) và môn thứ 5 là Điền kinh (chiếm 4.7%).

Các sự khác biệt ở Năm học về sự chọn lựa các môn thể thao khác được thể hiện trong Bảng 3.13 dưới đây.

Bảng 3.13: So sánh giữa năm học và các môn thể thao ưa thích nhất



Môn Thể thao

Năm nhất

Năm hai

Năm ba

Năm tư

%

TT

%

TT

%

TT

%

TT
Bóng đá 24.7 1 14.7 3 19.6 2 20.9 3
Bóng chuyền 8.5 5 10.4 5 23.5 1 32.6 1
Bóng rổ 5.1 9 4.3 10 3.92 7 2.3 6
Bóng bàn 5.1 9 6.7 9 1.96 8 2.3 6
Cầu lông 15.7 2 15.3 2 17.6 3 25.5 2
Karatedo 5.5 8 6.8 7 0 9 2.3 6
Vovinam 9.4 4 16.6 1 11.8 4 0 7
Bơi lội 12.3 3 11.0 4 9.8 5 9.3 4
Điền kinh 6.4 7 6.75 8 7.84 6 4.7 5
Thể dục nhịp điệu 7.2 6 7.36 6 3.92 7 0 7

3.1.4. Mức độ hài lòng của sinh viên về công tác GDTC nội khóa tại Trường ĐH GTVT TP.HCM.

3.1.4.1. Mức độ hài lòng của sinh viên về Cơ sở vật chất, sân bãi

Kết quả ở Biểu đồ 3.6 cho thấy sự hài lòng của sinh viên về Cơ sở vật chất, sân bãi ở mức Hài lòng (1.5 ≤ µ ≤ 2.5). Trong đó, yếu tố “Không gian sân tập” có mức độ hài lòng cao nhất với µ = 2.18 và yếu tố có mức độ hài lòng thấp nhất là “Dịch vụ ăn uống, giữ xe tại sân tập” với µ = 1.65.
Biểu đồ 3.6: Thống tả mức độ hài lòng của SV
về Cơ sở vật chất, sân bãi

Tuy nhiên, để xác định sự khác biệt về nhân khẩu học ở mức độ hài lòng của sinh viên về Cơ sở vật chất - Sân bãi, Đề tài sử dụng phương pháp phân tích kiểm nghiệm t một mẫu độc lập (t-test) và phương pháp phân tích phương sai một yếu tố (one-way ANOVA).

Giới tính:

Để xác định sự khác biệt về Giới tính trong mức độ hài lòng của sinh viên Trường ĐH GTVT TP.HCM về CSVC sân bãi, nhóm nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích kiểm nghiệm t một mẫu độc lập (t-test).

Kết quả phân tích ở Bảng 3.14 cho thấy có hai sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê giữa nam và nữ ở yếu tố “Vệ sinh sân tập” với p=.01<.05>

Bảng 3.14: So sánh giữa giới tính và mức độ hài lòng


đối với CSVC, sân bãi (t-test)

Yếu tố

Nam

(µnam)



Nữ

(µnữ)



T

P
Địa điểm sân tập 1.9 1.87 .113 n.s.
Trang thiết bị dụng cụ tập luyện 1.97 1.94 .116 n.s.
Không gian của sân tập 2.21 2.15 .457 n.s.
Vệ sinh sân tập 1.91 1.72 4.350 0.10
Độ an toàn trong tập luyện 2.07 2.05 0.36 n.s.
Dịch vụ ăn uống, giữ xe tại sân tập 1.76 1.55 8.788 .003

Ghi chú: n.s.: không có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê

Năm học:

Để xác định sự khác biệt giữa các nhóm Năm học trong mức độ hài lòng của sinh viên Trường ĐH GTVT TP.HCM về CSVC sân bãi, nhóm nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích phương sai một yếu tố (one-way ANOVA).

Kết quả phân tích ở Bảng 3.15 cho thấy không có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê giữa các nhóm Năm học trong sự hài lòng đối với các vấn đề CSVC sân bãi trong chương trình GDTC nội khóa tại Trường.

Bảng 3.15: So sánh năm học và cở sở vật chất (One-way ANOVA)



Yếu tố

F

P

Post-hoc (Scheffe)
Địa điểm sân tập .207 n.s.
Trang thiết bị dụng cụ tập luyện .434 n.s.
Không gian của sân tập .103 n.s.
Vệ sinh sân tập 1.166 n.s.
Độ an toàn trong tập luyện .062 n.s.
Dịch vụ ăn uống, giữ xe tại sân tập 2.127 n.s.

Ghi chú: n.s.: không có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê

3.1.4.2. Mức độ hài lòng của sinh viên về chương trình học tập

Kết quả ở Biểu đồ 3.7 cho thấy sự hài lòng của sinh viên về Chương trình học tập ở mức Hài lòng (1.5 ≤ µ ≤ 2.5). Trong đó, vấn đề “Mỗi tuần 1 buổi tập là phù hợp” có mức độ hài lòng cao nhất với µ = 2.25 và yếu tố có mức độ hài lòng thấp nhất là “Môn học phù hợp với sở thích, năng lực” với µ = 1.85.
Biểu đồ 3.7: Thống tả mức độ hài lòng của SV
về chương trình học tập

Qua kết quả trên cho thấy Bộ môn Giáo dục thể chất nên chú trọng về việc thiết kế chương trình GDTC nội khóa sao cho phù hợp với phần lớn yêu cầu của sinh viên.

Sau đó, để xác định sự khác biệt về nhân khẩu học ở mức độ hài lòng của sinh viên về Chương trình học tập, tác giả và nhóm cộng sự sử dụng phương pháp phân tích kiểm nghiệm t một mẫu độc lập (t-test) và phương pháp phân tích phương sai một yếu tố (one-way ANOVA).

Giới tính:

Để xác định sự khác biệt về Giới tính trong mức độ hài lòng của sinh viên Trường Đại học GTVT TP.HCM về chương trình học tập, tác giả và nhóm cộng sự sử dụng phương pháp phân tích kiểm nghiệm t một mẫu độc lập (t-test).

Kết quả phân tích ở Bảng 3.16 cho thấy có ba sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê giữa nam và nữ do có p < 0.05 ở yếu tố:

- Yếu tố “Mỗi tuần học một buổi là phù hợp”

- Yếu tố “Đạt được mục tiêu thực hành sau khi kết thúc chương trình học”

- Yếu tố “Nắm được kiến thức về môn thể thao sau khi kết thúc chương trình học”

Trong đó mức độ hài lòng của nam ở yếu tố” Mỗi tuần học một buổi là phù hợp” cao hơn nữ, hai yếu tố còn lại là “Đạt được mục tiêu thực hành sau khi kết thúc chương trình học” và yếu tố “Nắm được kiến thúc về môn thể thao sau khi kết thúc chương trình học” của nữ cao hơn nam.

Bảng 3.16. So sánh Giới tính và Chương trình học tập (t-test)



Yếu tố

Nam

µnam



Nữ

µnữ



t

P
Môn học phù hợp với sở thích, năng lực 1.83 1.87 .178 n.s.
Thời khóa biểu phù hợp với các môn học khác 2.02 2.09 .508 n.s.
Mỗi tuần học một buổi là phù hợp 2.11 2.35 6.744 .001
Thời gian 1 buổi học (3 tiết) là phù hợp 2.20 2.17 .105 n.s.
Nội dung kiểm tra phù hợp với nội dung học và trình độ sinh viên 2.02 2.12 1.357 n.s.
Số lượng SV/ lớp phù hợp 2.02 2.06 .153 n.s.
Đạt được mục tiêu thực hành sau khi kết thúc chương trình học 2.13 1.87 8.196 .000
Nắm được kiến thúc về môn thể thao sau khi kết thúc chương trình học 2.15 1.87 9.150 .000

Ghi chú: n.s.: không có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê

Năm học:

Để xác định sự khác biệt giữa các nhóm Năm học trong mức độ hài lòng của sinh viên Trường ĐH GTVT TP.HCM về Chương trình học tập, tác giả sử dụng phương pháp phân tích phương sai một yếu tố (one-way ANOVA).

Kết quả phân tích ở Bảng 3.17 cho thấy các yếu tố “Môn học phù hợp với sở thích, năng lực” với p = .004 < .05, “Thời gian 1 buổi học (3 tiết) là phù hợp” với p = .003 < .05, “Mỗi tuần học một buổi là phù hợp” với p = .001 < .05 và “Thời khóa biểu phù hợp với các môn học khác” với p = .001 < .05 có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê giữa các Năm học.

Trong đó, chỉ có 3 yếu tố khác biệt mang ý nghĩa thống kê giữa các nhóm Năm học là:



  1. Với yếu tố “Môn học phù hợp với sở thích, năng lực”, mức độ hài lòng của nhóm “Năm nhất cao hơn nhóm “Năm ba”, “Năm hai” và ” “Năm tư”.

  2. Với yếu tố “Mỗi tuần học 1 buổi là phù hợp”, mức độ hài lòng của nhóm “Năm hai” và “Năm nhất” cao hơn nhóm “Năm tư” và “Năm ba”.

  3. Với yếu tố “Thời gian 1 buổi học (3 tiết) là phù hợp”, mức độ hài lòng của nhóm “Năm ba” và “Năm tư” cao hơn nhóm “Năm hai” và “Năm nhất”.

Các yếu tố khác không có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê giữa các nhóm.

Bảng 3.17: So sánh năm học và chương trình học tập (One-way ANOVA)



Yếu tố

F

P

Post-hoc (Scheffe)
Môn học phù hợp với sở thích , năng lực 4.152 0.004 µ1 > µ2, µ3, µ4
Thời khóa biểu phù hợp với các môn học khác 4.386 0.006
Mỗi tuần học một buổi là phù hợp 7.683 0.001 µ1, µ2 > µ3, µ4
Thời gian 1 buổi học (3 tiết) là phù hợp 4.619 0.03 µ3, µ4 > µ2, µ1
Nội dung kiểm tra phù hợp với nội dung học và trình độ sinh viên 1.531 n.s.
Số lượng SV/ lớp phù hợp 1.431 n.s.
Đạt được mục tiêu thực hành sau khi kết thúc chương trình học .412 n.s.
Nắm được kiến thúc về môn thể thao sau khi kết thúc chương trình học .729 n.s.

Ghi chú: n.s.: không có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê

3.1.4.3. Mức độ hài lòng của sinh viên về Giảng viên và phương pháp giảng dạy

Kết quả ở Biểu đồ 3.8 cho thấy sự hài lòng của sinh viên về Giảng viên và Phương pháp giảng dạy ở mức Hài lòng (1.5 ≤ µ ≤ 2.5). Trong đó, vấn đề “Giảng viên đánh giá sinh viên một cách công bằng” có mức độ hài lòng cao nhất với µ = 2.18 và yếu tố có mức độ hài lòng thấp nhất là vấn đề “Bài tập sinh động, không nhàm chán” với µ = 1.9.

