Phân tích đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Đảng giai đoạn 1965 1975

[Bqp.vn] - Đại thắng mùa Xuân 1975 kết thúc thắng lợi chặng đường 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước [1954 - 1975], đồng thời kết thúc vẻ vang quá trình 30 năm chiến tranh giành độc lập, bảo vệ Tổ quốc kể từ cách mạng tháng Tám năm 1945, mở ra kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc.

 

Xe tăng Quân giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập trưa 30/4/1975, đánh dấu thắng lợi trọn vẹn của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đỉnh cao của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kéo dài hơn hai thập niên [1954 - 1975], giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. [ảnh tư liệu/TTXVN]

Sức chiến đấu kiên cường, bền bỉ toàn dân tộc

Năm 1954, thực dân Pháp bại trận tại Điện Biên Phủ, buộc phải ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ [7/1954] rút khỏi Đông Dương. Tuy nhiên, ngay sau đó, thực hiện chính sách “lấp chỗ trống”, đế quốc Mỹ nhảy vào tiến hành chiến tranh xâm lược, âm mưu biến miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới, một căn cứ quân sự phục vụ cho chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng. Để thực hiện mưu đồ trên, Mỹ dựng lên chính quyền, quân đội tay sai, ra sức phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ, đàn áp phong trào cách mạng miền Nam.

Chỉ trong vòng 4 năm [1954 - 1958], cả miền Nam tổn thất 9/10 số cán bộ, đảng viên; gần 90 vạn đồng bào yêu nước bị bắt, tù đày; gần 20 vạn bị tra tấn, giết hại... Trước âm mưu, hành động xâm lược của địch, đất nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội đối lập nhau: miền Bắc hoàn toàn giải phóng, miền Nam còn nằm dưới sự đô hộ của chủ nghĩa đế quốc và tay sai.

Như vậy, khác với 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, kẻ thù của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến lần này là đế quốc Mỹ, đứng đầu thế giới tư bản chủ nghĩa với tiềm lực kinh tế, quân sự rất hùng mạnh. Để đương đầu, đánh thắng kẻ thù đó, đòi hỏi nhân dân Việt Nam phải có sức mạnh rất lớn - sức mạnh chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, hay nói một cách khác, đó là sức mạnh khát vọng hòa bình và thống nhất đất nước, tập trung cao độ trước hết ở đường lối kháng chiến.

Trên cơ sở phân tích đặc điểm tình hình trong nước, bối cảnh quốc tế cũng như khu vực có liên quan, Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng [khóa II] lần thứ 15 [đầu năm 1959] và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III [tháng 9/1960] đã vạch ra đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước độc lập tự chủ, đúng đắn sáng tạo, đó là: Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, tiến hành đồng thời cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất đất nước trên cơ sở độc lập, dân chủ, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới.

Từ năm 1965, để cứu nguy cho chế độ Sài Gòn, Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh, quân một số nước đồng minh, nhiều loại vũ khí, trang bị cùng phương tiện chiến tranh hiện đại vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam; đồng thời mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân ra miền Bắc Việt Nam.

Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương Đảng [khóa III] lần thứ 12 đã thêm một lần nữa khẳng định nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng thiêng của cả dân tộc, của nhân dân ta trên cả hai miền Nam, Bắc; từ đó đề ra quyết tâm: động viên lực lượng cả nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất cứ tình huống nào để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình, thống nhất nước nhà.

Đường lối kháng chiến do Đảng đề ra đã đáp ứng nguyện vọng tha thiết của nhân dân cả nước, thực sự trở thành ngọn cờ dẫn dắt toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta cùng nhau đoàn kết phát huy sức mạnh tổng hợp vì lý tưởng cách mạng cao đẹp mà lịch sử đặt ra. Sức mạnh đấu tranh nhờ đó được biểu hiện phong phú, nhân lên gấp bội, biến thành hành động thực tiễn qua nhiều phong trào thi đua yêu nước sôi nổi khắp cả nước, từ hậu phương đến tiền tuyến.