Qua kết quả trên cho thấy Bộ môn Giáo dục thể chất nên chú trọng về việc thiết kế các bài tập trong chương trình GDTC nội khóa sao cho phong phú, đa dạng và thu hút sinh viên hơn nữa.


Biểu đồ 3.8: Thống tả mức độ hài lòng của SV


về Giảng viên & Phương pháp giảng dạy

Sau đó, để xác định sự khác biệt về nhân khẩu học ở mức độ hài lòng của sinh viên về Giảng viên và Phương pháp giảng dạy, Đề tài sử dụng phương pháp phân tích kiểm nghiệm t một mẫu độc lập (t-test) và phương pháp phân tích phương sai một yếu tố (one-way ANOVA).


Giới tính:

Để xác định sự khác biệt về Giới tính trong mức độ hài lòng của sinh viên Trường Đại học GTVT TP.HCM về Giảng viên và Phương pháp giảng dạy, tác giả đã sử dụng phương pháp phân tích kiểm nghiệm t một mẫu độc lập (t- test).

Kết quả phân tích ở Bảng 3.18 cho thấy chỉ có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê giữa nam và nữ ở vấn đề “GV truyền đạt dễ hiểu, dễ tiếp thu” với p = .002 < .05 và “Bài tập sinh động, không nhàm chán” với p = .003 < .05, trong đó mức độ hài lòng về Giảng viên và Phương pháp giảng dạy của nữ sinh viên cao hơn nam.

Bảng 3.18: So sánh Giới tính và Phương pháp giảng dạy (t-test)



Yếu tố

Nam

Nữ

t

P
µnam SD µnữ SD
GV truyền đạt dễ hiểu, dễ tiếp thu 2.11 .675 2.19 .590 -2.987 .002
GV có phương pháp tổ chức lớp học tốt, kỷ luật lớp học tốt 2.13 .649 2.15 .563 -1.644 n.s.
GV dạy kết hợp giáo dục đạo đức, tâm lý cho SV 1.95 .672 2.16 .697 -.876 n.s.
GV đánh giá SV một cách công bằng 2.14 .641 2.23 .627 -1.851 n.s.
GV có phong cách đúng mực, tôn trọng SV 1.96 .631 2.07 .678 -1.681 n.s.
GV luôn nhiệt tình hướng dẫn SV, nhất là các SV yếu 2.06 .623 2.13 .651 -1.209 n.s.
Bài tập sinh động, không nhàm chán 1.82 .589 1.96 .613 -3.295 .003
GV tạo được không khí học tập sôi động, vui vẻ 1.88 .601 2.01 .639 -.772 n.s.

Ghi chú: n.s.: không có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê

Năm học:

Để xác định sự khác biệt giữa các nhóm Năm học trong mức độ hài lòng của sinh viên Trường Đại học GTVT TP.HCM về Giảng viên và Phương pháp giảng dạy, Đề tài đã sử dụng phương pháp phân tích phương sai một yếu tố (one-way ANOVA).

Kết quả phân tích ở Bảng 3.17 cho thấy các yếu tố như “GV truyền đạt dễ hiểu, dễ tiếp thu” với p = .001 < .05, “GV luôn nhiệt tình hướng dẫn SV, nhất là các SV yếu” với p = .004 < .05, “Bài tập sinh động, không nhàm chán” với p = .002 < .05 và “GV tạo được không khí học tập sôi động, vui vẻ” với p = .021 < .05 có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê giữa các Năm học.

Trong đó, chỉ có 4 yếu tố khác biệt mang ý nghĩa thống kê giữa các nhóm Năm học là:



  1. Với yếu tố “GV truyền đạt dễ hiểu, dễ tiếp thu”, mức độ hài lòng của nhóm “Năm tư” và “Năm ba” cao hơn so với nhóm “Năm hai” và “Năm nhất”.

  2. Với yếu tố “GV luôn nhiệt tình hướng dẫn SV, nhất là các SV yếu”, mức độ hài lòng của nhóm “Năm nhất” cao hơn so với nhóm “Năm hai”, “Năm tư”, “Năm ba”.

  3. Với yếu tố “Bài tập sinh động, không nhàm chán” , mức độ hài lòng của nhóm “Năm hai” và “Năm nhất” cao hơn so với nhóm “Năm tư” và “Năm ba”.

  4. Với yếu tố “GV tạo được không khí học tập sôi động, vui vẻ”, mức độ hài lòng của nhóm “Năm hai” và “Năm nhất” cao hơn so với nhóm “Năm tư” và “Năm ba”.

Các yếu tố khác không có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê giữa các nhóm.

Bảng 3.19: So sánh năm học và phương pháp


giảng dạy (One-way ANOVA)

Yếu tố

F

P

Post-hoc (Scheffe)
GV truyền đạt dễ hiểu, dễ tiếp thu 4.781 .001 µ4, µ3 > µ2, µ1
GV có phương pháp tổ chức lớp học tốt, kỷ luật lớp học tốt 1.802 n.s.
GV dạy kết hợp giáo dục đạo đức, tâm lý cho SV 1.763 n.s.
GV đánh giá SV một cách công bằng 1.942 n.s.
GV có phong cách đúng mực, tôn trọng SV 1.635 n.s.
GV luôn nhiệt tình hướng dẫn SV, nhất là các SV yếu 4.382 .004 µ1 > µ2, µ4, µ3
Bài tập sinh động, không nhàm chán 3.898 .021 µ1, µ2 > µ3, µ4
GV tạo được không khí học tập sôi động, vui vẻ 5.764 .002 µ1, µ2 > µ4, µ3

Ghi chú: n.s.: không có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê

3.1.5. Thực trạng về các Khó khăn - trở ngại khi sinh viên tham gia hoạt động thể thao tại Trường ĐH GTVT TP.HCM

Trong vấn đề nghiên cứu về các khó khăn - trở ngại sinh viên khi tham gia hoạt động thể thao tại Trường Đại học GTVT TP.HCM, Đề tài sử dụng phương pháp phân tích nhân tố khám phá (EFA) để nhóm các yếu tố trở ngại này thành 3 nhóm chính.

Bảng 3.20: Phân tích nhân tố khám phá (EFA) các yếu tố gây khó khăn, trở ngại khi tham gia hoạt động TDTT của sinh viên



STT

Biến số

Hệ số tải

1

2

3

1

Tình hình giao thông (kẹt xe, ngập nước, ô nhiễm..)
814

2

Khoảng cách, thời gian di chuyển đến sân thể thao
634

3

Phương tiện di chuyển không thuận lợi
541

4

Áp lực học hành

.758

5

Thời gian rảnh rỗi ít

.680

6

Giảng viên - Huấn luyện viên

.690

7

Không khí lớp học

.659

Sau khi phân tích nhân tố khám phá (EFA), kết quả thu được 3 nhóm yếu tố trở ngại chính bao gồm:

Nhóm 1 - Điều kiện xã hội (gồm các vấn đề như Áp lực học hành và Thời gian rảnh rỗi ít).

Nhóm 2 - Điều kiện tập luyện (gồm các vấn đề như Giảng viên - Huấn luyện viên và Không khí lớp học).

Nhóm 3 - Điều kiện di chuyển (gồm các vấn đề như Tình hình giao thông (kẹt xe, ngập nước, ô nhiễm..), Khoảng cách, thời gian di chuyển đến sân thể thao, và Phương tiện di chuyển không thuận lợi).

Kết quả ở Biểu đồ 3.9 dưới đây hiển thị giá trị trung bình chung của mỗi nhóm yếu tố trở ngại chính ảnh hưởng đến việc tham gia hoạt động thể thao của sinh viên Trường ĐH GTVT TP.HCM.

Kết quả cho thấy sự ảnh hưởng của các yếu tố gây khó khăn, trở ngại khi tham gia hoạt động TDTT ở mức Có ảnh hưởng (1.5 < µ < 2.5). Trong đó yếu tố “Điều kiện di chuyển” có mức độ ảnh hưởng cao nhất với p = 2.09 và yếu tố có mức độ ảnh hưởng thấp nhất là “Điều kiện xã hội” với p = 1.80.

Nhiệm vụ chung của thể dục thể thao trường học


Biểu đồ 3.9: Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố trở ngại đến hoạt động thể thao của sinh viên

Giới tính:

Để xác định sự khác biệt về Giới tính trong Mức độ trở ngại đến sự tham gia hoạt động thể thao của sinh viên Trường ĐH GTVT TP.HCM, đề tài đã sử dụng phương pháp phân tích kiểm nghiệm t một mẫu độc lập (t-test).

Kết quả phân tích ở Bảng 3.21 cho thấy không có sự khác biệt về các yếu tố gây khó khăn, trở ngại giữa nam và nữ khi tham gia hoạt động TDTT.

Bảng 3.21: So sánh giữa giới tính và yếu tố trở ngại



Yếu tố ảnh hưởng

Nam

Nữ

t

P

Pnam

SD

Pnữ

SD

Điều kiện di chuyển

2.09

.590

2.17

.559

-562

n.s.

Điều kiện xã hội

1.80

.472

1.79

.477

.110

n.s.

Điều kiện tập luyện

1.96

.634

1.92

.621

.706

n.s.

Ghi chú: n.s.: không có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê

Năm học:

Để xác định sự khác biệt giữa các nhóm Năm học về các yếu tố gây khó khăn, trở ngại của sinh viên Trường ĐH GTVT TP.HCM khi tham gia hoạt động TDTT, Đề tài sử dụng phương pháp phân tích phương sai một yếu tố (one-way ANOVA).

Kết quả phân tích ở Bảng 3.22 cho thấy có hai yếu tố trở ngại đến việc tham gia hoạt động thể thao của sinh viên là : “Điều kiện di chuyển” với p = .006 < .05 và “Điều kiện tập luyện” với p = .031 < .05 có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê giữa các năm học. Trong đó, chỉ có 1 yếu tố khác biệt mang ý nghĩa thống kê giữa các nhóm Năm học là yếu tố “Điều kiện xã hội”, với mức độ ảnh hưởng đối với nhóm sinh viên “Năm ba”, “Năm tư”, “Năm hai” cao hơn nhóm “Năm hai” và “Năm nhất”.

Bảng 3.22. So sánh giữa Năm học và Yếu tố trở ngại (One-way ANOVA)


Yếu tố ảnh hưởng

F

P

Post-hoc (Scheffe)

Điều kiện di chuyển

4.072

.006

Điều kiện xã hội

2.786
n.s.
( µ3, µ4, µ2) > (µ2, µ1)

Điều kiện tập luyện

2.585

.031

Ghi chú: n.s.: không có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê

µ1: Năm nhất; µ2: Năm hai; µ3: Năm ba; µ4: Năm tư

3.1.6. Bàn luận về thực trạng công tác GDTC tại trường Đại học Giao thông Vận tải TP.HCM, thông qua quan điểm, nhu cầu, mức độ hài lòng, khó khăn – trở ngại của SV.

3.1.6.1. Bàn luận về Chương trình giáo dục thể chất.

Việc thực hiện chương trình giáo dục thể chất của Bộ môn chưa được triệt để, nội dung phương pháp tổ chức quá trình giáo dục chưa đáp ứng được nhiệm vụ và yêu cầu của công tác giáo dục thể chất trong nhà trường. Mới dừng lại ở mức trang bị cho sinh viên kỹ năng thực hiện kỹ thuật động tác một số môn thể thao, chưa cung cấp đầy đủ những tri thức, cơ sở khoa học về giáo dục thể chất để sinh viên có những kiến thức sử dụng các bài tập thể chất là phương tiện để rèn luyện, phát triển thể lực và củng cố nâng cao sức khoẻ, cũng như chưa có chính sách, động viên đội ngũ giáo viên tổ chức các hoạt động tự rèn luyện của sinh viên và hướng dẫn tổ chức tốt các hoạt động đó.

3.1.6.2. Bàn luận về nhu cầu tham gia hoạt động TDTT của SV Giao thông vận tải TP.HCM:

Kết quả khảo sát cho thấy, SV trường rất yêu thích hoạt động TDTT, hơn 91.84% sinh viên quan tâm đến việc tham gia các môn thể thao tại Trường. Tỷ lệ ham thích xem thi đấu thể thao, hay tham gia cổ vũ các hoạt động thể thao có xu hướng giảm (chỉ còn 8.16%). Qua kết quả phản ánh nhu cầu của sinh viên Trường ĐH GTVT TP.HCM thì có đến hơn 3/4 số lượng sinh viên được khảo sát mong muốn tham gia vào CLB Thể thao ngoại khóa của Trường, bên cạnh thời gian học chương trình Giáo dục thể chất chính khóa. Các nhu cầu về địa điểm học, người hướng dẫn. Đây là những điểm mạnh của SV nhà trường trong nhận thức về việc tham gia tập luyện TDTT, là cơ sở mang tính tiềm năng để phát triển hoạt động thể thao ngoại khóa tại nhà trường.

3.1.6.3. Bàn luận về mức độ hài lòng của sinh viên về công tác GDTC nội khóa tại Trường ĐH GTVT TP.HCM.

- Điều kiện cơ sở vật chất:

Mức độ hài lòng của sinh viên về cơ sở vật chất, sân bãi qua khảo sát cho thấy yếu tố “không gian sân tập” có mức độ hài lòng cao nhất vì đa số các giờ GDTC tại trường Đại học GTVT TP.HCM được hợp đồng thuê địa điểm cơ sở vật chất của các đơn vị ngoài trường, mang tính dịch vụ nên thường lựa chọn những địa điểm phù hợp tốt nhất cho sinh viên. Mức độ hài lòng thấp nhất là “Dịch vụ ăn uống, giữ xe tại sân tập” điều này cũng dễ hiểu vì sân bãi phải đi thuê mướn nên các dịch vụ đi kèm nhà trường không thể kiểm soát, chủ yếu sinh viên phải chủ động khắc phục những nhu cầu. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân làm giảm sự hứng thú, chủ động tham gia tập luyện TDTT của sinh viên.

Qua phân tích các yếu tố hài lòng về cơ sở vật chất cho thấy nam có mức độ hài lòng cao hơn nữ chủ yếu về chỉ tiêu “Vệ sinh sân tập”, “Dịch vụ gửi xe, ăn uống tại sân tập” điều này cũng phù hợp với thực tế. Không có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê giữa các nhóm Năm học trong sự hài lòng đối với các vấn đề CSVC sân bãi trong chương trình GDTC nội khóa tại Trường cho thấy mức độ phản ánh về cơ sở vật chất là phù hợp với điều kiện tại trường Đại học GTVT TP.HCM, chương trình được áp dụng từ khóa này sang khóa khác mà không có sự thay đổi.

- Mức độ hài lòng của sinh viên về chương trình học tập:

Qua khảo sát sự hài lòng của sinh viên về Chương trình học tập ở mức Hài lòng cho thấy, vấn đề “Mỗi tuần 1 buổi tập là phù hợp” có mức độ hài lòng cao nhất và yếu tố có mức độ hài lòng thấp nhất là “Môn học phù hợp với sở thích, năng lực”. Kết quả trên cho thấy Bộ môn Giáo dục thể chất nên chú trọng về việc thiết kế chương trình GDTC nội khóa sao cho phù hợp với phần lớn yêu cầu của sinh viên. Mức độ khác biệt sự hài lòng của sinh viên nam và nữ về chương trình học tập đa số mang tính ngẫu nhiên chỉ có 3 chỉ tiêu đánh giá có sự khác biệt. Trong đó mức độ hài lòng của nam ở yếu tố “Mỗi tuần học một buổi là phù hợp” cao hơn nữ, hai yếu tố còn lại là “Đạt được mục tiêu thực hành sau khi kết thúc chương trình học” và yếu tố “Nắm được kiến thức về môn thể thao sau khi kết thúc chương trình học” của nữ cao hơn nam. Điều này cho thấy nữ quan tâm hơn đến chương trình học tập so với nam. Về chương trình học tập có sự khác biệt về mức độ hài lòng ở sinh viên năm 1, 2, 3, 4.

- Mức độ hài lòng của sinh viên về Giảng viên và phương pháp giảng dạy:

Trong 8 chỉ tiêu khảo sát: chỉ tiêu “Giảng viên đánh giá sinh viên một cách công bằng” có mức độ hài lòng cao nhất với µ = 2.19 và yếu tố có mức độ hài lòng thấp nhất là vấn đề “Bài tập sinh động, không nhàm chán” với µ = 1.84. Sự khác biệt giữa nam và nữ ở vấn đề “GV truyền đạt dễ hiểu, dễ tiếp thu” và “Bài tập sinh động, không nhàm chán”, trong đó mức độ hài lòng về Giảng viên và Phương pháp giảng dạy của nữ sinh viên cao hơn nam. Điều này là vấn đề cần được quan tâm phân tích để đưa ra những giải pháp phù hợp cho sinh viên trong việc nâng cao hiệu quả công tác GDTC.

Qua kết quả trên cho thấy Bộ môn Giáo dục thể chất nên chú trọng về việc thiết kế các bài tập trong chương trình GDTC nội khóa sao cho phong phú, đa dạng và thu hút sinh viên hơn nữa.

3.1.6.4. Bàn luận về các Khó khăn - trở ngại khi sinh viên tham gia hoạt động thể thao tại Trường ĐH GTVT TP.HCM

Mức độ khó khăn trở ngại của sinh viên khi tham gia hoạt động thể dục thể thao qua phân tích các chỉ tiêu khảo sát có thể thấy việc sinh viên tham gia các hoạt động TDTT còn nhiều khó khăn từ 3 nhóm nguyên nhân chính: Nhóm 1 - Điều kiện xã hội (gồm các vấn đề như Áp lực học hành và Thời gian rảnh rỗi ít); Nhóm 2 - Điều kiện tập luyện (gồm các vấn đề như Giảng viên - Huấn luyện viên và Không khí lớp học); Nhóm 3 - Điều kiện di chuyển (gồm các vấn đề như Tình hình giao thông (kẹt xe, ngập nước, ô nhiễm..), Khoảng cách, thời gian di chuyển đến sân thể thao, và Phương tiện di chuyển không thuận lợi). Những nguyên nhân này ảnh hưởng lớn đến mức độ tích cực tham gia hoạt động TDTT của sinh viên. Chính vì vậy cần phải có những giải pháp cụ thể, giúp đỡ, hướng dẫn, tuyên truyền tạo điều kiện cho sinh viên tham gia các hoạt động TDTT một cách tích cực, chủ động để nâng cao chất lượng công tác GDTC tại nhà trường.

3.2. Đề xuất các giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả chương trình GDTC nội khóa cũng như đẩy mạnh hoạt động TDTT ngoại khóa của SV nhà trường.

3.2.1. Các yêu cầu mang tính nguyên tắc khi xây dựng giải pháp.

Để các giải pháp nhằm góp phần mang lại hiệu quả nâng cao hiệu quả chương trình GDTC nội khóa cũng như đẩy mạnh hoạt động TDTT ngoại khóa của SV nhà trường, nghiên cứu đã đề ra một số yêu cầu mang tính khách quan và khoa học trên cơ sở xem xét các nguyên tắc chung của hoạt động giáo dục, đào tạo. Do đó việc lựa chọn, đề xuất các giải pháp phải đảm bảo các yêu cầu sau đây:

  • Giải pháp có tính thực tiễn: Các giải pháp đề ra phải có tính thực dụng cao, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và quay trở lại phục vụ thực tiễn hoạt động nghiên cứu của đề tài.
  • Giải pháp có tính toàn diện: Điều này hết sức cần thiết khi đề ra các giải pháp, vì khi các giải pháp được đề ra phải bao hàm toàn bộ các mặt liên quan nhằm thúc đẩy và mang lại hiệu quả cao trong thực tiễn vận dụng.
  • Giải pháp có tính hợp lý: Các giải pháp đưa ra phải đảm bảo sự hợp lý trong quá trình triển khai, phù hợp với các điều kiện thực tiễn hiện có tại Bộ môn.
  • Giải pháp có tính đa dạng: Trong thực tiễn triển khai không đơn giản chỉ thực hiện theo một chiều mà nó còn bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác. Do đó, việc đề ra các giải pháp phải đa dạng và đồng bộ.
  • Giải pháp có tính khoa học: Các giải pháp được đề ra đảm bảo theo các quy luật tự nhiên, quy luật xã hội, tiến hành theo trình tự, hệ thống.

3.2.2. Phân tích SWOT về thực trạng công tác GDTC cho SV trường ĐH GTVT TP.HCM.

Công cụ phân tích SWOT là công cụ rất phổ biến được sử dụng trong việc lập kế hoạch chiến lược và giải quyết các vấn đề của tổ chức. Mục đích của phân tích SWOT là nhằm xác định được các điểm mạnh và điểm yếu của một tổ chức và các cơ hội cũng như thách thức của tổ chức đó trong môi trường/ lĩnh vực hoạt động. Qua việc xác định các vấn đề đó, các nhà quản lý sẽ đưa ra được các yếu tố chiến lược để phát triển hơn nữa các điểm mạnh, loại bỏ hay giảm thiểu các điểm yếu, khai thác các cơ hội có được và phản ứng tích cực với các thách thức. Cho đến nay, công cụ SWOT đã được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong nghiên cứu này, tác giả đã dựa vào công cụ SWOT để đưa ra được các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của công tác GDTC cho SV trường ĐH GTVT TP.HCM. Qua kết quả phân tích SWOT, các thông tin thu được sẽ hỗ trợ cho việc xác định và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác GDTC cho SV Trường.

Kết quả phân tích SWOT được trình bày qua bảng 3.23 sau:

Bảng 3.23: Phân tích SWOT về thực trạng công tác GDTC cho SV trường ĐH GTVT TP.HCM.