Điển hình như các phong trào “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, thanh niên “ba sẵn sàng”, phụ nữ “ba đảm đang”... ở miền Bắc; các phong trào “Bám đất, giữ làng”, “Một tấc không đi, một li không dời”, “Giết giặc lập công”, “Tìm Mỹ mà đánh, tìm ngụy mà diệt”... ở miền Nam; hay quyết tâm “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, “Xe chưa qua, nhà không tiếc”... trên tuyến chi viện chiến lược Bắc - Nam. Tất cả đều hướng đến mục tiêu độc lập, hòa bình và thống nhất non sông.

Một nhà sử học Mỹ đã nhận xét rằng: Lịch sử phải đánh giá họ [người Việt Nam - miền Nam cũng như miền Bắc] cao nhất về sức chiến đấu ngoan cường và dũng cảm của con người. Còn cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert McNamara thì thừa nhận: nước Mỹ thua trận vì đánh giá thấp sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc Việt Nam thúc đẩy họ đấu tranh cho giá trị và mục tiêu cao cả.

Bằng sức mạnh đó, trải qua gần 20 năm liên tục chiến đấu anh dũng kiên cường, bền bỉ, quân dân Việt Nam lần lượt từng bước đánh bại các chiến lược chiến tranh của kẻ thù: chiến tranh đơn phương, “tố cộng, diệt cộng” [1954 - 1960], “chiến tranh đặc biệt” [1961 - 1965], “chiến tranh cục bộ” [1965 - 1968], “Việt Nam hóa chiến tranh” [1969 - 1973], buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pa-ri [1973] về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, rút hết quân viễn chinh về nước. Đây là thắng lợi cơ bản, mở ra bước ngoặt mới cho sự nghiệp kháng chiến.

Quyết tâm giành toàn thắng

Với bản chất ngoan cố, hiếu chiến, tuy rút quân viễn chinh về nước, song đế quốc Mỹ lại lập ra bộ chỉ huy quân sự trá hình, tiếp tục viện trợ cho chính quyền, quân đội Sài Gòn ra sức phá hoại Hiệp định hòa bình vừa mới ký kết, hòng kéo dài chiến tranh xâm lược.

Về phía cách mạng, chúng ta thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Pa-ri, nhưng trước hành động phá hoại trắng trợn, có hệ thống của địch, buộc nhân dân ta phải tiếp tục đấu tranh để giữ vững thành quả cách mạng, từ đó tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Hội nghị Trung ương Đảng [khóa III] lần thứ 21 [7/1973] đã khẳng định: bất kể trong tình huống nào, con đường giành thắng lợi của cách mạng Việt Nam vẫn là con đường bạo lực, do đó phải nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công để giành toàn thắng.

Đến cuối năm 1974, đầu năm 1975, cục diện chiến tranh có sự chuyển biến mau lẹ theo hướng ngày càng có lợi cho cách mạng. Đáp ứng yêu cầu cấp cách mạng đặt ra, Đảng họp Hội nghị Bộ Chính trị [30/9 - 7/10/1974] và Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng [18/12/1974 - 8/1/1975], chính thức hạ quyết tâm: Động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đẩy mạnh đấu tranh quân sự, chính trị, kết hợp với đấu tranh ngoại giao, làm thay đổi nhanh chóng, toàn diện so sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam theo hướng có lợi cho ta; tiến hành rất khẩn trương và hoàn thành mọi mặt công tác chuẩn bị, tạo điều kiện chín muồi, tiến hành tổng công kích tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng miền Nam.

Thực hiện quyết tâm mà Bộ Chính trị đề ra, cả dân tộc “ra quân” trong mùa Xuân 1975 lịch sử. Chưa bao giờ, khát vọng hòa bình, thống nhất non sông của quân dân ta diễn ra sục sôi cao trào như thời điểm này. Chỉ ba tháng đầu năm 1975, hậu phương miền Bắc đã dốc sức đưa vào chiến trường miền Nam gần 12 vạn cán bộ, chiến sĩ; chi viện 230 nghìn tấn vật chất các loại, bảo đảm 81% vũ khí, 60% xăng dầu, 65% thuốc men, 85% xe vận tải...