Điểm mạnh

Điểm yếu
  • Sinh viên có nhu cầu tham gia hoạt động thể thao rất cao, và phần lớn môn thể thao ưa thích là các môn không yêu cầu cao về trang thiết bị, sân bãi: bóng đá, bóng chuyền, bóng rổ, các môn võ…
  • Nhu cầu thành lập các CLB thể thao ngoại khóa cũng như có HLV hướng dẫn và tham gia thi đấu là rất cao.
  • Nhu cầu sinh viên sẵn sàng đóng chi phí sân bãi để được tập luyện, học tập và nâng cao chất lượng tập luyện TDTT rất cao.
  • Trường là một trong những cơ sở đào tạo uy tín, đã khẳng định được thương hiệu.
  • Công tác quản lý đào tạo, kiểm định chất lượng theo hệ thống quản lý QMS ISO 9001 – 2008 của trường luôn được đảm bảo.
  • Bộ môn GDTC có đội ngũ cán bộ, GV trẻ, đầy nhiệt huyết, không ngừng phấn đấu nâng cao trình độ chuyên môn, phẩm chất nghề nghiệp để đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu đào tạo.
  • Trường nhiều mối quan hệ, liên kết với các trường, các cơ sở, tổ chức có liên quan đến chuyên ngành trong và ngoài nước, nhiều chương trình hợp tác đã được ký kết.
  • Bị ảnh hưởng bởi các điều kiện xã hội (Áp lực học hành và thời gian rảnh rỗi ít).
  • Đội ngũ giảng viên, huấn luyện viên hướng dẫn của Trường.
  • Kinh phí để xây dựng các công trình phục vụ cho các hoạt động TDTT của Sinh viên.
  • Cơ sở vật chất, trang thiết bị, sân bãi phục vụ cho hoạt động giảng dạy và học tập còn thiếu và chưa thực sự đáp ứng đầy đủ với yêu cầu của công tác đào tạo và nhu cầu ngày càng cao của SV.
  • Chương trình đào tạo: cấu trúc chương trình linh hoạt, thuận lợi chỉ đáp ứng ở mức trung bình.
  • Số lượng GV cơ hữu của Bộ môn có trình độ tiến sĩ trở lên còn ít so với yêu cầu.
  • Đội ngũ GV của Bộ môn đa phần còn trẻ nên chưa có nhiều kinh nghiệm trong công tác giảng dạy.
  • Tài liệu học tập, tham khảo các môn học chuyên ngành của Bộ môn chưa đáp ứng được nhu cầu học tập, nghiên cứu của SV.

Cơ hội

Thách thức
  • GDTC trong trường học đang là một yêu cầu cơ bản và cấp thiết đối với toàn ngành Giáo dục.
  • Vị trí của GDTC được đặt ở vị trí quan trọng, ngang hàng với các mặt giáo dục khác.
  • Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm khuyến khích phát triển công tác TDTT nói chung và thể thao trong nhà trường nói riêng.
  • Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm, ủng hộ phát triển công tác GDTC của trường.
  • Yêu cầu của xã hội về chất lượng đào tạo cũng như yêu cầu thể chất với công việc luôn được công khai, đây là cơ hội để Bộ môn khẳng định vị thế và phát triển.
  • Yêu cầu đảm bảo chất lượng đào tạo, đòi hỏi nâng cao số lượng, chất lượng cán bộ, GV có trình độ chuyên môn cao từ Tiến sỹ trở lên là một thách thức đối với Bộ môn.
  • Đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng đào tạo, phát triển thể chất của gia đình, SV và đơn vị tuyển dụng trong giai đoạn hiện nay.
  • Sự hài lòng và yêu thích môn học GDTC của SV còn ở mức trung bình.
  • Yêu cầu cao về sự phong phú của các môn học, cơ sở vật chất, thiết bị hiện đại, sân bãi đáp ứng cho nhu cầu học tập và rèn luyện của SV.



Chia sẻ với bạn bè của bạn:


Page 8


Trên cơ sở kết quả thực trạng công tác GDTC và phân tích SWOT về công tác GDTC của Trường ĐH GTVT TP.HCM, nghiên cứu đề xuất một số giải pháp để góp phần nâng cao chất lượng công tác GDTC của Trường ĐH GTVT TP.HCM như sau:

3.2.3.1. Nhóm giải pháp thực hiện cơ chế chính sách.

- Nhà trường cần thực hiện tốt về chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như các thông tư, quyết định, các văn bản của Bộ GD&ĐT về GDTC trong trường học. Cần phải có biện pháp đánh giá lại hàng năm.

- Nhà trường cần có chính sách ưu tiên cho việc đầu tư và phát triển hoạt động thể thao cho SV của trường.

- Xây dựng các hệ thống văn bản, quy định chặt chẽ, chi tiết về chức năng, nhiệm vụ công tác đào tạo và đảm bảo chất lượng đào tạo của Bộ môn.

- Thường xuyên tổ chức các chương trình bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn cho cán bộ, giảng viên như tham gia tập huấn, học tập ở trong nước và nước ngoài,…

- Đầu tư mua đất và xây dựng khu TDTT đa năng, đáp ứng yêu cầu về đào tạo và rèn luyện sức khoẻ cho đội ngũ cán bộ, giảng viên và sinh viên.

3.2.3.2. Nhóm giải pháp đổi mới nội dung giảng dạy GDTC

- Cần thường xuyên tiến hành rà soát, điều chỉnh chương trình đào tạo và đề cương các môn học đảm bảo về kiến thức, kỹ năng cho SV.

- Mỗi buổi học nên xen kẽ nội dung bắt buộc và nội dung cho sinh viên tự chọn để họ chủ động sáng tạo và thúc đẩy sự ham thích học - tập của họ, kết hợp với các trò chơi vận động để nâng cao tính hứng thú trong giờ học (59.39% SV mong muốn các môn học sẽ thay đổi theo từng học kỳ).

- Phần lý luận chung quy định trong trường học là phù hợp và cần thiết, đảm bảo giảng dạy lý thuyết từ 10-15% để sinh viên có thể hiểu hơn tác dụng của GDTC đối với sức khỏe và phát triển thể chất của chính mình.

- Thường xuyên cập nhật, đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy, đánh giá theo hướng phát huy tính tích cực nhận thức, năng lực tự học, tự nghiên cứu và làm việc nhóm của SV (qua khảo sát cho thấy, SV của trường chưa hài lòng về phương pháp giảng dạy của Giảng viên).

- Phát triển chương trình đào tạo, cải tiến nội dung, phương pháp giảng dạy, nghiên cứu và thực hành môn học. Biên soạn giáo trình, và tài liệu tham khảo phục vụ công tác đào tạo.

3.2.3.3. Nhóm giải pháp phát triển và bồi dưỡng đội ngũ giảng viên

- Tăng cường công tác tuyển chọn, bổ sung Giảng viên đủ số lượng và đảm bảo được chất lượng về trình độ chuyên môn.

- Hợp tác với các cơ sở trong và ngoài nước để đào tạo nâng cao trình độ của giảng viên dài hạn hoặc ngắn hạn.

- Mỗi năm cần mở lớp học nâng cao mời các chuyên gia về GDTC để bồi dưỡng cho đội ngũ giảng viên nâng cao chất lượng chuyên môn.

- Có kế hoạch hợp lý phát triển giảng viên, tăng cường số lượng giảng viên GDTC cho phù hợp với yêu cầu, đảm bảo tiêu chuẩn lý tưởng là 1 giảng viên/30SV.

- Bộ môn nên có kế hoạch cho giảng viên tham dự các Hội nghị khoa học TDTT và các Hội nghị về đổi mới phương pháp giảng dạy.

3.2.3.4. Nhóm giải pháp đẩy mạnh công tác GDTC ngoại khóa


  • Thành lập các câu lạc bộ TDTT và khuyến khích sinh viên tham gia tập luyện thể thao. Thực hiện giải pháp này sẽ đáp ứng được nhu cầu tập luyện 3 buổi/tuần với 60-90 phút/buổi tập của SV Trường.
  • Bố trí đội ngũ giảng viên, hướng dẫn viên hỗ trợ tập luyện trong giờ ngoại khóa (Có đến 79.8% SV có nhu cầu HLV-HDV trong tập luyện ngoại khóa).
  • Mở rộng và tăng cường tổ chức các hoạt động thi đấu thể thao trong và ngoài trường, xây dựng đội tuyển thể thao cho trường.
  • Cải tiến hình thức, nội dung và kế hoạch hoạt động TDTT ngoại khóa nhằm phát triển phong trào TDTT quần chúng trong sinh viên.
  • Tổ chức và đa dạng hoá các hoạt động TDTT ngoại khoá, thành lập các câu lạc bộ từng môn, nhiều môn, tổ chức các hoạt động thi đấu thể thao trong nhà trường. Có chế độ ưu tiên, khen thưởng xứng đáng cho SV tích cực tham gia tập luyện, thi đấu đạt thành tích cao.

3.2.3.5. Nhóm giải pháp đảm bảo cơ sở vật chất, trang thiết bị dụng cụ
  • Mua thêm dụng cụ và thiết bị tập luyện các môn thể thao cho phù hợp, đảm bảo khi tập sinh viên sử dụng dụng cụ và thiết bị tập luyện tương đối đầy đủ.
  • Tiến hành tu sửa nâng cấp, xây dựng mới cơ sở vật chất, kinh phí phục vụ cho công tác GDTC (SV của trường chưa hài lòng về hệ thống cơ sở vật chất phục vụ hoạt động thể thao tại trường).
  • Tuân thủ các tiêu chí cụ thể trong việc quy hoạch xây dựng và nâng cấp, đảm bảo sân chơi và tập luyện TDTT cho sinh viên.
  • Có kế hoạch phấn đấu đến năm 2017 phải đạt ít nhất 2m2/1Sv, đến 2020 phải đạt ít nhất 2.5m2/1SV

3.2.3.6. Nhóm giải pháp thông tin tuyên truyền
  • Tổ chức bộ môn GDTC cần có kế hoạch, chương trình, phương pháp phối hợp với các đơn vị trong và ngoài trường để tuyên truyền về lợi ích và ý nghĩa của việc tập luyện TDTT.
  • Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về TDTT cho sinh viên, được thực hiện bằng các trò chơi hoặc thi đấu TDTT.
  • Đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò và tác dụng của GDTC trong các cấp lãnh đạo, giảng viên và sinh viên nhà trường.
  • Đẩy mạnh phong trào: "Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại". Qua đó tuyên truyền hoạt động thể thao của trường.
  • Nhà trường cho phép bộ môn GDTC lập trang web để đăng tải hoạt động TDTT và công tác GDTC.

3.2.4. Kết quả đánh giá của chuyên gia về các nhóm giải pháp đề xuất.

Sau khi xây dựng hệ thống các giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả chương trình GDTC nội khóa cũng như đẩy mạnh hoạt động TDTT ngoại khóa của SV nhà trường, tác giả gửi đến các tiến sỹ chuyên ngành TDTT, các chuyên gia nghiên cứu về GDTC, các Cán bộ quản lý của các Khoa, Bộ môn để đánh giá mức độ quan trọng của từng nhóm các giải pháp, nhằm đảm bảo tính khách quan cho các giải pháp được đề xuất.

Nghiên cứu gửi phiếu phỏng vấn đến 12 chuyên gia, tỷ lệ phản hồi là 12 phiếu (đạt 100 %). Sau khi thu thập, phân tích và xử lý các thông tin thu được từ các chuyên gia, nghiên cứu chỉ chọn lựa những giải pháp nhận được điểm trung bình từ 3.5 trở lên. Như vậy, kết quả quả nghiên cứu cùng với sự đóng góp của các chuyên gia, tác giả sẽ đủ các cơ sở khách quan cho kết quả của nghiên cứu.
Biểu đồ 3.10: Kết quả đánh giá của chuyên gia về nhóm giải pháp đề xuất.

Sau khi tổng hợp, nghiên cứu không nhận được thêm ý kiến đề xuất của chuyên gia các giải pháp. Đối với 6 nhóm giải pháp mà nghiên cứu đề xuất đều được các chuyên gia đánh giá ở mức độ cần thiết và rất cần thiết (giá trị trung bình từ 3.6 đến 4.4), trong đó nhóm giải pháp được đánh giá cao nhất là nhóm “Giải pháp đổi mới nội dung giảng dạy GDTC” (TB = 4.4).

Để thấy rõ được tầm quan trọng của mỗi giải pháp trong 6 nhóm giải pháp nâng cao chất lượng công tác GDTC cho SV của trường, nghiên cứu cũng đã phân tích và đưa ra được kết quả về mức độ quan trọng của mỗi giải pháp trong từng nhóm. Các kết quả đánh giá của các chuyên gia được thể hiện chi tiết như sau:




Chia sẻ với bạn bè của bạn:


Page 9

Trong nhóm giải pháp này, các chuyên gia đánh giá ở mức đồng ý cao nhất đối với giải pháp “Nhà trường cần có chính sách ưu tiên cho việc đầu tư và phát triển hoạt động thể thao cho SV của trường” với M = 4.2. Mức độ đồng ý ở vị trí thứ 2 là 2 giải pháp “Nhà trường cần thực hiện tốt về chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như các thông tư, quyết định, các văn bản của Bộ GD&ĐT về GDTC trong trường học. Cần phải có biện pháp đánh giá lại hàng năm” và “Xây dựng các hệ thống văn bản, quy định chặt chẽ, chi tiết về chức năng, nhiệm vụ công tác đào tạo và đảm bảo chất lượng đào tạo của Bộ môn” với M = 3.6. Kết quả đánh giá cụ thể được trình bày tại Biểu đồ 3.11.

Biểu đồ 3.11: Đánh giá của chuyên gia về nhóm giải pháp thực hiện cơ chế chính sách.



Trong nhóm giải pháp này, các chuyên gia đánh giá ở mức đồng ý cao nhất đối với giải pháp “Mỗi buổi học nên xen kẽ nội dung bắt buộc và nội dung cho sinh viên tự chọn để họ chủ động sáng tạo và thúc đẩy sự ham thích học - tập của họ, kết hợp với các trò chơi vận động để nâng cao tính hứng thú trong giờ học” với M = 4.7. Mức độ đồng ý ở vị trí thứ 2 là giải pháp “Thường xuyên cập nhật, đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy, đánh giá theo hướng phát huy tính tích cực nhận thức, năng lực tự học, tự nghiên cứu và làm việc nhóm của SV” với M = 4.6. Ở vị trí thứ 3 là giải pháp “Phần lý luận chung quy định trong trường học là phù hợp và cần thiết, đảm bảo giảng dạy lý thuyết từ 10-15% để sinh viên có thể hiểu hơn tác dụng của GDTC đối với sức khỏe và phát triển thể chất của chính mình” với M = 4.4. Kết quả đánh giá cụ thể được trình bày tại Biểu đồ 3.12.

Biểu đồ 3.12: Đánh giá của chuyên gia về nhóm giải pháp đổi mới nội dung giảng dạy GDTC

3.2.4.3. Nhóm giải pháp phát triển và bồi dưỡng đội ngũ giảng viên

Trong nhóm giải pháp này, các chuyên gia đánh giá ở mức đồng ý cao nhất đối với giải pháp “Mỗi năm cần mở lớp học nâng cao mời các chuyên gia về GDTC để bồi dưỡng cho đội ngũ giảng viên nâng cao chất lượng chuyên môn.” với M = 3.9. Mức độ đồng ý ở vị trí thứ 2 là 2 giải pháp “Tăng cường công tác tuyển chọn, bổ sung GV đủ số lượng và đảm bảo được chất lượng về trình độ chuyên môn” và “Bộ môn nên có kế hoạch cho giảng viên tham dự các Hội nghị khoa học TDTT và các Hội nghị về đổi mới phương pháp giảng dạy” với M = 3.8. Kết quả đánh giá cụ thể được trình bày tại Biểu đồ 3.13.


Biểu đồ 3.13: Đánh giá của chuyên gia về nhóm giải pháp phát triển và bồi dưỡng đội ngũ giảng viên

3.2.4.4. Nhóm giải pháp đẩy mạnh công tác GDTC ngoại khóa


  • Trong nhóm giải pháp này, các chuyên gia đánh giá ở mức đồng ý cao nhất đối với giải pháp “Thành lập các câu lạc bộ TDTT và khuyến khích sinh viên tham gia tập luyện thể thao. Thực hiện giải pháp này sẽ đáp ứng được nhu cầu tập luyện 3 buổi/tuần với 60-90 phút/buổi tập của SV Trường” với M = 4.6. Mức độ đồng ý ở vị trí thứ 2 là giải pháp “Mở rộng và tăng cường tổ chức các hoạt động thi đấu thể thao trong và ngoài trường, xây dựng đội tuyển thể thao cho trường” với M = 4.5. Ở vị trí thứ 3 là giải pháp “Cải tiến hình thức, nội dung và kế hoạch hoạt động TDTT ngoại khóa nhằm phát triển phong trào TDTT quần chúng trong sinh viên” với M = 4.3. Kết quả đánh giá cụ thể được trình bày tại Biểu đồ 3.14.

Biểu đồ 3.14: Đánh giá của chuyên gia về nhóm giải pháp đẩy mạnh công tác GDTC ngoại khóa

3.2.4.5. Nhóm giải pháp đảm bảo cơ sở vật chất, trang thiết bị dụng cụ


  • Trong nhóm giải pháp này, các chuyên gia đánh giá ở mức đồng ý cao nhất đối với giải pháp “Tiến hành tu sửa nâng cấp, xây dựng mới cơ sở vật chất, kinh phí phục vụ cho công tác GDTC” với M = 4.5. Mức độ đồng ý ở vị trí thứ 2 là giải pháp “Mua thêm dụng cụ và thiết bị tập luyện các môn thể thao cho phù hợp, đảm bảo khi tập sinh viên sử dụng dụng cụ và thiết bị tập luyện tương đối đầy đủ” với M = 4.4. Ở vị trí thứ 3 là giải pháp “Tuân thủ các tiêu chí cụ thể trong việc quy hoạch xây dựng và nâng cấp, đảm bảo sân chơi và tập luyện TDTT cho sinh viên” với M = 4.3. Kết quả đánh giá cụ thể được trình bày tại Biểu đồ 3.15.

Biểu đồ 3.15: Đánh giá của chuyên gia về nhóm giải pháp đảm bảo cơ sở vật chất, trang thiết bị dụng cụ

3.2.4.6. Nhóm giải pháp thông tin tuyên truyền


  • Trong nhóm giải pháp này, các chuyên gia đánh giá ở mức đồng ý cao nhất đối với giải pháp “Đẩy mạnh phong trào: "Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại". Qua đó tuyên truyền hoạt động thể thao của trường” với M = 4.2. Mức độ đồng ý ở vị trí thứ 2 là giải pháp “Nhà trường cho phép bộ môn GDTC lập trang web để đăng tải hoạt động TDTT và công tác GDTC” với M = 4.1. Ở vị trí thứ 3 là giải pháp “Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về TDTT cho sinh viên, được thực hiện bằng các trò chơi hoặc thi đấu TDTT” với M = 3.9. Kết quả đánh giá cụ thể được trình bày tại Biểu đồ 3.16.

Biểu đồ 3.16: Đánh giá của chuyên gia về nhóm giải pháp thông tin tuyên truyền



3.2.5.1. Bàn luận về nhóm giải pháp thực hiện cơ chế chính sách.

Đây là nhóm giải pháp phụ thuộc lớn vào lãnh đạo nhà trường, nhưng cũng là nhóm giải pháp ảnh hưởng trực tiếp đến đường lối phát triển về GDTC của nhà trường. Nếu không có đường lối chính sách phù hợp thì công tác GDTC cũng khó đạt kết quả cao. Vì thế nhóm giải pháp này cần nhận được sự quan tâm của các nhà quản lý, Ban giám hiệu nhà trường để từng bước đưa vào ứng dụng triển khai thực hiện.

3.2.5.2. Bàn luận về nhóm giải pháp đổi mới nội dung giảng dạy GDTC

Theo như kết quả khảo sát cho thấy, hầu hết SV đều mong muốn các môn học sẽ thay đổi theo từng học kỳ. Việc đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy GDTC để phù hợp hơn trong điều kiện thực tế là một xu hướng tất yếu để phát triển. Nhóm giải pháp này cần có sự tham gia đồng bộ từ nhà quản lý, giảng viên và sinh viên để đạt hiệu quả cao.

3.2.5.3. Bàn luận về nhóm giải pháp phát triển và bồi dưỡng đội ngũ giảng viên

Con người là nhân tố quan trọng nhất để thực hiện và hoàn thành các mục tiêu đề ra, để nâng cao chất lượng công tác GDTC của nhà trường cần phải quan tâm và đầu tư vào đội ngủ giảng viên trực tiếp làm công tác giảng dạy một cách toàn diện về số lượng, chất lượng chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp… Nhóm giải pháp này bao gồm các giải pháp ngắn hạn và giải pháp dài hạn áp dụng theo từng thời điểm thích hợp từ đó góp phần nâng cao về lượng để đi đến thay đổi về chất trong công tác GDTC tại trường Đại học GTVT TP.HCM.