Sự chi viện từ miền Bắc cho miền Nam thời kỳ này không chỉ tạo nên sức mạnh áp đảo về thế và lực so với quân địch, phục vụ tốt yêu cầu Tổng tiến công và nổi dậy, mà còn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng vùng giải phóng trên tất cả các mặt: kinh tế, quốc phòng, văn hóa, giáo dục, y tế... chuẩn bị cho việc tiếp quản vùng giải phóng khi chiến tranh kết thúc.

Được sự chi viện to lớn của miền Bắc, trên khắp chiến trường miền Nam, quân dân ta ra sức chuẩn bị các mặt cho trận quyết chiến quyết định cuối cùng. Chưa bao giờ, các phong trào đấu tranh chính trị, quân sự, binh vận, ngoại giao diễn ra sôi nổi như thời gian này, đẩy chính quyền, quân đội Sài Gòn lún sâu hơn vào tình thế khó khăn, hoàn toàn bị cô lập. Sức mạnh chiến đấu từ hơn 20 năm được dồn lại cho thời khắc lịch sử này.

Sau một thời gian chuẩn bị mọi mặt tạo thế, tạo lực, ngày 4/3/1975, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân dân ta bắt đầu, diễn ra với ba đòn tiến công chiến lược lớn: Chiến dịch Tây Nguyên [từ 4/3 đến 3/4/1975], tiến công giải phóng Huế - Đà Nẵng [từ 21/3 đến 29/3/1975] và Chiến dịch Hồ Chí Minh [từ 26/4 đến 30/4/1975].

Trưa 30/4/1975, quân ta tiến vào Dinh Độc Lập, bắt sống toàn bộ nội các chính quyền trung ương địch. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, kết thúc thắng lợi hoàn toàn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và cả chặng đường 30 năm đấu tranh trường kỳ gian khổ [1945 - 1975]. Đây chính là một trong những chiến công tiêu biểu nhất, huy hoàng nhất trong tiến trình phát triển của dân tộc Việt Nam.

Nhân dịp cả nước chào mừng kỷ niệm 45 năm Đại thắng mùa Xuân 1975, chúng ta càng nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ, toàn diện hơn về ý nghĩa tầm vóc sự kiện lịch sử trọng đại này. Từ đó, mỗi chúng ta càng nêu cao niềm tự hào dân tộc, biết trân trọng gìn giữ hòa bình, gìn giữ chủ quyền, từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc; ra sức thi đua lao động, học tập, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

PGS, TS Nguyễn Đình Lê, Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội nguồn: TTXVN

                                                                                ThS. Nguyễn Thị Hiền - Khoa Xây dựng Đảng

        Sau khi Hiệp định Giơnevơ được kí kết, đế quốc Mỹ nhảy vào thay chân thực dân Pháp ở miền Nam Việt Nam, Với âm mưu thâm độc hòng “kéo dài biên giới Hoa Kỳ đến vĩ tuyến 17” và tiến tới vượt sông Bến Hải tiến quân ra miền Bắc, ngăn chặn phong trào giải phóng dân tộc và chủ nghĩa cộng sản đang lan tràn xuống khu vực Đông Nam Á. Việc Mỹ chủ trương khẩn trương gạt Pháp là chủ trương đầy toan tính, xảo quyệt.