3.2.5.4. Bàn luận về nhóm giải pháp đẩy mạnh công tác GDTC ngoại khóa

Đây là một trong những nhóm giải pháp ngắn hạn mang tính khả thi trong điều kiện hiện tại của nhà trường, phục vụ nhu cầu của sinh viên trong việc giải trí, tìm bạn, rèn luyện sức khỏe… gắng liền với mục tiêu nâng cao thể chất cho sinh viên của nhà trường. Từ thực tế cần thành lập các câu lạc bộ TDTT khuyến khích, tạo điều kiện sinh viên tham gia từ đó hình thành một sân chơi lành mạnh cho sinh viên. Đa dạng hóa các chương trình ngoại khóa, thêm nhiều môn thể thao để sinh viên lựa chọn đặc biệt quan tâm đến các môn thể thao có sức lan tỏa hình thành phong trào trong sinh viên như bóng đá, bóng rổ, cầu lông, võ thuật, thể dục nhịp điệu… Có sự quản lý chặt chẽ từ chương trình, giáo viên, cách thức tổ chức… Nếu làm được những điều này thì chất lượng GDTC của nhà trường sẽ được nâng cao lên rất nhiều.

3.2.5.5. Bàn luận về nhóm giải pháp đảm bảo cơ sở vật chất, trang thiết bị dụng cụ

Đảm bảo cơ sở vật chất, trang thiết bị dụng cụ cho sinh viên khi tham gia các hoạt động GDTC cũng như học tập GDTC tại nhà trường là nhóm giải pháp quan trọng nhất để giải quyết hiệu quả nâng cao chất lượng GDTC trong nhà trường. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay, xét về nhiều mặt và góc độ từ khách quan đến chủ quan đây là nhóm giải pháp khó thực hiện nhất vì liên quan đến kinh phí đầu tư của nhà trường. Vì vậy nhóm giải pháp này cần phải thực hiện một cách dài hạn, có quy hoạch và cần được sự hỗ trợ về kinh phí của nhà nước.

3.2.5.6. Bàn luận về nhóm giải pháp thông tin tuyên truyền

Theo như kết quả khảo sát cho thấy, hầu hết SV ít nắm được thông tin về hoạt động TDTT tại Trường. Trong các yếu tố đánh giá về hoạt động TDTT tại Trường thì SV cũng đánh giá chưa cao về công tác tuyên truyền cho các hoạt động này. Việc tổ chức công tác tuyên truyền, giáo dục, giới thiệu và hướng dẫn cho SV nhận thức đúng đắn và sâu sắc về lợi ích và tác dụng của TDTT, tổ chức tập huấn, hội thảo, báo cáo chuyên đề giới thiệu về lĩnh vực TDTT là những hoạt động rất cần thiết. Bên cạnh đó cũng cần xây dựng các kế hoạch hướng dẫn, tư vấn hoạt động về hoạt động của các CLB thể thao trong nhà trường đến với mọi đối tượng tham gia.


KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

KẾT LUẬN



  1. Đánh giá thực trạng công tác GDTC tại trường Đại học Giao thông Vận tải TP.HCM, thông qua quan điểm, nhu cầu, mức độ hài lòng, khó khăn – trở ngại của SV cho thấy:
    1. Quan điểm, động cơ tham gia hoạt động GDTC của SV tại Trường: Có hơn 91.84% sinh viên quan tâm đến việc tham gia các môn thể thao tại Trường. Động cơ tham gia các hoạt động thể thao nhằm “Duy trì và tăng cường sức khỏe thể chất và tinh thần” là động cơ quan trọng nhất chiếm 20.2%. Có sự khác biệt về động cơ giữa nam và nữ SV. Tương tự, cũng có sự khác biệt về động cơ tập luyện TDTT của SV giữa các năm học.
    2. Nhu cầu tham gia hoạt động TDTT của SV: Có 73.67% SV được khảo sát mong muốn tham gia vào CLB Thể thao ngoại khóa của Trường. Có 59.39 % SV mong muốn các môn học trong chương trình GDTC nội khóa sẽ thay đổi theo từng học kỳ để tạo nên sự đa dạng và phong phú, giúp cho sinh viên tăng sự hiểu biết về nhiều môn thể thao. Nhóm 5 môn thể thao được các SV chọn lựa nhiều nhất đó là: Bóng đá, Cầu lông, Bóng chuyền, Bơi lội, Võ Vovinam. Có sự khác biệt về môn TT ưa thích về giới tính và về môn TT ưa thích về yếu tố năm học.
    3. Mức độ hài lòng của sinh viên về công tác GDTC nội khóa tại Trường: Về Cơ sở vật chất, yếu tố “Không gian sân tập” có mức độ hài lòng cao nhất với µ = 2.18 và mức độ hài lòng thấp nhất là “Dịch vụ ăn uống, giữ xe tại sân tập” với µ = 1.65. Về Chương trình học tập, vấn đề “Mỗi tuần 1 buổi tập là phù hợp” có mức độ hài lòng cao nhất với µ = 2.25 và mức độ hài lòng thấp nhất là “Môn học phù hợp với sở thích, năng lực” với µ = 1.85. Có một số khác biệt về mức độ hài lòng giữa các yếu tố nhân khẩu học. Về Giảng viên và Phương pháp giảng dạy, vấn đề “Giảng viên đánh giá sinh viên một cách công bằng” có mức độ hài lòng cao nhất với µ = 2.18 và mức độ hài lòng thấp nhất là vấn đề “Bài tập sinh động, không nhàm chán” với µ = 1.90. Có một số khác biệt về mức độ hài lòng giữa các yếu tố nhân khẩu học.

    4. Khó khăn - trở ngại khi sinh viên tham gia hoạt động TDTT tại Trường: Sự ảnh hưởng của các yếu tố gây khó khăn, trở ngại khi tham gia hoạt động TDTT ở mức Có ảnh hưởng (1.5 ≤ µ ≤ 2.5). Trong đó, yếu tố “Điều kiện di chuyển” có mức độ ảnh hưởng cao nhất với µ = 2.17 và yếu tố có mức độ ảnh hưởng thấp nhất là Điều kiện xã hội có mức độ ảnh hưởng thấp nhất với µ = 1.79. Có một số khác biệt về yếu tố khó khăn, trở ngại giữa các yếu tố nhân khẩu học.

  1. Đề xuất các giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả chương trình GDTC nội khóa cũng như đẩy mạnh hoạt động TDTT ngoại khóa của SV nhà trường.
Nghiên cứu đã đề xuất được 29 giải pháp trong 6 nhóm giải pháp chính góp phần nâng cao hiệu quả chương trình GDTC nội khóa cũng như đẩy mạnh hoạt động TDTT ngoại khóa của trường ĐH GTVT TP.HCM như sau:
  • Nhóm giải pháp thực hiện cơ chế chính sách (gồm 5 giải pháp).
  • Nhóm giải pháp đổi mới nội dung giảng dạy GDTC (gồm 5 giải pháp).
  • Nhóm giải pháp phát triển và bồi dưỡng đội ngũ giảng viên (gồm 5 giải pháp).
  • Nhóm giải pháp đẩy mạnh công tác GDTC ngoại khóa (gồm 5 giải pháp).
  • Nhóm giải pháp đảm bảo cơ sở vật chất, trang thiết bị dụng cụ (gồm 4 giải pháp).
  • Nhóm giải pháp thông tin tuyên truyền (gồm 5 giải pháp).


Chia sẻ với bạn bè của bạn:


Page 10

  1. Vận dụng kết quả nghiên cứu của đề tài trong việc cải tiến chương trình GDTC theo điều kiện đặc thù của nhà trường nhằm cải tiến hiệu quả học tập môn GDTC và phát triển hoạt động TDTT ngoại khóa theo hướng đáp ứng nhu cầu học tập và tập luyện TDTT của SV.
  2. Tiếp tục tiến hành các nghiên cứu theo hướng: Vai trò và lợi ích của tập luyện TDTT đối với SV, Cán bộ - Viên chức nhà trường; Đánh giá hiệu quả công tác quản lý hoạt động TDTT; Đánh giá hiệu quả các chương trình GDTC của nhà trường, Nghiên cứu nhu cầu và xu hướng phát triển TDTT của SV, Cán bộ - Viên chức…

TÀI LIỆU THAM KHẢO

TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT



  1. Nguyễn An (1993), Giáo Dục Học, NXB TDTT.
  2. Duy Anh (2010), Gắn giáo dục thể chất với ham thích của sinh viên, An ninh thủ đô 06/02/2010.

  3. Ban Bí thư Trung ương Đảng, Chỉ thị sổ 180/CT-TW về công tác thể dục thể thao, ngày 28/08/1970.

  4. Ban Bí thư Trung ương Đảng, Chỉ thị sổ 227/CT-TW về công tác TDTT chuyển sang giai đoạn mới, sau giải phóng, ngày 18/11/1975.

  5. Ban chấp hành TW Đảng Cộng sản Việt Nam, Chỉ thị số 36 – CT/TW ngày 24/03/1994, về công tác TDTT trong giai đoạn mới.

  6. Lê Công Bằng (2014), “Nhu cầu, động cơ và khó khăn của sinh viên khi tham gia các hoạt động thể thao ngoại khoá tại một số trường đại học Thành phố Hồ Chí Minh”, luận văn Thạc sĩ Giáo dục học.

  7. Bộ Giáo dục và Đào tạo - Ủy ban TDTT, Thông tư liên tịch, sổ/2005/TTLT (29/12/2005), hướng dẫn phối hợp quản lý và chỉ đạo công tác TDTT trường học giai đoạn 2006 – 2010.
  8. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Kết luận Hội nghị khoa học giáo dục thể chất và y tế trường học lần thứ V – 2010.
  9. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Chương trình mục tiêu cải tiến nâng cao chất lượng giáo dục sức khỏe phát triển và bồi dưỡng nhân tài TDTT HS-SV trong nhà trường các cấp (giao đoạn 1995 – 2000, và đến 2005) – 1995.
  10. Bộ Giáo dục và Đào tạo, quyết định 913/QĐ- BGDĐT (29/04/1993), về phát triển TDTT đến năm 2010.
  11. Bộ Giáo Dục và Đào tạo, quyết định 931/QĐ- BGDĐT (24/04/1993), v/v Ban hành qui chế về công tác phát triển GDTC trong nhà trường các cấp.
  12. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tuyển tập nghiên cứu khoa học giáo dục sức khỏe, thể chất trong nhà trường các cấp (Hội nghị khoa học các cấp lần thứ I), NXB TDTT Hà Nội – 1998.
  13. Bộ giáo dục và Đào tạo, Văn bản chỉ đạo công tác GDTC trong nhà trường các cấp, NXB TDTT Hà Nội – 1994.
  14. Bộ trưởng bộ Giáo dục và Đào tạo, Quyết định số 14/2001/QĐ-BGDĐT (03/05/2001), v/v ban hành Quy chế về công tác GDTC và Y tế trường học trong nhà trường các cấp.

  15. Lê Bửu (chủ biên) (1995), Bác Hồ với TDTT Việt Nam, NXB TDTT Hà Nội.

  16. Lê Thiết Can (2005 cập nhật năm 2011), Giáo trình giảng dạy Xã Hội Học TDTT Điều tra XHH TDTT bậc Đại học, Cao học chuyên ngành TDTT.

  17. Dương Nghiệp Chí, Trần Đức Dũng, Tạ Hữu Hiếu, Nguyễn Đức Văn (2004), Đo lường Thể Thao, NXB TDTT, Hà Nội.

  18. Chỉ thị 17CT/TW ngày 23/10/2002 của Ban bí thư TW Đảng về phát triển TDTT đến năm 2010 – NXB TDTT – 2003.
  19. Chỉ thị 133/TTg ngày 07/03/1995 của Thủ tướng chính phủ vể việc xây dựng quy hoạch và phát triển ngành TDTT về giáo dục thể chất.
  20. Chỉ thị 17/CT-TW ngày 23/10/2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác thể dục thể thao.
  21. Chính phủ, Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP (18/04/2005), về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và TDTT.

  22. Lê Hùng Cường (2006), Thực trạng tập luyện TDTT ngoại khóa trong nâng cao công tác GDTC trường học, Tuyển tập NCKH GDTC, y tế trường học của Bộ Giáo dục và Đào tạo, NXB TDTT, Hà Nội .
  23. Trung Dân, (2006), Đại học – thể dục cấp 4, Việt báo – theo Tuổi trẻ.
  24. Nguyễn Thị Mỹ Hạnh (2009), Thực trạng Giáo dục Đào tạo Đại học Việt Nam-Trung tâm Đánh giá và Kiểm định Chất lượng Giáo dục-Viện Nghiên cứu Giáo dục-CEEA.

  25. Lê Trường Sơn Chấn Hải (2011), “Đổi mới chương trình GDTC cho sinh viên các trường đại học sư phạm vùng Trung Bắc theo hướng bồi dưỡng nghiệp vụ tổ chức hoạt động TDTT trường học”.
  26. Q.Hải – T.Nga, (2010), Bỏ ngỏ giáo dục thể chất, Đất Việt 8/11/2010.
  27. Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam năm 1992, NXB Pháp lý, NXB Sự Thật, Hà Nội 1992, điều 41, 66.
  28. Nguyễn Hoài (2009), SV học thể dục ở đâu? TTVN 7/2009.

  29. Nguyễn Xuân Sinh (1999, 2010), Giáo Trình Phương Pháp Nghiên Cứu KHOA HỌC TDTT, NXB TDTT Hà Nội.

  30. Nguyễn Xuân Sinh, Nguyễn Gắng (2001), Nghiên cứu hiệu quả hoạt động thể thao ngoại khóa theo loại hình CLB TDTT hoàn thiện đối với phát triển thể chất các trường Đại học Thành phố Huế”, Tuyển tập NCKH GDTC, Sức khỏe trong trường học các cấp, NXB TDTT, Hà Nội.

  31. Bùi Trọng Toại (2011), “Nghiên cứu giải pháp nâng cao hiệu quả chương trình GDTC tại ĐH Tôn Đức Thắng thông qua quan điểm, mức độ hài lòng, nhu cầu và những khó khăn của sinh viên trong hoạt động TDTT”.

  32. Nguyễn Toán, Phạm Danh Tốn (2006), Lý Luận Và Phương Pháp TDTT, NXB TDTT, Hà Nội.

  33. Nguyễn Văn Thời (2011), “Dạy học tự chọn GDTC theo chủ đề và hoạt động ngoại khóa tự nguyện trong các trường THCS”.
  34. Thủ tướng Chính Phủ, Chỉ thị số 296/2010/CT – TTg (27/02/2010), về đổi mới quản lý giáo dục đại học giai đoạn 2010 – 2012.

  35. Thủ tướng Chính Phủ, Quyết định số 100/2005/QĐ-TTg (10/05/2005) phê duyệt Chương trình phát triển TDTT xã, phường, thị trấn đến năm 2010.
  36. Minh Trung (2006), Xé rào để tồn tại, báo TTVN 28/12/2006.

  37. Tuyển tập Hồ Chí Minh (1994), Tập 4 trang 122, NXB Sự thật, Hà Nội.

  38. Vũ Đức Văn (2008) “Nghiên cứu một số giải pháp nâng cao chất lượng GDTC cho HS THCS của thành phố Hải Phòng”.

  39. Văn bản hội nghị toàn quốc tổng kết 3 năm thực hiện chỉ thị 36-CT/TW của Đảng về công tác TDTT (1998), NXB TDTT- Hà Nội.

  40. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần IX (2001), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

TÀI LIỆU TIẾNG ANH

  1. Abraham Maslow (1943), A Theory of Human Motivation, Psychological Review 50(4):370-96.

  2. Belch, Gebel, & Mass (2006), The Social Benefits of Intramural Sports, Journal 0f student affairs research and practise, vol.43.
  3. Wikipedia: Physical education in Asia.
  4. World Health Organisation (WHO) (2003), Health and Development Through Physical Activity and Sport, Geneva: WHO.

PHỤ LỤC 1:



Trường Đại học Giao Thông Vận Tải

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Thành phố Hồ Chí Minh

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

PHIẾU PHỎNG VẤN SINH VIÊN

Các bạn sinh viên thân mến!

Với mục đích nâng cao hiệu quả của chương trình giáo dục thể chất (GDTC) tại trường ĐH Giao thông vận tải Tp.HCM, chúng tôi tiến hành khảo sát thực trạng về mức độ hài lòng, những khó khăn - trở ngại và đặc biệt là các nhu cầu của các bạn về hoạt động GDTC tại nhà trường. Rất mong các bạn đọc kỹ và trả lời các câu hỏi khảo sát một cách trung thực nhất.

Chân thành cám ơn sự cộng tác của các bạn.

A. Thông tin nhân:

1. Giới tính: Nam □ Nữ □

2. Sinh viên năm thứ: 1□ 2 □ 3 □ 4 □

B. Nhu cầu tham gia hoạt động TDTT của SV Trường:

1. Bạn thích chơi thể thao? □ có □ không

2. Bạn thích xem thi đấu thể thao? □ có □ không

3. Môn thể thao ưa thích nhất của bạn? (chọn 1 môn)


  • Bóng đá □
  • Bóng chuyền □
  • Bóng rổ □
  • Bóng bàn □
  • Cầu lông □
  • Võ Karate □
  • Võ Vovinam □
  • Bơi lội □
  • Điền kinh (chạy) □
  • Thể dục nhịp điệu □
  • Môn khác: ……
4. Trong 1 năm gần đây, trung bình, bạn tập luyện TDTT bao nhiêu lần / tuần? (Khoanh vòng con số được chọn) 5. Theo bạn, tập luyện TDTT bao nhiêu lần (buổi) / tuần là lý tưởng?

6. Hiện nay, trung bình bạn tập luyện bao nhiêu phút / lần?


  1. 15 30 45 60 90 120 150 180 hơn 180.
7. Theo bạn, tập luyện TDTT bao nhiêu phút / lần là lý tưởng?
  1. 15 30 45 60 90 120 150 180 hơn 180.
8. Theo bạn, giờ tập luyện lý tưởng nhất trong ngày thường (từ thứ 2 đến thứ 7) là:
□ 7 – 9 □ 9 – 11 □ 11 – 13 □ 13 – 15
□ 15 – 17 □ 17 – 19 □ 19 – 21 □ Sau 21g
9. Theo bạn, giờ tập luyện lý tưởng nhất trong ngày chủ nhật và ngày nghỉ là:
□ 7 – 9 □ 9 – 11 □ 11 – 13 □ 13 – 15
□ 15 – 17 □ 17 – 19 □ 19 – 21 □ Sau 21g
10. Bạn thường xuyên tập luyện bao nhiêu môn?
11. Bạn thích chơi TT ngoài trời hay trong nhà?

□ Ngoài trời □ Trong nhà □ Cả 2.

12. Bạn thích chơi môn TT cá nhân hay tập thể?

□ Cá nhân □ Tập thể □ Cả 2.

13. Lợi ích của tập luyện TT đối với bản thân bạn là gì?

  • Duy trì và tăng cường sức khỏe thể chất lẫn tinh thần.
  • Hưởng cảm giác vui vẻ, hạnh phúc khi chơi.
  • Thư giãn (giảm sự mệt mỏi, chán nản về tinh thần và thể chất)
  • Có vóc dáng, hình thể đẹp hơn; giảm cân, tăng cân...
  • Có thêm cơ hội kết bạn.
  • Phát triển kỹ năng vận động (khéo léo, linh hoạt hơn trong hoạt động vận động hàng ngày)
  • Tự tin hơn.
  • Phát triển thành tích thi đấu thể thao.
14. Bạn muốn tham gia vào một câu lạc bộ thể thao của nhà trường?
15. Qua các học kỳ, bạn muốn học chỉ 1 môn hay thay đổi môn khác sau từng học kỳ trong chương trình GDTC của nhà trường?

□ Chỉ 1 môn □ Đổi môn sau từng học kỳ

16. Do điều kiện sân bãi và cơ sở vật chất chưa đầy đủ, nhà trường không thể tổ chức giảng dạy tất cả các môn thể thao theo nhu cầu của sinh viên. Do đó, bạn có chấp nhận đóng chi phí thuê sân bãi để được học môn thể thao ưa thích (chương trình nội khóa)?

□ Có □ Không.


C. Mức độ hài lòng về công tác GDTC của nhà trường:

I. Cơ sở vật chất, sân bãi



TT

YẾU TỐ ĐÁNH GIÁ

Mức độ

3

2

1

1
Địa điểm sân tập 3 2 1

2
Trang thiết bị, dụng cụ tập luyện 3 2 1

3
Không gian sân tập (rộng rãi, thoáng mát…) 3 2 1

4
Tình hình vệ sinh ở sân tập (sạch sẽ, gọn gàng…) 3 2 1

5
Mức độ an toàn trong tập luyện 3 2 1

6
Dịch vụ ăn uống,gửi xe tại sân tập (giá cả, vệ sinh…) 3 2 1

II. Chương trình học tập

TT

YẾU TỐ ĐÁNH GIÁ

Mức độ

3

2

1

1
Môn học phù hợp với sở thích, năng lực 3 2 1

2
Thời khóa biểu phù hợp với các môn học khác 3 2 1

3
Mỗi tuần học 1 buổi là phù hợp 3 2 1

4
Thời gian 1 buổi học (3tiết) là phù hợp 3 2 1

5
Nội dung kiểm tra phù hợp với nội dung học và trình độ SV 3 2 1

6
Số lượng SV / lớp phù hợp 3 2 1

7
Đạt được mục tiêu thực hành (biết chơi môn TT) sau khi kết thúc chương trình học 3 2 1