        Để thực hiện âm mưu xâm lược, Mỹ đã thực hiện “kế hoặch CôLin”. Theo đó Mỹ sẽ bảo trợ cho chính quyền Diệm, xây dựng lại quân đội quốc gia của Diệm do Mỹ trực tiếp trang bị huấn luyện và chỉ huy. Đồng thời, tổ chức bầu cử “Quốc hội ” để miền Nam Việt Nam thực hiện “độc lập” hợp pháp hoá chính quyền Diệm. 
        Đây là kế hoạch đầu tiên của đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam được thực hiện thông qua chính quyền tay sai, một hình thức thực dân giấu mặt, trá hình nguy hiểm của đế quốc Mỹ. Vì vậy Việt Nam trở thành nơi đụng đầu lịch sử giữa phong trào độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa đế quốc.
Đối với miền Bắc, chúng tến hành chiến dịch dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào di cư vào Nam. Đây là âm mưu khá thâm độc, nham hiểm của địch để tạo ra ảnh hưởng xấu về chế độ chính trị xã hội ở miền Bắc, ngăn chặn sự ảnh hưởng  của cách mạng Việt Nam đối với vùng Đông Nam Á. Đồng thời chúng mưu toan phá hoại lực lượng sản xuất, làm cho đời sống xã hội của miền Bắc không ổn định.
        Đối với miền Nam, đế quốc Mỹ thấy rằng mối đe doạ trực tiếp lớn nhất đối với sự tồn tại của chúng ở đây là lực lượng cách mạng và lòng dân đi theo cách mạng ở khắp các thôn, xã  từ vùng tự do Liên khu V đến các căn cứ kháng chiến U Minh, Dương Minh Châu, chiến khu Đ…
        Chính vì vậy, một mặt chúng thanh lọc nội bộ, mặt khác chúng tiến hành chiến dịch tố cộng, diệt cộng. Chúng chĩa mũi nhọn vào những nguời kháng chiến cũ và những người yêu nước, những gia đình có con đi tập kết, những người tán thành hoà bình, thống nhất. Đặc biệt là đội ngũ đảng viên cộng sản, ngoài ra chúng còn tiến hành hàng trăm nghìn cuộc tuy quét vây bắt, tàn sát đẫm máu những người yêu nước, những người kháng chiến cũ.
        Đỉnh cao của chính sách khủng bố với những người yêu nước của bè lũ Mỹ - Diệm là ban hành đạo luật 10/59. Với đạo luật này chúng thẳng tay giết hại bất cứ ngưòi yêu nước nào hoặc bất cứ ai đối lập với chúng. Chúng lê máy chém khắp miền Nam, không những tiêu diệt những người cộng sản mà còn gây không khí lo sợ, nghi kỵ, chia rẽ trong dân chúng, làm tê liệt ý chí đấu tranh chống lại chế độ của Ngô Đình Diệm .
        Chính sách phát xít của Mỹ - Diệm đã đặt cách mạng miền Nam vào tình thế hiểm nghèo. Không những mục tiêu hoà bình thống nhất chưa thể thực hiện được, mà ngay bản thân các lực lượng cách mạng có nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn.
        Trước âm mưu và thủ đoạn của đế quốc Mỹ, tại Hội nghị lần thứ VI của Ban Chấp hành Trung ương Đảng [khoá II], Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Báo cáo chính trị. Báo cáo đã chỉ ra những khó khăn trước mắt của nhân dân ta, chủ yếu là khó khăn do âm mưu xâm lược của đế quốc Mỹ gây ra. Báo cáo khẳng định kẻ thù chính của nhân dân ta là đế quốc Mỹ, “hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống Mỹ”, Người chỉ rõ "tranh lấy hoà bình không phải là một việc dễ, nó là một cuộc đấu tranh trường kỳ, gian khổ, phức tạp” .
        Người nêu lên một số nhiệm vụ và công tác trước mắt mà trong đó công tác then chốt là làm cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân nhận rõ tình hình và nhiệm vụ mới, nhận rõ tính chất và nhiệm vụ của giai đoạn mới.
        Cũng trong Hội nghị lần thứ VI, đồng chí Tổng bí thư Trường Chinh đã tiếp tục cụ thể hoá quan điểm và phương hướng cơ bản trong báo cáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng thời nhấn mạnh, nhiệm vụ trước mắt là đấu tranh cho hoà bình, vì vậy phải  tăng cường lực lượng, củng cố quốc phòng đặc biệt chú ý vấn đề chỉ đạo giải phóng miền Nam. Phải làm cho cán bộ, chiến sĩ, đồng bào hiểu rõ yêu cầu, nhiệm vụ những khó khăn sẽ phải nhiều hơn và không được chủ quan khinh địch.
        Báo cáo cũng đặt ra phương châm công tác ở vùng tạm địch chiếm, triệt để lợi dụng thế hợp pháp và nửa hợp pháp để vận động quần chúng đấu tranh. Tổ chức Đảng phải bí mật, chuyển cán bộ vào hoạt động bí mật, khéo che dấu lực lượng, kiên quyết đấu tranh chống chính sách kêu gọi đầu thú của địch để bảo toàn lực lượng.
        Hội nghị còn chỉ thị cho Đảng bộ Nam Bộ, Liên khu uỷ V là phải lãnh đạo nhân dân đấu tranh đòi địch phải thi hành Hiệp định Giơnevơ, củng cố hoà bình, đấu tranh vì dân sinh, giữ vững những quyền lợi đã giành được trong đấu tranh chống địch khủng bố.
        Bộ chính trị còn chỉ thị rõ, Mỹ và tay sai có thể sẽ phá hoại Tổng tuyển cử, việc chia rẽ có thể trường Kỳ cho nên các cấp cần quán triệt và thực hiện tốt ba nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam.
        Một là, tập trung đấu tranh đòi Mỹ thi hành Hiệp định Giơnevơ
      Hai là, chuyển hướng công tác cho phù hợp với tình hình mới, tập hợp rộng rãi các lực lượng nhằm đánh đổ chính quyền Ngô Đình Diệm, thành lập Mặt trận dân tộc thay mặt trận Liên Việt, vận động quân đội, đưa ngưòi của ta bí mật vào hoạt động trong bộ máy của địch.
        Tháng 10.1954 tại U Minh Hạ hội nghị thành lập Xứ uỷ Nam Bộ được triệu tập. Hội nghị đã tiếp thu, thực hiện nghị quyết của Trung ương Đảng và đề ra nhiệm vụ cho toàn miền Nam là tăng cường công tác tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng hi sinh cho sự nghiệp cách mạng, khắc phục tư tưỏng cầu an, dao động… tổ chức thêm các chi bộ mới ở đô thị .
        Ngày 18.8.1956 Bộ chính trị gửi thư cho Xứ uỷ Nam Bộ nói rõ thêm công tác cụ thể ở miền Nam trong tình hình hiện nay, cần tổ chức ra những đội tự vệ nhằm bảo vệ xã, thôn, trường học, bệnh viện, bảo vệ các cuộc đấu tranh của quần chúng, giải thoát cán bộ khi cần thiết.
        Đây là những chủ trương đúng đắn, kịp thời có tác dụng quan trọng trong việc duy trì và phát triển lực lượng vũ trang tự vệ ở miền Nam.
        Căn cứ vào sự phát triển của tình hình miền Nam, tháng 8.1956 đồng chí Lê Duẩn uỷ viên Bộ chính trị, Bí thư Xứ uỷ Nam Bộ đã viết “Đề cương cách mạng miền Nam”. Đề cương đã xác định nhân dân miền Nam không có con đường nào khác là đứng lên làm cách mạng để cứu nước, cứu mình.
        Theo tinh thần nghị quyết của Bộ chính trị và nghị quyết Xứ uỷ Nam Bộ. Đảng ta một lần nữa khẳng định để giành thắng lợi cho cách mạng miền Nam phải bằng con đường cách mạng bạo lực.
        Xuất phát từ chủ trương đó, các đơn vị vũ trang tuyên tuyền, vũ trang bí mật đã nối tiếp nhau ra đời. Liên tỉnh miền Trung Nam Bộ xây dựng được 3 đại đội vũ trang hoạt động ở Đồng Tháp Mười, Liên tỉnh miền Tây xây dựng được 3 đại đội vũ trang. Đến cuối 1957, ở Nam Bộ đã có tới 37 đơn vị vũ trang cách mạng. 
        Sau khi các đơn vị vũ trang được thành lập đã lập nên những chiến công xuất sắc. Nổi bật nhất là trận đánh tiến công vào quận lị Dầu Tiếng, cách Sài Gòn 70 km về phía bắc, đánh thiệt hại 2 tiểu đoàn, diệt 200 tên và thu 200 súng.
        Chiều ngày 25.10.1958, bộ đội biệt động Đông Nam Bộ đã tập kích vào trụ sở phái đoàn cố vấn Mỹ [MAAG] ở Biên Hoà diệt nhiều tên.
        Trước tình hình đó Diệm tuyên bố đặt miền Nam trong tình trạng chiến tranh. Trước không khí sôi sục, căm thù của đồng bào miền Nam và khí thế vùng dậy đấu tranh của quần chúng. Trung uơng Đảng đã có cuộc họp quan trọng xác định đường lối và phương pháp cách mạng miền Nam đó là Hội nghị lần thứ 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
        Hội nghị đã phân tích và đề ra nhiệm vụ cách mạng miền Nam, là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập dân tộc. Hội nghị đã chỉ rõ quá trình thực hiện nhiệm vụ ấy là một quá trình lâu dài, phải từng bước.
        Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là đoàn kết toàn dân đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm, thành lập chính quyền Liên hiệp dân tộc, dân chủ ở miền Nam.
        Để thực hiện nhiệm vụ đó, nhân dân miền Nam phải đấu tranh bằng con đường khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, tuỳ theo tình hình cụ thể và yêu cầu cách mạng thì con đường đó là xây dựng sức mạnh của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ chính quyền Mỹ- Diệm. Trung ương Đảng còn dự kiến “đế quốc Mỹ là tên đế quốc hiếu chiến nhất, cho nên trong những điều kiện nào đó cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ giữa ta và địch. Đảng phải thấy trước khả năng ấy để chuẩn bị chu đáo và chủ động đối phó với mọi tình thế ”.
        Nhiệm vụ miền Nam là hết sức nặng nề, để tăng cường lực lượng, phát huy sức mạnh tổng hợp của miền Nam. Nghị quyết chủ trương thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất riêng cho phù hợp với tính chất và nhiệm vụ ở miền Nam, điều quan trọng và là nhân tố quyết định cho thắng lợi của cách mạng miền Nam là sự tồn tại và trưởng thành của Đảng bộ miền Nam.
        Kế thừa tinh thần Nghị quyết lần thứ 15, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III khẳng định “Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của Mỹ - Diệm...đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ, tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm”.
        Có thế nói, nghị quyết của Hội nghị lần thứ 15 là một trong những khởi điểm quan trọng dẫn đến thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ  và tay sai. Đã mở ra một bước ngoặt mới thúc đẩy cách mạng miền Nam tiến lên, Nghị quyết đã đáp ứng nhu cầu bức thiết của cách mạng miền Nam lúc đó. Chính Nghị quyết đã dẫn đến cuộc Đồng Khởi oanh liệt trên toàn miền Nam giữa năm 1959 đến cuối 1960.
Phong trào Đồng Khởi trên toàn miền Nam, chứng tỏ lực lượng vũ trang cùng phong trào đấu trang chính trị của nhân dân miền Nam đã phát triển lên một tầm cao mới, đây là sức mạnh để nhân dân miền Nam đủ sức đương đầu chiến đấu chống Mỹ và tay sai giành chính quyền.


        Thắng lợi của Đồng Khởi là một mốc rất quan trọng của cách mạng miền Nam, tạo cơ sở vững chắc để nhân ta đánh thắng chiến lược chiến tranh tiếp theo của Mỹ, tạo đà cho cách mạng miền Nam vững bước tiến lên.
        Chiến công oanh liệt của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, kết thúc bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đã chứng minh đường lối quân sự và phương pháp cách  mạng của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn. Chính quá trình hình thành đường lối chiến lược quân sự cách mạng từ 1954 đến 1960 dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giúp cho nhân dân miền Nam nói riêng cả nước nói chung có đủ thế và lực đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Hồ Chí Minh [1996], toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 313

Hồ Chí Minh [1996], toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr319

Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam [2004], Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 102

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 

 



 

Video liên quan

Chủ Đề