8
Nắm được kiến thức về môn TT sau khi kết thúc chương trình học 3 2 1

III. Giảng viên và phương pháp giảng dạy

TTT

YẾU TỐ ĐÁNH GIÁ

Mức độ

3

2

1

1
GV truyền đạt dễ hiểu, dễ tiếp thu 3 2 1

2
GV có phương pháp tổ chức lớp học tốt, kỷ luật lớp học tốt 3 2 1

3
GV có kết hợp giáo dục đạo đức, tâm lý cho SV 3 2 1

4
GV đánh giá SV một cách công bằng (kiểm tra cuối học phần, cuối kỳ) 3 2 1

5
GV có thái độ đúng mực, tôn trọng SV 3 2 1

6
GV luôn nhiệt tình hướng dẫn SV, nhất là các SV yếu. 3 2 1

7
Bài tập sinh động, không nhàm chán. 3 2 1

8
GV tạo được không khí học tập sôi động, vui vẻ. 3 2 1

Ghi chú: 3 = Rất hài lòng 2 = Hài lòng 1 = Không hài lòng

D. Khó khăn – trở ngại khi tham gia hoạt động TDTT.



TT

YẾU TỐ GÂY KHÓ KHĂN

Mức độ

3

2

1

1
Áp lực học hành 3 2 1

2
Thời gian rảnh rỗi ít 3 2 1

3
Thời tiết (mưa, nắng khi tập ngoài trời) 3 2 1

4
Khoảng cách, thời gian di chuyển đến sân thể thao 3 2 1

5
Phương tiện di chuyển không thuận lợi 3 2 1

6
Giảng viên – Huấn luyện viên 3 2 1

7
Không khí lớp học 3 2 1

8
Không có môn chơi ưa thích 3 2 1

9
Sức khỏe, khả năng vận động hạn chế 3 2 1

10
Cơ sở vật chất, sân bãi tập luyện 3 2 1

11
Không thấy rõ lợi ích của tập luyện thể thao 3 2 1

12

Không có bạn bè cùng tham gia
3 2 1

3 = Ảnh hưởng rất nhiều 2 = Có ảnh hưởng 1 = Hoàn toàn không ảnh hưởng

Chia sẻ với bạn bè của bạn:


Page 11


PHỤ LỤC 2:

Trường Đại học Giao Thông Vận Tải

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Thành phố Hồ Chí Minh

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

PHIẾU PHỎNG VẤN CHUYÊN GIA

V/v Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả chương trình giáo dục thể chất tại Trường ĐH GTVT TP.HCM


Xin chào Ông/Bà!

Với mục đích phục vụ nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu thực trạng và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả chương trình GDTC tại Đại Học Giao Thông Vận Tải Tp. HCM”.

Qua các kết quả thu thập được, nghiên cứu đề xuất được các nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả chương trình giáo dục thể chất tại Trường ĐH GTVT TP.HCM. Hệ thống giải pháp sẽ mang tính khách quan, toàn diện và có giá trị tin cậy cao nếu như được thông qua ý kiến của các chuyên gia trong lĩnh vực TDTT. Do đó, nghiên cứu gởi phiếu Phỏng vấn chuyên gia này với mong muốn nhận được các ý kiến đóng góp từ Ông/Bà.

Ông/Bà vui lòng cho biết ý kiến của mình về sự cần thiết của các giải pháp theo các mức độ sau đây:

5. Rất cần thiết 2. Không cần thiết

4. Cần thiết 1. Hoàn toàn không cần thiết

3. Không có ý kiến

1. Nhóm giải pháp thực hiện cơ chế chính sách.



TT

Giải pháp

Mức độ cần thiết
1 - Nhà trường cần thực hiện tốt về chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như các thông tư, quyết định, các văn bản của Bộ GD&ĐT về GDTC trong trường học. Cần phải có biện pháp đánh giá lại hàng năm. 5 4 3 2 1
2 - Nhà trường cần có chính sách ưu tiên cho việc đầu tư và phát triển hoạt động thể thao cho SV của trường. 5 4 3 2 1
3 - Xây dựng các hệ thống văn bản, quy định chặt chẽ, chi tiết về chức năng, nhiệm vụ công tác đào tạo và đảm bảo chất lượng đào tạo của Bộ môn. 5 4 3 2 1
4 - Thường xuyên tổ chức các chương trình bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn cho cán bộ, GV như tham gia tập huấn, học tập ở trong nước và nước ngoài,… 5 4 3 2 1
5 - Đầu tư mua đất và xây dựng khu TDTT đa năng, đáp ứng yêu cầu về đào tạo và rèn luyện sức khoẻ cho đội ngũ cán bộ, giảng viên và sinh viên. 5 4 3 2 1

2. Nhóm giải pháp đổi mới nội dung giảng dạy GDTC

TT

Giải pháp

Mức độ cần thiết
1 - Cần thường xuyên tiến hành rà soát, điều chỉnh chương trình đào tạo và đề cương các môn học đảm bảo về kiến thức, kỹ năng cho SV. 5 4 3 2 1
2 - Mỗi buổi học nên xen kẽ nội dung bắt buộc và nội dung cho sinh viên tự chọn để họ chủ động sáng tạo và thúc đẩy sự ham thích học - tập của họ, kết hợp với các trò chơi vận động để nâng cao tính hứng thú trong giờ học (59.39% SV mong muốn các môn học sẽ thay đổi theo từng học kỳ). 5 4 3 2 1
3 - Phần lý luận chung quy định trong trường học là phù hợp và cần thiết, đảm bảo giảng dạy lý thuyết từ 10-15% để sinh viên có thể hiểu hơn tác dụng của GDTC đối với sức khỏe và phát triển thể chất của chính mình. 5 4 3 2 1
4 - Thường xuyên cập nhật, đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy, đánh giá theo hướng phát huy tính tích cực nhận thức, năng lực tự học, tự nghiên cứu và làm việc nhóm của SV (qua khảo sát cho thấy, SV của trường chưa hài lòng về phương pháp giảng dạy của Giảng viên). 5 4 3 2 1
5 - Phát triển chương trình đào tạo, cải tiến nội dung, phương pháp giảng dạy, nghiên cứu và thực hành môn học. Biên soạn giáo trình, và tài liệu tham khảo phục vụ công tác đào tạo. 5 4 3 2 1

3. Nhóm giải pháp phát triển và bồi dưỡng đội ngũ giảng viên

TT

Giải pháp

Mức độ cần thiết
1 - Tăng cường công tác tuyển chọn, bổ sung GV đủ số lượng và đảm bảo được chất lượng về trình độ chuyên môn. 5 4 3 2 1
2 - Hợp tác với các cơ sở trong và ngoài nước để đào tạo nâng cao trình độ của giảng viên dài hạn hoặc ngắn hạn. 5 4 3 2 1
3 - Mỗi năm cần mở lớp học nâng cao mời các chuyên gia về GDTC để bồi dưỡng cho đội ngũ giảng viên nâng cao chất lượng chuyên môn. 5 4 3 2 1
4 - Có kế hoạch hợp lý phát triển giảng viên, tăng cường số lượng giảng viên GDTC cho phù hợp với yêu cầu, đảm bảo tiêu chuẩn lý tưởng là 1 giảng viên/30SV. 5 4 3 2 1
5 - Bộ môn nên có kế hoạch cho giảng viên tham dự các Hội nghị khoa học TDTT và các Hội nghị về đổi mới phương pháp giảng dạy. 5 4 3 2 1

4. Nhóm giải pháp đẩy mạnh công tác GDTC ngoại khóa

TT

Giải pháp

Mức độ cần thiết
1 - Thành lập các câu lạc bộ TDTT và khuyến khích sinh viên tham gia tập luyện thể thao. Thực hiện giải pháp này sẽ đáp ứng được nhu cầu tập luyện 3 buổi/tuần với 60-90 phút/buổi tập của SV Trường. 5 4 3 2 1
2 - Bố trí đội ngũ giảng viên, hướng dẫn viên hỗ trợ tập luyện trong giờ ngoại khóa (Có đến 79.8% SV có nhu cầu HLV-HDV trong tập luyện ngoại khóa). 5 4 3 2 1
3 - Mở rộng và tăng cường tổ chức các hoạt động thi đấu thể thao trong và ngoài trường, xây dựng đội tuyển thể thao cho trường. 5 4 3 2 1
4 - Cải tiến hình thức, nội dung và kế hoạch hoạt động TDTT ngoại khóa nhằm phát triển phong trào TDTT quần chúng trong sinh viên. 5 4 3 2 1
5 - Tổ chức và đa dạng hoá các hoạt động TDTT ngoại khoá, thành lập các câu lạc bộ từng môn, nhiều môn, tổ chức các hoạt động thi đấu thể thao trong nhà trường. Có chế độ ưu tiên, khen thưởng xứng đáng cho SV tích cực tham gia tập luyện, thi đấu đạt thành tích cao. 5 4 3 2 1

5. Nhóm giải pháp đảm bảo cơ sở vật chất, trang thiết bị dụng cụ

TT

Giải pháp

Mức độ cần thiết
1 - Mua thêm dụng cụ và thiết bị tập luyện các môn thể thao cho phù hợp, đảm bảo khi tập sinh viên sử dụng dụng cụ và thiết bị tập luyện tương đối đầy đủ. 5 4 3 2 1
2 - Tiến hành tu sửa nâng cấp, xây dựng mới cơ sở vật chất, kinh phí phục vụ cho công tác GDTC (SV của trường chưa hài lòng về hệ thống cơ sở vật chất phục vụ hoạt động thể thao tại trường). 5 4 3 2 1
3 - Tuân thủ các tiêu chí cụ thể trong việc quy hoạch xây dựng và nâng cấp, đảm bảo sân chơi và tập luyện TDTT cho sinh viên. 5 4 3 2 1
4 - Có kế hoạch phấn đấu đến năm 2017 phải đạt ít nhất 2m2/1Sv, đến 2020 phải đạt ít nhất 2.5m2/1SV. 5 4 3 2 1

6. Nhóm giải pháp thông tin tuyên truyền

TT

Giải pháp

Mức độ cần thiết
1 - Tổ chức bộ môn GDTC cần có kế hoạch, chương trình, phương pháp phối hợp với các đơn vị trong và ngoài trường để tuyên truyền về lợi ích và ý nghĩa của việc tập luyện TDTT. 5 4 3 2 1
2 - Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về TDTT cho sinh viên, được thực hiện bằng các trò chơi hoặc thi đấu TDTT. 5 4 3 2 1
3 - Đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò và tác dụng của GDTC trong các cấp lãnh đạo, giảng viên và sinh viên nhà trường. 5 4 3 2 1
4 - Đẩy mạnh phong trào: "Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại". Qua đó tuyên truyền hoạt động thể thao của trường. 5 4 3 2 1
5 - Nhà trường cho phép bộ môn GDTC lập trang web để đăng tải hoạt động TDTT và công tác GDTC. 5 4 3 2 1

Ý kiến đề xuất của Ông/Bà về giải pháp phát triển hoạt động GDTC cho sinh viên Trường Đại học Giao Thông Vận Tải TP.HCM.

THÔNG TIN CÁ NHÂN


  1. Họ và tên:
  2. Đơn vị công tác:
  3. Chức vụ hiện tại:

Xin chân thành cảm ơn Quý Ông/Bà!




Chia sẻ với bạn bè của bạn: