Phong cách ngôn ngữ của bài Hai đứa trẻ

A. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM

1. Tác giả

  • Thạch Lam (1910 - 1942) tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh (sau đổi thành Nguyễn Tường Lân), ông sinh tại Hà Nội, nhưng có một thời gian lúc còn thơ ấu sống với gia đình ở huyện cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.
  • Thạch Lam sở trường về thể truyện ngắn. Ông sáng tạo ra một lôi truyện ngắn riêng: loại truyện tâm tình. Không có cốt truyện đặc biệt. Chú trọng đi vào nội tâm nhân vật với những tình cảm, cảm xức, cảm giác mơ hồ, mong manh. Mỗi truyện là một bài thơ trữ tình đầy xót thương. Sau những hình ảnh, những dòng chữ là một tâm hồn đôn hậu, tinh tế, nhạy cảm, một trái tim nhân hậu, yêu thương của Thạch Lam.
  • Thạch Lam là nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam, ông đã có những đóng góp lớn lao, ông thường viết những truyện không có chuyện, ông chủ yếu lấy đề tài từ văn hóa nội tâm của con người.
  • Văn của Thạch Lam trong sáng giản dị mà trầm lắng, sâu sắc.
  • Tác phẩm chính: Các tập truyện ngắn: Gió đầu mùa (1937), Nắng trong vườn (1938), Sợi tóc (1942), tập tùy bút Hà Nội 36 phố phường (1943), và tập tiểu luận, phê bình văn học Theo dòng (1941). Truyện Hai đứa trẻ rút trong tập Nắng trong vườn.

2. Tác phẩm

  • Hai đứa trẻ là truyện ngắn xuất sắc, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Thạch Lam. Tác phẩm thuộc loại truyện ngắn trữ tình, qua tâm trạng của hai đứa trẻ và cảnh sống nghèo cực của những người dân nơi phố huyện nhà văn đã thể hiện những tư tưởng nhân đạo sâu sắc về thân phận con người.

Tổng hợp đề đọc hiểu tác phẩm Hai đứa trẻ

Xuất bản ngày 27/03/2020 - Tác giả: Giangdh

Cùng tham khảo các đề đọc hiểu Hai đứa trẻ - Thạch Lam để làm quen với các dạng câu hỏi đọc hiểu về văn bản này trong các kì thi em nhé!

Mục lục nội dung

  • 1. Đề số 1
  • 2. Đề số 2
  • 3. Đề số 3

Mục lục bài viết

Tác phẩm văn học Hai đứa trẻ là một trong các bài học thuộc môn Ngữ văn lớp 11. Câu chuyện nói về cuộc sống của hai chị em Liên và An trong một phố huyện nghèo, buồn bã. Để giúp bạn hiểu rõ ràng và sâu sắc hơn về các dạng đề đọc hiểu liên quan đến tác phẩm này, cùng Đọc Tài Liệu tham khảo một số đề đọc hiểu Hai đứa trẻ dưới đây và xem gợi ý đáp án của từng đề bạn nhé:

Đề số 1

Đọc đoạn trích và trả lời các câu hỏi sau:

Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời.

Chiều, chiều rồi. Một buổi chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve. Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn thơ ngây của chị; Liên không sao hiểu, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn.

(Trích "Hai đứa trẻ"- Thạch Lam, Ngữ văn 11, tập 1, NXB giáo dục Việt Nam 2011)

Câu 1:Cho biết văn bản trên nói về điều gì?

Câu 2:Hãy xác định và nêu ý nghĩa tác dụng của biện pháp tu từ trong đoạn một của văn bản.

Câu 3:Cho biết các phương thức biểu đạt trong văn bản và phương thức biểu đạt nào là chủ yếu?

Câu 4:Giải thích cách sử dụng dấu chấm phẩy ";" trong câu cuối của văn bản.

Câu 5:Nhận xét gì về nét đặc sắc nghệ thuật trong văn bản trên?

Có thể bạn quan tâm: Soạn bài Hai đứa trẻ

Đáp án đề đọc hiểu Hai đứa trẻ số 1

Câu 1: Văn bản trên miêu tả bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, thơ mộng vào buổi chiều tàn qua cảm nhận của Liên.

Câu 2:

- Biện pháp tu từ trong đoạn trích trên là:

  • Nhân hóa: "Tiếng trống thu không ...... gọi buổi chiều."
  • So sánh: "Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn."

- Tác dụng của biện pháp tu từ trong đoạn trích trên là: hình ảnh miêu tả trong đoạn văn có tính gợi hình, gợi cảm. Thiên nhiên trở nên tươi đẹp thơ mộng trong thời khắc của ngày tàn.

Câu 3:

- Các phương thức biểu đạt trong văn bản trên là: miêu tả, biểu cảm.

- Phương thức biểu đạt chính trong văn bản trên là: miêu tả

Câu 4: Cách sử dụng dấu chấm phẩy ";" trong câu cuối của văn bản là:

  • Dấu chấm phẩy là một dấu câu thông dụng, có tác dụng ngắt quãng câu hoặc dùng để liệt kê.
  • Dấu chấm phẩy dùng trong câu cuối của văn bản để chỉ ranh giới giữa các vế trong câu ghép song song, giữa các vế có sự liệt kê, bổ sung về nghĩa.

Câu 5: Những nhận xét về nét đặc sắc nghệ thuật trong văn bản trên:

- Ở đoạn trích trên, nghệ thuật đặc sắc được sử dụng đó là nghệ thuật miêu tả:

  • Quan sát tinh tế: không gian tĩnh lặng, màu sắc hài hòa nhưng có tính đối lập giữa sáng và tối, âm thanh đa dạng nhưng gần gũi.
  • Dùng từ ngữ, hình ảnh có tính hình tượng và đầy chất thơ thông qua lối nhân hóa, so sánh, miêu tả cảnh và tâm trạng bâng khuâng, man mác.

Đề số 2

Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:

Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như những hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời.

Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve. Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị; Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn.

- Em thắp đèn lên chị Liên nhé?

Nghe tiếng An, Liên đứng dậy trả lời:

- Hẵng thong thả một lát nữa cũng được. Em ra ngồi đây với chị kẻo ở trong ấy muỗi.

An bỏ bao diêm xuống bàn cùng chị ra ngoài chõng ngồi; chiếc chõng nan lún xuống và kêu cót két.

- Cái chõng này sắp gãy rồi chị nhỉ?

- Ừ để rồi chị bảo mẹ mua cái khác thay vào.

Hai chị em gượng nhẹ ngồi yên nhìn ra phố. Các nhà đã lên đèn cả rồi, đèn treo trong nhà bác phở Mĩ, đèn hoa kì leo lét trong nhà ông Cửu, và đèn dây sáng xanh trong hiệu khách… Những nguồn ánh sáng ấy ĐỀu chiếu ra ngoài phố khiến cát lấp lánh từng chỗ và đường mấp mô thêm vì những hòn đá nhỏ một bên sáng một bên tối.

Chợ họp giữa phố đã vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này. Một vài người bán hàng về muộn đang thu xếp hàng hóa, đòn gánh đã xỏ sẵn vào quang rồi, họ còn đứng nói chuyện với nhau ít câu nữa.

Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì đó có thể dùng được của các người bán hàng để lại, Liên trông thấy động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó.

(Ngữ văn 11,Tập một, NXB Giáo dục, 2009, tr.95-96)

Câu 1. Đoạn trích trên được trích từ tác phẩm nào? Của ai? Giới thiệu vài nét về tác giả đó.

Câu 2. Nêu nội dung chính của đoạn trích.

Câu 3. Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của những câu văn: Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào.

Câu 4. Bức tranh phố huyện được tác giả thắp lên bằng những nguồn ánh sáng nào? Cảm nhận của anh/chị về các chi tiết miêu tả ánh sáng của những ngọn đèn ở các câu văn in đậm trong đoạn trích.

Câu 5. Những âm thanh được gợi tả nói lên điều gì về cuộc sống của những người dân nơi phố huyện?

Bài văn tham khảo: Phân tích hình ảnh phố huyện lúc chiều tàn

Đáp án đề đọc hiểu Hai đứa trẻ số 2

Câu 1:

- Đoạn trích được trích từ tác phẩm Hai đứa trẻ của nhà văn Thạch Lam.

- Giới thiệu tác giả: Thạch Lam (1910 - 1942) là người đôn hậu và rất tinh tế, rất thành công ở truyện ngắn. Ông chủ yếu khai thác thế giới nội tâm nhân vật với những cảm xúc mong manh, mơ hồ. Mỗi truyện của ông như một bài thơ trữ tình...

Câu 2: Nội dung chính của đoạn trích là: bức tranh phố huyện lúc chiều tàn

Câu 3: Những câu văn: Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào...hấp dẫn người đọc bằng giọng văn nhẹ nhàng, chậm rãi, đậm chất thơ. Những câu văn giàu hình ảnh, nhạc điệu, uyển chuyển, tinh tế không những giúp người đọc hình dung được cảnh vật êm đềm, tĩnh lặng mà còn khơi gợi xúc cảm yêu mến xen lẫn nỗi buồn man mác trước khung cảnh chiều muộn nơi phố huyện nghèo.

Câu 4:

- Bức tranh phố huyện được tác giả thắp lên bằng những nguồn ánh sáng là:

  • Bầu trời (phía tây): đỏ rực như lửa cháy. Ráng chiều, khối sáng này chỉ bừng lên phút chốc rồi sẽ tắt lụi nhanh chóng. Đây là thứ ánh sáng dọn đường cho bóng tối.
  • Mây: ánh hồng như những hòn than sắp tàn, cụ thể hoá sự lụi tàn nhanh chóng của ráng chiều.

- Quá trình biến đổi từ đỏ rực đến ánh hồng, từ lửa cháy đến những hòn than sắp tàn thể hiện sự thuyên chuyển sắc độ của ánh sáng diễn ra nhanh chóng trong khoảnh khắc.

  • Dãy tre làng đen lại, so với các sắc độ bên trên, màu sắc hoàn toàn biến đổi.
  • Đèn: đèn treo trong nhà bác phở Mĩ, đèn hoa kì leo lét trong nhà ông Cửu, đèn dây sáng xanh trong hiệu khách. Phố huyện nhiều đèn nhưng không cái nào toả ánh sáng thực rạng rỡ mà chỉ leo lét, sáng xanh - thứ ánh sáng yếu ớt của cuộc sống mòn mỏi, nghèo khó và tù hãm (trong nhà, trong nhà, trong hiệu khách).

=> Nhiều nguồn sáng được thắp lên nhưng không vì thế mà phố huyện hiện lên lung linh, rực rỡ. Những nguồn sáng đó báo hiệu một không gian sống tối tăm, mờ mịt đang đến gần.

- Ở các câu văn in đậm trong đoạn trích, nhà văn đã thắp lên rất nhiều ngọn đèn: đèn treo trong nhà bác phở Mĩ, đèn hoa kì leo lét trong nhà ông Cửu, đèn dây sáng xanh trong hiệu khách. Tuy nhiên, tất cả đều là chỉ thứ ánh sáng yếu ớt (leo lét, sáng xanh) và giam hãm (trong nhà bác phở Mĩ, trong nhà ông Cửu, trong hiệu khách). Ngần ấy nguồn sáng được thắp lên nhưng không đủ để chiếu sáng vùng đất cát phía trước mà chỉ có thể làm cho cát lấp lánh từng chỗ và đường mấp mô thêm vì những hòn đá nhỏ một bên sáng một bên tối. Chi tiết đắt giá tô đậm cuộc sống tăm tối, tù hãm của những người dân của phố huyện nghèo.

Câu 5:

- Bức tranh phố huyện còn được tác giả dựng lại bằng khá nhiều âm thanh:

  • Tiếng trống thu không báo hiệu trời sắp tối. Từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều, thưa thớt, chậm rãi, buồn bã.
  • Tiếng ếch nhái văng vẳng kêu ran ngoài đồng ruộng. Âm thanh có vẻ rộn ràng, náo động nhưng lại từ xa vọng lại, gợi sự heo hút, vắng lặng.
  • Tiếng muỗi vo ve, tả âm thanh gần, gợi sự cái tăm tối, tù đọng.
  • Tiếng chõng nan cót két gợi sự tàn tạ.

=> Bức tranh có nhiều âm thanh nhưng không âm thanh nào sôi động, ồn ào, náo nhiệt. Âm thanh không khuấy đảo sự sống mà càng nhấn vào sự vắng lặng, buồn tẻ, tịch mịch, tù đọng, tàn lụi trong cuộc sống của những người dân nghèo quanh phố huyện buồn vắng.

Đề số 3

Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi nêu ở dưới:

"Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời. Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối muỗi đã bắt đầu vo ve. Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen ; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị ; Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn."

(Trích "Hai đứa trẻ" - Thạch Lam, SGK Ngữ văn 11 tập 1, NXBGD năm 2014)

Câu hỏi:

Câu 1: Đoạn văn trên được viết theo phương thức nào là chính?

Câu 2: Nêu nội dung của đoạn văn?

Câu 3: Những đặc sắc về nghệ thuật trong đoạn văn? Tác dụng?

Câu 4: Vẻ đẹp văn phong Thạch Lam qua đoạn văn trên

Đáp án đề đọc hiểu Hai đứa trẻ số 3

Câu 1: Phương thức miêu tả chính của đoạn văn trên là: miêu tả.

Câu 2: Nội dung của đoạn văn là: bức tranh thiên nhiên phố huyện với vẻ đẹp trầm buồn, tĩnh lặng, rất đỗi thơ mộng lúc chiều tà và tâm hồn tinh tế, nhạy cảm của Liên.

Câu 3:

- Những đặc sắc về nghệ thuật trong đoạn văn là:

  • Hình ảnh so sánh độc đáo: Phương tây đỏ rực nhưlửa cháy và những đám mây ánh hồng nhưhòn than sắp tàn
  • Nghệ thuật tả cảnh: dùng ánh sáng để gợi tả bóng tối, dùng động tả tĩnh -> sử dụng nghệ thuật tương phản làm đòn bẩy
  • Ngôn ngữ: tinh tế, giàu chất thơ
  • Âm điệu: trầm buồn

- Tác dụng: làm nổi bật nội dung đoạn văn và ngòi bút tài hoa của tác giả

Câu 4: Vẻ đẹp văn phong của Thạch Lam trong đoạn văn trên là: Ngôn ngữ trong văn Thạch Lam giàu hình ảnh, giàu chất thơ, giọng văn nhẹ nhàng mà thấm thía, đậm chất trữ tình.

Tham khảo thêm:Sơ đồ tư duy Hai đứa trẻ

------------

Trên đây là một số đề Đọc hiểu Hai đứa trẻ mà Đọc tài liệu đã sưu tầm được, mong rằng sẽ giúp ích cho các em trong quá trình ôn tập tại nhà!

Hãy nêu những nét đặc sắc của phong cách nghệ thuật Thạch Lam qua truyện Hai đứa trẻ

Trang trước Trang sau

Câu hỏi: Hãy nêu những nét đặc sắc của phong cách nghệ thuật Thạch Lam qua truyện “Hai đứa trẻ”.

Trả lời:

Quảng cáo

Truyện ngắn của Thạch Lam thường không có cốt truyện, đó là những dòng cảm xúc nhẹ nhàng, những rung động về cuộc sống của nhà văn,

Những trang viết vừa đậm đà yếu tố hiện thực, vừa phảng phất chất lãng mạn, thơ ca.

Tiêu biểu cho loại truyện tâm tình của Thạch Lam, thể hiện cái tình người chân chất, nhẹ nhàng, thấm sâu khắp truyện, tập trung tới thế giới nội tâm nhân vật, lối kể chuyện thủ thỉ như tâm sự với người đọc.

Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật trong khoảng thời gian từ khi hoàng hôn buông xuống đến khi đêm về kết hợp với không gian nghệ thuật hẹp nhưng cụ thể tác giả đã để cho các nhân vật của mình xuất hiện và bộc lộ mình

Ngôn ngữ đơn giản, súc tính, giàu tính tạo hình.

Quảng cáo

Xem thêm các câu hỏi về các tác phẩm Ngữ văn lớp 11 chọn lọc, có đáp án chi tiết hay khác:

Trang trước Trang sau

Nét đặc sắc về phong cách nghệ thuật của Thạch Lam qua truyện Hai đứa trẻ.

Quảng cáo

Xem thêm:

  • Soạn bài Hai đứa trẻ - Thạch Lam - Ngắn gọn nhất
  • Soạn bài Hai đứa trẻ (chi tiết)
  • Hai đứa trẻ - Thạch Lam

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

  • Dàn ý
  • Bài mẫu

  • Dàn ý
  • Bài mẫu
Phong cách ngôn ngữ của bài Hai đứa trẻ
Bài khác

Dàn ý

1. Mở bài:

- Giới thiệu tác giả Thạch Lam

- Giới thiệu tác phẩm Hai đứa trẻ

- Dẫn dắt vấn đề cần nghị luận

2. Thân bài

- Khái quát lại nội dung truyện ngắn Hai đứa trẻ

- Nghệ thuật trong truyện ngắn Hai đứa trẻ

+ Truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam có thể nói đây là một truyện ngắn "phi cốt truyện". Đó là điểm đặc biệt đồng thời cũng là một trong những nét làm nên phong cách riêng trong nghệ thuật viết truyện của Thạch Lam.

+ Ngôn ngữ xúc tích, giàu tính biểu cảm, giàu chất thơ.

+ Đan xen giữa yếu tố lãng mạn và hiện thực.

+ Miêu tả tâm lý đặc sắc, đi sâu vào thế giới tâm hồn nhân vật (đặc biệt là nhân vật Liên)

+ Nghệ thuật tương phản đối lập (giữa ánh sáng và bóng tối; sự im lặng tĩnh mịch với âm thanh tiếng ếch nhái, tiếng trống thu không ...)

+ Giọng điệu nhẹ nhàng, lôi cuốn người đọc.

3. Thân bài

- Khái quát và mở rộng vấn đề

Bài mẫu

Bài tham khảo số 1

Thạch Lam (1910-1942) là thành viên của "Tự lực văn đoàn". Ông thành công về truyện ngắn và bút kí qua các tác phẩm như: "Gió đầu mùa". "Nắng trong vườn", "Hà Nội 36 phố phường". Tác phẩm của Thạch Lam có "cốt cách và phẩm chất văn học", để lại "cái dư vị và cái nhã thú" cho người đọc. Đó là chữ nghĩa của Nguyễn Tuân trong Tuyển tập Thạch Lam.

Truyện ngắn "Hai đứa trẻ" in trong lập "Nắng trong vườn” (1938). Truyện ngắn này có những nét đặc sắc nghệ thuật tiêu biểu cho phong cách của Thạch Lam.

Trên sách Văn học Trung học Phổ thông, Thạch Lam có ba truyện ngắn: "Gió đầu mùa", "Hai đứa trẻ", và "Dưới bóng hoàng lan". Đó là những truyện ngắn không có cốt truyện, mỗi truyện là một bài thơ từ tình đượm buồn. “Gió lạnh đầu mùa" nói về chuyện cho áo và trả áo, cho vay tiền để mua áo ấm giữa 3 đứa trẻ và hai người mẹ. "Dưới bóng hoàng lan" có 4 nhân vật: hai bà cháu, cô thôn nữ Nga và cây hoàng lan. Mái nhà xưa và bóng bà "che mát" tâm hồn đứa cháu; hương thơm và bóng hoàng lan ướp hương và ủ ấp cho một mối tình êm đẹp "dịu ngọt chăng tơ...". Còn truyện "Hai đứa trẻ" nói về một phố huyện nghèo và tâm trạng thao thức của hai chị em Liên và An khắc khoải đợi chờ một chuyến tàu đêm đi qua. Hình ảnh đoàn tàu và tiếng còi tàu đã trở thành một thói quen của cảm xúc và ước vọng. Tuy không có cốt truyện, nhưng "Hai đứa trẻ" có một hương vị thật là man mác. Đó là chất thơ.

"Hai đứa trẻ" có bao chi tiết nghệ thuật giàu sức gợi sâu xa. Thạch Lam tả cảnh, tả người hay kể chuyện đều chọn lọc, tạo nên ấn tượng, nhiều xao xác và bâng khuâng. Cảnh phố huyện tối dần, ngoài đồng thì ếch nhái kêu ran; trong nhà thì tiếng muỗi vo ve. Liên ngồi yên lặng, đôi mắt bóng tối ngập đầy dần, tâm hồn ngây thơ thấm thía cái buồn của buổi chiều quê. Bà cụ Thi hơi điên, nghiện rượu, tiếng cười "khanh khách". Tiếng đàn bầu của bác xẩm thì "bần bật". Mẹ con chị Tí bán nước chè. Thằng cu "khiêng hai cái ghế trên lưng”, mẹ nó "đội cái chõng trên đầu"... Thật là vất vả, cực nhọc và nghèo khổ. Những chi tiết ấy rất sống, rất hiện thực. Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn thuộc khuynh hướng lãng mạn. Nhưng truyện của Thạch Lam, đặc biệt truyện "Hai đứa trẻ" thì nội dung hiện thực - nhân đạo hòa quyện đầy ám ảnh và lay động.

Một nét đặc sắc nghệ thuật của Thạch Lam là tinh tế và sâu sắc trong phân tích thế giới nội tâm nhân vật, gợi xúc động những hình thái mơ hồ, mong manh trong lòng người. Những dòng viết về tâm trạng của nhân vật Liên với bao buồn vui lẫn lộn, nhiều xao xác bâng khuâng. Trời tối dần, Liên ngồi nhìn phố huyện, không hiểu sao là chị thấy lòng “buồn man mác". Ngồi đợi tàu trong màn đêm, dưới ngàn sao lấp lánh, và ánh sáng của những con đom đóm nhấp nháy, tâm hồn Liên "yên tĩnh hẳn”. Tàu đến, Liên vội đánh thức em dậy, hai chị em nhìn đoàn xe vút qua, nhìn theo cái chấm nhỏ đèn xanh, xa mãi dần khuất sau rặng tre. Liên cầm tay em, "lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm. Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo". Liên nhớ lại kí ức tuổi thơ và ước vọng. Rồi Liên chìm dần trong giấc ngủ yên tĩnh của phố huyện về khuya "tịch mịch và đầy bóng tối".

Truyện "Hai đứa trẻ" có một giọng điệu rất riêng, giọng điệu tâm tình thủ thỉ. Đó là liếng nói của một con người, như Nguyễn Tuân nhận xét là "tính tình nhẹ nhàng tinh tế", "vừa sống vừa lắng nghe chung quanh..." với bao chuyện buồn vui đang xảy ra. Cái dây xà tích bằng bạc của Liên, Thạch Lam đã phát hiện ra thứ vật dụng mà "chị quý mến và hãnh diện" vì nó tỏ ra chị là người con gái "lớn và đảm đang". Phở bác Siêu là một thứ quà "xa xỉ, nhiều tiền" mà hai chị em Liên không bao giờ mua được, vì thế hai chị em chỉ biết "ngửi thấy mùi phở thơm. Liên nhớ về Hà Nội là nhớ những kỉ niệm tuổi thơ, ngày hố còn đi làm, mẹ nhiều tiền, hai chị em được đi chơi bờ Hồ, được uống những cốc nước lạnh xanh đỏ. Phải chăng đó cũng là kí ức tuổi thơ êm đềm của Thạch Lam?

Thạch Lam sử dụng thành công thủ pháp nghệ thuật tương phản đối lập để làm nổi bật những cảnh đời lầm than nơi phố huyện. Phố huyện ngập đầy bóng tối. Chỉ có vài ngọn đèn le lói. Riêng ngọn đèn nơi chõng hàng chị Tí được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Càng về khuya, phố huyện càng im lìm, tịch mịch. Đêm nào cũng có một chuyến tàu chạy qua phố huyện. Dù chỉ trong khoảnh khắc, nhưng con tàu đã mang đến một thế giới đầy ánh sáng và náo động. Làn khỏi bừng sáng. Các toa đèn sáng trưng. Đồng và kền lấp lánh. Các cửa kính sáng Đốm than đỏ bay tung trên đường sắt. Tiếng xe rít. Tiếng hành khách ồn ào, khe khẽ. Tiếng còi tàu rít lên. Đoàn tàu rầm rộ đi tới và vút qua... Ánh sáng và bóng tối, ồn ào náo động và tịch mịch, tương phản ấy, đối lập ấy đã làm nổi bật những cảnh ngộ nghịch trái, đồng thời đi sâu vào những tâm tình, tâm trạng, những cảm xúc, cảm giác đầy ám ảnh.

Một nét đặc sắc nữa về nghệ thuật của Thạch Lam là câu văn dưới ngòi bút của ông thanh nhẹ, trong sáng, giàu hình ảnh và gợi cảm. Ví dụ, cảnh phố huyện lúc chiều tàn: "Phía tây, đỏ rực như lửa cháy (...). Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran nơi đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào... Đây là cảnh đầu đêm nơi phố huyện: “Trời đã bắt đầu đêm một mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát . Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối...". Nói về câu văn Thạch Lam, Nguyễn Tuân, nhận xét: "Bằng sáng tác văn học. Thạch Lam đã làm cho tiếng nói Việt Nam gọn khẽ đi, co duỗi thêm, mềm mại ra, và tươi đậm hơn".

Sự đào thái và thanh lọc là vô cùng nghiêm khắc và nghiệt ngã đối với bất cứ ai, sự vật nào, nhất là đối với văn chương nghệ thuật. Nhiều cây bút trong "Tự lực văn đoàn" đã bị độc giả ngày nay hờ hững vì thế! Riêng tác phẩm của Thạch Lam, bảy mươi năm sau vẫn được chúng ta yêu thích.

Cái đẹp trong văn chương Thạch Lam, trước hết là cái đẹp của tình người, cái đẹp của một trái tim nhân hậu. Là cái đẹp của chất thơ đậm hương đời và vị đời, là cái đẹp của một ngòi bút giàu bản sắc. Là tinh thần nhân đạo sáng bừng trang văn,... Con người và văn chương của Thạch Lam đáng để ta trân trọng và mến mộ.

Xem các bài tham khảo khác tại đây:

Bài tham khảo số 2

Bài tham khảo số 3

Bài tham khảo số 4

Loigiaihay.com

  • Hai đứa trẻ là truyện ngắn giàu chất thơ. Phân tích ý kiến trên

  • Đọc truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam - Ngữ Văn 12

  • Đọc hiểu văn bản Hai đứa trẻ

  • Đọc truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam - Ngữ Văn 12

  • Trong Hai đứa trẻ, Thạch Lam quan tâm đến loại ánh sáng nào nhất? Vì sao?

Quảng cáo

Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Ngữ Văn 11 - Xem ngay

Báo lỗi - Góp ý

Đọc hiểu văn bản Hai đứa trẻ theo hướng thi pháp học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.2 KB, 18 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THỪA THIÊN HUẾ
TRƯỜNG THPT GIA HỘI
***
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
BỘ MÔN: NGỮ VĂN

Tên đề tài:

ĐỌC HIỂU VĂN BẢN HAI ĐỨA TRẺ
THEO HƯỚNG THI PHÁP HỌC
Họ và tên: TRẦN THỊ THU HÀ
Chức vụ: GIÁO VIÊN
Đơn vị: TRƯỜNG THPT GIA HỘI
Huế, tháng 3 năm 2013
2
ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN HAI ĐỨA TRẺ THEO HƯỚNG
THI PHÁP HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Vấn đề dạy học môn Văn trong trường phổ thông có ý nghĩa thời sự nóng
hổi, luôn thu hút sự quan tâm của nhiều ngành, nhiều giới trong xã hội. GS. Trần
Đình Sử đã khẳng định rõ: “Khởi điểm của môn Ngữ Văn là dạy học sinh đọc
hiểu trực tiếp văn bản văn học của nhà văn… Nếu học sinh không trực tiếp đọc
các văn bản ấy, không hiểu được văn bản, thì coi như mọi yêu cầu, mục tiêu cao
đẹp của môn Văn đều chỉ là nói suông, khó với tới, đừng nói gì tới tình yêu văn
học”. Luận điểm này đã đặt lại vấn đề: “Trở về với văn bản văn học nghệ
thuật là con đường đổi mới căn bản phương pháp dạy học văn hiện nay”.
Văn chương vừa là khoa học vừa là nghệ thuật, là lĩnh vực để con người
hóa thân và thăng hoa. Vì thế nó vô cùng tinh vi và phức tạp. Môn Ngữ văn
trong nhà trường là môn khoa học nhân văn. Tuy vẫn mang tính phức tạp của
đối tượng nghiên cứu, song là một môn học thì nó phải đòi hỏi những chuẩn
mực khoa học để đánh giá các hoạt động giảng dạy, học tập của giáo viên và học


sinh. Việc đọc hiểu văn bản là những thao tác đầu tiên của hình thức tập dượt
nghiên cứu văn học. Nghiên cứu văn học là để hiểu văn học, đối tượng cụ thể là
tác phẩm văn học. Cơ sở và xuất phát điểm của khoa học văn học là sự đối thoại
với các văn bản văn học thông qua hoạt động đọc và hiểu chúng. Về tác phẩm
văn học, nhất thiết phải có khái niệm tác phẩm văn học xây dựng trên cơ sở khái
niệm văn bản mà lí luận văn học hiện hành còn thiếu. Ở đó văn bản chỉ được coi
như cái vỏ ngôn ngữ bên ngoài. Tác phẩm văn học phải được cắt nghĩa theo lí
thuyết tiếp nhận hiện đại”. Như vậy, tư tưởng trở về với văn bản là một luận
điểm khoa học khá nhất quán trong phương pháp dạy và học văn hiện nay.
Tác phẩm văn học mang đặc trưng riêng của cấu trúc tác phẩm nghệ thuật
ngôn từ. Đó là một chỉnh thể bao gồm các thành tố nhà văn – văn bản - người
đọc tương tác với nhau. Nội dung thẩm mĩ của tác phẩm văn học gắn liền với
tầm đón nhận của người đọc. Tiếp nhận văn học tức là đọc hiểu để biến văn bản
thành một thế giới hình tượng sinh động và nắm bắt được ý nghĩa của nó.
Những năm gần đây vấn đề tiếp nhận văn học cũng đã bước đầu được đưa vào
giảng dạy trong chương trình Ngữ văn bậc THPT, ở những mặt cơ bản nhất như:
Vai trò chủ động, tích cực của người đọc; Tính chủ quan và khách quan trong
việc tiếp nhận tác phẩm; Tác động qua lại giữa người đọc và tác phẩm; Người
đọc và “tầm đón nhận”… Như vậy là ít nhiều học sinh cũng đã được tiếp cận với
lí thuyết tiếp nhận hiện đại, đã có những cơ sở bước đầu để tiếp thu văn bản tác
3
phẩm theo hướng thi pháp học. Việc dạy học văn theo hướng thi pháp học đã
bắt đầu được chú ý từ sau thời kì Đổi mới và nhanh chóng được đưa vào vận
dụng trong trường học, như có tác giả đã khẳng định: “Tinh thần thi pháp học
đang thấm dần trong sách giáo khoa, trong giờ giảng văn và trong bài làm văn
học sinh. Thi pháp học đang thu hút sự quan tâm của giới học đường”…
Xuất phát từ mô hình dạy học lấy học sinh làm trung tâm, coi trọng và đề
cao ý thức chủ thể của học sinh, từ mục đích của đổi mới phương pháp dạy học
hiện nay, nhằm giúp các em học sinh vừa nắm được những kiến thức cơ bản,
vừa hình thành thái độ và kĩ năng thực tiễn mà môn Văn đặt ra, đồng thời góp


phần rèn luyện, phát huy tính tích cực, sáng tạo cho học sinh trong giờ đọc –
hiểu tác phẩm văn học ở chương trình Ngữ văn bậc THPT, tôi chọn đề tài: Đọc
– hiểu văn bản Hai đứa trẻ theo hướng thi pháp học.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
1. Cơ sở lý luận.
a. Thế nào là thi pháp học ?
Thi pháp học là bộ môn khoa học cũ mà mới. Cũ là bởi vì nó đã xuất hiện
ở Hy Lạp từ thời cổ đại với Nghệ thuật thi ca của Aristote. Nhưng Thi pháp học
với tư cách là một bộ môn khoa học chỉ hình thành vào đầu thế kỷ XX ở Nga rồi
dịch chuyển sang Âu – Mỹ và phổ biến khắp thế giới. Ở Việt Nam trước 1975,
Thi pháp học đã thâm nhập vào miền Nam nhưng chưa có điều kiện phổ biến ở
miền Bắc. Mãi đến sau Đổi mới, nó mới được chú ý và nhanh chóng trở thành
“mốt” thời thượng được nhiều người vận dụng. Thi pháp học được dạy ở bậc
Cao học, Đại học và có trong sách bồi dưỡng thường xuyên giáo viên trung học.
Tinh thần Thi pháp học đang thấm dần trong sách giáo khoa, trong giờ giảng
văn và trong bài làm văn học sinh. Thi pháp học đang thu hút sự quan tâm của
giới học đường.
Thi pháp học truyền thống giải thích văn học bằng các nguyên nhân làm ra
văn học ở bên ngoài. Đó là tự nhiên, hiện thực xã hội, trí tưởng tượng, tình cảm,
cá tính sáng tạo, thế giới quan Những nguyên nhân đó có vai trò không thể
thiếu của chúng song không phải đã là tất cả. Thi pháp học hiện đại muốn tìm
một con đường khác, thâm nhập vào bản thể văn học.
Hiện nay, có nhiều cách hiểu về Thi pháp học. Nhưng trong nhà trường, nên
có một cách hiểu thống nhất vì tất cả học sinh phải học chung một sách giáo
khoa, thi chung một đề, một đáp án. Có thể hiểu, thi pháp học là cách thức phân
tích tác phẩm bám vào văn bản là chính, không chú trọng đến những vấn đề nằm
ngoài văn bản như: tiểu sử nhà văn, hoàn cảnh sáng tác, nguyên mẫu nhân vật,
4
giá trị hiện thực, tác dụng xã hội… Thi pháp học chỉ chú ý đến những yếu tố
hình thức tác phẩm như: hình tượng nhân vật – không gian – thời gian, kết cấu –


cốt truyện – điểm nhìn, ngôn ngữ, thể loại… Nội dung trong tác phẩm phải được
suy ra từ hình thức, đó là “hình thức mang tính quan niệm” (Trần Đình Sử)
(1)
.
Phương pháp chủ yếu của Thi pháp học là phương pháp hình thức. Dạy Văn
theo hướng thi pháp học nghĩa là nghiêng về phân tích hình thức nghệ thuật tác
phẩm.
b. Các phạm trù của thi pháp học.
* Một trong những phạm trù quan trọng hàng đầu của Thi pháp học là thể
loại. Trong giờ giảng văn, cần chú ý đến thể loại vì nó chi phối tất cả các yếu tố
còn lại của hình thức tác phẩm. Mỗi thể loại có một đặc điểm riêng và yêu cầu
phân tích theo một phương pháp riêng. Không phải ngẫu nhiên mà sách giáo
khoa thường sắp xếp tác phẩm theo thể loại
Chẳng hạn, trong sách Ngữ văn 11, nâng cao, tập 1, học sinh được học và
đọc thêm liền mạch các tác phẩm truyện như: Hai đứa trẻ, Cha con nghĩa nặng,
Chữ người tử tù, Vi hành, Số đỏ, Việc làng, Chí Phèo, Tinh thần thể dục Dạy
bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, cần chỉ ra vẻ đẹp hình thức của thể văn biền ngẫu
như: các vế phải đối nhau về số tiếng, thanh điệu, nhịp, nội dung, tất cả các câu
đều gieo theo một vần, sử dụng nhiều điển cố và từ ngữ giàu hình ảnh…Có như
vậy học sinh mới thấy được kỳ công của Nguyễn Đình Chiểu và ngưỡng mộ tài
năng nghệ thuật của ông
* Nhân vật là hình tượng trung tâm của tác phẩm. Thi pháp học xem xét
nhân vật ở ba khía cạnh: tính cách nhân vật, quan niệm nghệ thuật về con người,
nghệ thuật miêu tả nhân vật. Khi phân tích tính cách nhân vật, cần lưu ý đến
kiểu nhân vật để có cách phân tích cho phù hợp. Chẳng hạn, phân tích truyện
ngắn hiện đại thì cần chú ý đến kiểu nhân vật tính cách, còn phân tích truyện cổ
tích thì nên chú ý loại hình nhân vật chức năng. Phần quan niệm nghệ thuật về
con người thường ít được đặt thành mục riêng mà chỉ nói lướt qua ở phần tiểu
dẫn, chủ đề hoặc kết luận. Vì trong thực tế, không phải tác phẩm nào cũng thể
hiện rõ nét nội dung này. Nhưng đối với những tác phẩm thể hiện khá rõ quan


niệm nghệ thuật về con người thì cần phải đặt nó thành mục riêng, như: Thơ
Nguyễn Công Trứ, truyện ngắn Nam Cao…
* “Hình tượng thế giới” không chỉ có nhân vật mà còn có không gian, thời
gian. Thi pháp học chỉ chú ý những chi tiết không gian, thời gian nào có ý nghĩa,
góp phần thể hiện cuộc sống con người, chúng vừa mang tính quan niệm lại vừa
như một thủ pháp nghệ thuật (lấy cảnh tả tình). Không gian và thời gian thường
5
gắn liền với nhau, chi phối, cộng hưởng lẫn nhau tạo ra một “thế giới mang tính
quan niệm”. Cần chú ý đặc điểm của chúng trong mỗi thể loại, mỗi giai đoạn
văn học, mỗi tác giả, tác phẩm. Nó có thể được phân tích ở tầm bao quát nhưng
cũng có thể được phân tích ở các chi tiết nhỏ.
* Trong văn học có nhiều loại kết cấu: không gian – thời gian – điểm
nhìn – nhân vật – chi tiết – ngôn từ… nhưng quan trọng hơn cả là kết cấu cốt
truyện. Lâu nay, trong giờ giảng văn, thầy và trò thường có thao tác tìm hiểu bố
cục tác phẩm để dễ phân tích. Nhiều truyện hiện đại thường theo lối trần thuật
phi tuyến tính, đa tuyến nên chia bố cục không dễ dàng. Chẳng hạn, truyện Chí
Phèo không thể chia đoạn theo thời gian trần thuật được mà phải chia theo hình
tượng nhân vật: Chí Phèo – Bá Kiến, rồi trong Chí Phèo lại chia theo thời gian
sự kiện: lúc còn lương thiện – lúc bị lưu manh hóa – lúc ý thức phục thiện.
Ngoài ra, cần phải cho thấy dụng ý của tác giả khi đảo lộn thứ tự sự kiện. Chú ý
khai thác các chi tiết đắt có vai trò quan trọng trong việc tạo tình huống truyện
như chi tiết bát cháo hành.
* Ngôn ngữ là yếu tố quan trọng của Thi pháp học. Không phải ngẫu nhiên
mà những người khởi xướng Thi pháp học là những nhà ngôn ngữ học.
Ngôn ngữ văn học có tính tổ chức cao, giàu hình ảnh, đa nghĩa và mang
dấu ấn riêng của tác giả. Khi phân tích ngôn ngữ thơ, cần lưu ý nhạc điệu, các
phương tiện và biện pháp tu từ, cách dùng từ, giọng thơ, tứ thơ… Ngôn ngữ thơ
hiện đại mang tính tự do, không bị gò bó vào khuôn khổ nào, lời nhân vật trữ
tình cũng tự nhiên và mang dấu ấn cá nhân rất rõ. Tác giả coi trọng cách diễn đạt
mới mẻ nên thường có nhiều cách kết hợp ngữ nghĩa lạ thường (Đây mùa thu


tới, Vội vàng, Tràng giang, ). Khi phân tích ngôn ngữ văn xuôi cần chú ý cách
sử dụng các kiểu câu, chủ thể phát ngôn, cách xưng hô, giọng điệu kể, sự cá thể
hóa ngôn ngữ của nhân vật và tác giả. … Có thể chia ngôn ngữ văn xuôi thành
hai tính chất trái ngược nhau. Một là giọng điệu tiểu thuyết, thể hiện đậm đặc
trong văn xuôi hiện thực phê phán. Vũ Trọng Phụng có giọng trào phúng, Nam
Cao có giọng lạnh lùng, Nguyễn Công Hoan có giọng hóm hỉnh…
* Điểm nhìn còn được gọi là điểm quan sát, vị trí người kể chuyện, nhãn
quan, cách nhìn đời… Điểm nhìn nghệ thuật có quan hệ với mọi yếu tố trong
tác phẩm. Điểm nhìn còn được gọi là điểm quan sát, vị trí người kể chuyện,
nhãn quan, cách nhìn đời… Điểm nhìn nghệ thuật có quan hệ với mọi yếu tố
trong tác phẩm nên ta có các loại điểm nhìn sau: 1. Điểm nhìn tác giả: được thể
hiện ở ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ ba vô nhân xưng và ở cách tác giả xưng hô
nữa; 2. Điểm nhìn nhân vật: là cách mà nhân vật nhìn nhận, đánh giá sự việc,
6
có khi, nhân vật được trao điểm nhìn trần thuật; 3. Điểm nhìn tâm lý: tức là nói
đến điểm nhìn bên trong hay bên ngoài, chủ quan hay khách quan; 4. Điểm
nhìn tư tưởng: là thái độ, lập trường, cách nhìn đời của tác giả hay nhân vật; 5.
Điểm nhìn không gian: gồm có vị trí nhìn, khoảng cách nhìn, trường nhìn, cách
nhìn…; 6. Điểm nhìn thời gian: nhìn liền mạch hay đứt quãng, nhìn kỹ hay
nhìn lướt, cách sắp xếp các thời quá khứ - hiện tại – tương lai…; 7. Điểm nhìn
tu từ: là cách nhìn độc đáo mang tính phát hiện của tác giả về sự vật hiện
tượng. Ví dụ: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”, “Con gió xinh thì
thào trong lá biếc”… (Vội vàng)…
* Thi pháp học cũng nghiên cứu cả hình tượng tác giả. Người xưa nói:
“Văn như kỳ nhân”, xem văn là biết được người, đọc tác phẩm là biết ngay tác
giả. Nhà văn có thể xuất hiện trong tác phẩm qua cách xưng “tôi” hoặc có thể
ẩn mình. Để biết phong cách của nhà văn, có thể căn cứ vào ngôn ngữ trần
thuật, cách xưng hô, giọng điệu, cảm hứng đề tài, không gian – thời gian sự
kiện, cách bố cục và cách sử dụng các chi tiết trong tác phẩm… Nhà văn trong
tác phẩm có thể không đồng nhất với nhà văn ở ngoài đời. Để khách quan, ta


cần bám vào văn bản là chính. Ta có thể nghiên cứu phong cách của từng nhà
văn lớn, có đặc điểm riêng rõ nét như: Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyễn
Tuân, Nguyễn Công Hoan, Chế Lan Viên, Xuân Diệu…
2. Cơ sở thực tiễn
Qua thực tế giảng dạy môn Ngữ văn và hoạt động dự giờ thao giảng trong
nhiều năm nay, tôi nhận thấy:
-Việc dạy học môn Ngữ văn đã có tình trạng “thế bản” lấn át, thay thế văn
bản của nhà văn. Văn bản quan trọng nhất mà học sinh phải/bị học không phải là
văn bản tác phẩm mà là bài giảng của giáo viên, là văn bản các bài phân tích,
bình giảng về tác phẩm văn học. Nghĩa là một số giáo viên áp đặt kiến thức đối
với người học.
-Điều đó dẫn đến việc học sinh xem nhẹ việc đọc văn bản tác phẩm, hạn
chế khả năng cảm thụ và sáng tạo nảy sinh từ văn bản của học sinh, khiến cho
học sinh chỉ biết tiếp thu một cách thụ động, mất dần kĩ năng đọc hiểu văn bản,
thiếu năng lực đọc một cách sáng tạo. Vấn đề đặt ra ở đây là học sinh đọc trực
tiếp hay “đọc” qua người khác, đọc hiểu văn bản của nhà văn ở mức độ nào là
việc có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với việc dạy học văn.
-Trong dạy học môn Ngữ văn, một số giáo viên chỉ chú ý làm rõ phương
diện nội dung, ít khai thác các yếu tố nghệ thuật được các nhà thơ, nhà văn sử
dụng trong tác phẩm. Điều này là một thiếu sót lớn, nếu không muốn nói rằng
7
giáo viên nhất là đối với các bài thơ trữ tình. Bởi khi tìm hiểu tác phẩm thơ, một
kỹ năng rất quan trọng mà người giáo viên phải dẫn dắt, khơi gợi cho các em đó
là khai thác từ nghệ thuật để lẩy ra nội dung.
-Có một thực tế là nhiều học sinh không biết kĩ năng phân tích, cảm nhận
nội dung tác phẩm thông qua các hình thức nghệ thuật của tác phẩm đó. Phần
lớn các em chỉ “xăm xăm” tìm hiểu nội dung mà quên rằng nội dung nào cũng
được chứa đựng trong một hình thức thích hợp.
-Thực tế hiện nay, học sinh học môn Ngữ Văn một cách nghiêm túc rất ít,
các em hứng thú, say mê môn học lại càng hiếm. Hơn nữa, trong xã hội hiện đại,


khi khoa học công nghệ phát triển mạnh và được đề cao thì những vấn đề trong
văn học với không ít người là viễn vông, phi thực tế; nhiều khi khô khan, khó
hiểu, không hấp dẫn nên không khơi gợi được cảm xúc của người đọc, người
nghe nên kết quả giảng dạy hạn chế.
- Sách giáo khoa Ngữ văn hiện nay chứa đựng rất nhiều tri thức về thi pháp
học. Các đề thi và đáp án môn văn thời gian qua đã yêu cầu học sinh chú trọng,
phân tích hình thức nghệ thuật. Nhưng những vấn đề nói trên phần lớn còn nằm
ở dạng lí thuyết.
3. Vận dụng thi pháp học vào Đọc – hiểu văn bản Hai đứa trẻ
Trên đây là các thành tố tạo nên cấu trúc tác phẩm văn học. Tuy nhiên,
không phải lúc nào ta cũng phân tích đầy đủ các yếu tố trên mà chỉ chú trọng
những yếu tố nào quan trọng, đặc sắc, thể hiện rõ ý đồ nghệ thuật của tác giả. Ta
có thể thiết kế một bài giảng văn theo mô hình Thi pháp học. Như phân tích
bài Tràng giang, có thể chia theo điểm nhìn không gian: khổ 1 (gần), khổ 2 (xa),
khổ 3 (gần), khổ 4 (xa).
Truyện ngắn Hai đứa trẻ có thể được chia theo các bước đi của hình tượng
thời gian – không gian: 1. Cảnh phố huyện lúc chiều tối, 2. Cảnh phố huyện ban
đêm, 3. Cảnh phố huyện lúc chuyến tàu đêm đi qua.
8
TIẾT 37 Đọc văn hai ®øa trÎ
(Thạch Lam)
A. MỤC TIÊU
1. Kiến thức: Giúp học sinh nắm được:
- Tấm lòng nhân ái sâu sắc của Thạch Lam đối với những kiếp người nghèo
khổ và sự cảm thông, trân trọng của nhà văn trước mong ước của họ về cuộc
sống tươi sáng hơn.
- Nét độc đáo trong bút pháp nghệ thuật của Thạch Lam.
2.Về kĩ năng: phân tích truyện ngắn trữ tình.
3. Về thái độ: biết cảm thông, yêu thương con người.
B. PHƯƠNG PHÁP: phát vấn, giảng bình.


C. CHUẨN BỊ GIÁO CỤ
1. GV: Đọc tài liệu, thiết kế giáo án.
2. HS: Đọc sgk, soạn bài.
D. TIẾN TRÌNH LÊN LỚP
1. Ổn định lớp, kiểm tra sĩ số
2. Kiểm tra bài cũ: Trình bày những thành tựu chủ yếu của VHVN từ đầu thế kỉ
XX đến cách mạng tháng Tám 1945?
3. Bài mới:
a. Đặt vấn đề: Thạch Lam là nhà văn xuất sắc của nhóm Tự lực văn đoàn. Người
đọc khi đến với ông sẽ tìm thấy toàn bộ bức tranh cuộc sống với sự hiện diện
đầy đủ mọi hạng người, đặc biệt là những người nghèo khổ sống lam lũ, tối tăm
bằng tình yêu thương nhẹ nhàng đằm thắm. Truyện ngắn "Hai đứa trẻ" là một ví
dụ.
b. Triển khai bài:
HOẠT ĐỘNG CỦA THẦY VÀ
TRÒ
NỘI DUNG KIẾN THỨC
Hoạt động 1: H/d hs tìm hiểu vài
nét về tác giả.
Đọc TD và cho biết vài nét về tác
giả?
Định hướng:
- Những yếu tố ảnh hưởng đến sự
nghiệp của TL.
- Điểm khác biệt của TL với các
nhà văn Tự lực văn đoàn.
I.TÁC GIẢ (1910- 1942)
- Tuổi thơ và tuổi trẻ sống ở phố huyện Cẩm
Giàng- Hải Dương: phố huyện nghèo có một
cái chợ, ga xép đêm đêm một chuyến tàu


chạy qua, lù mù mấy ánh đền hàng phở,
hàng nước chè tươi in đậm trong tâm trí
TL. Về sau, phố huyện nghèo này là không
gian nghệ thuật, trở đi trở lại trong sáng tác
của TL.
9
- Đặc sắc về nghệ thuật viết truyện
ngắn của TL.
- Quan điểm nghệ thuật của TL.
- Các tác phẩm tiêu biểu.
Hoạt động 2: H/d hs đọc.
- Phát biểu cảm nhận chung?
- Cách phân tích?
Hoạt động 3: H/d học sinh tìm hiểu
chi tiết.
Cảm nhậ của em về âm thanh trong
truyện?
GV tham gia bình, liên hệ câu thơ
của Hồ Xuân Hương "Đêm khuya
văng vẳng trống canh dồn" -> tăng
cái yên tĩnh, quanh vắng -> con
người cô đơn, trơ trọi hơn.
- Thông minh, điềm đạm, trầm tĩnh, tinh tế.
- Xuất thân trong một gia đình có truyền
thống văn chương.
- Là thành viên của Tự lực văn đoàn nhưng
văn chương Thạch Lam đi theo hướng
riêng: viết về những người lao động cơ cực,
bế tắc với tấm lòng thương cảm sâu sắc
- Thạch Lam sở trường về truyện ngắn -


truyện không có cốt truyện mà thiên về tâm
trạng, đem chất thơ đó vào văn xuôi. Nhân
vật của Thạch Lam là nhân vật của cảm xúc,
tâm trạng nhiều hơn là tư duy.
- Có quan điểm nghệ thuật tiến bộ, lành
mạnh, đặc biệt là khẳng định chức năng cao
quý của văn chương đối với cuộc sống.
- Ông sáng tác nhiều tác phẩm có giá trị:
"Gió lạnh đầu mùa"; "Nắng trong vườn";
"Sợi tóc"; " Hà Nội 36 phố phường”; và là
cây bút phê bình văn học xuất sắc.
II. ĐỌC- HIỂU VĂN BẢN
1. Xuất xứ: Rút từ tập “Nắng trong vườn”
2. Đọc- cảm nhận chung
3. Phân tích.
a. Bức tranh phố huyện:
*Cảnh ngày tàn, chợ tàn:
- Tiếng trống thu không: thứ âm thanh chất
chứa nỗi niềm của con người -> tiếng trống
vang xa gọi chiều về và gợi cả nỗi niềm xao
xác -> điểm nhịp cho cuộc sống nặng nề
trôi.
-Làm nền cho tiếng trống là "bản nhạc dân
dã" quen thuộc, buồn bã, rên rĩ của côn
trùng, ếch nhái, muỗi, tiếng đàn bầu rời rạc
=> không đủ sức khuấy động không khí lặng
lẽ, tù đọng của phố huyện.
* Thời gian: "Chiều, chiều rồi. Một chiều
10
Khung cảnh của truyện được mở ra


vào thời gian nào?. Thời gian ấy nói
lên điều gì?. Hãy nhận xét về cách
thể hiện thời gian của Thạch Lam
trong truyện?
Không gian hiện thực trong truyện?
Ý nghĩa?
Để miêu tả khung cảnh phố huyện,
TL đã dựng công miêu tả bóng tối
và ánh sáng. Em hãy tìm các chi tiết
miêu tả bóng tối? Nhận xét?
Tìm những chi tiết miêu tả ánh
sáng? Trong các chi tiết, hình ảnh
ấy, hình ảnh nào ám ảnh em nhất?
Bình ngắn gọn về hình ảnh ấy?
Nhận xét chung về cảnh ngày tàn,
chợ tàn?
GV tham gia bình
Những kiếp người tàn được miêu tả
ntn trong truyện?
HS phát hiện. GV nhận xét
êm ả như ru " , "bóng tối ngập dần giờ
khắc ngày tàn" - "Trời nhá nhem tối", "Trời
bắt đầu đêm "," Đêm tối".
-> Tác giả miêu tả bước đi của thời gian rất
cụ thể, tỉ mỉ, chi li -> thời gian có sự vận
động: chậm rãi, lặng lẽ -> nhịp sống buồn
bã, tẻ nhạt của phố huyện từ chiều tàn đi dần
vào đêm khuya.
*Không gian: thu hẹp dần:quang cảnh phố
huyện nhỏ bé, một phiên chợ tàn, góc chợ


đơn sơ, quán hàng lụp xụp-> yên tĩnh, tù
túng, chật hẹp.
Bóng tối Ánh sáng
- Tối hết cả:
đường phố, ngõ
con
- Trống cầm canh:
ngắn, khô khan,
chìm ngay vào
btối.
-> bóng tối đang
luồn lách, bám sát
vào mọi cảnh vật,
mọi hoạt động âm
thầm của sinh vật,
con người
khe ánh sáng, vệt
sáng, quầng sáng,
chấm lửa, hột
sáng, ngọn đèn
con của chị Tí(7
lần)
-> lẻ loi, hiếm
hoi, yếu ớt, không
đủ xé rách màn
đêm, làm cho đêm
tối mênh mông
hơn.
=> Tương phản: động- tĩnh; ánh sáng- bóng
tối, nhịp điệu câu văn chậm rãi -> Khung


cảnh phố huyện ảm đạm, xao xác, ngập
chìm trong bóng tối đậm đặc.
*Những kiếp người tàn:
+ Mấy đứa trẻ nhặt rác bãi chợ.
+ Mẹ con chị Tí : ban ngày mò cua bắt
tép, tối đến dọn hàng nước, thắp một ngọn
đèn leo lét. Chiều nào chị cũng dọn hàng từ
chập tối đến đêm nhưng "chả kiếm được
11
Những kiếp người ấy gặp nhau ở
điểm nào?
Suy nghĩ về nhịp sống ở phố
huyện?
GV liên hệ: Quỳnh, Giao (Toả nhị
Kiều- XD); Quẩn quanh (Huy
Cận)
Mong ước của họ gợi cho em suy
nghĩ gì?
Tiểu kết?
bao nhiêu "
+ Bóng bác phở Siêu chập chờn trong
đêm.
+ V/c bác hát xẩm góp chuyện bằng
mấy tiếng đàn bầu bật trong yên lặng. Thằng
con bò ra ngoài manh chiếu, nghịch nhặt
những rác bẩn.
+ Bà cụ Thi hơi điên lại nghiện rượu
với tiếng cười khanh khách, ghê sợ
+ Chị em Liên với hàng tạp hoá nhỏ
xíu


=> Nhịp sống cứ lặp lại một cách đơn
điệu, quẩn quanh, tẻ nhạt, mỏi mòn, buồn
chán Tuy vậy, họ vẫn hi vọng- cho dù hi
vọng đó rất mơ hồ: “Chừng ấy người trong
bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho
sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”.
Chính sự mong đợi mơ hồ này càng tô đậm
thêm tình cảnh tội nghiệp của những nhân
vật trong truyện.
=> Tất cả đều hiện ra trong cái nhìn xót xa,
thương cảm của TL, qua lời văn đều đều,
chậm buồn và những chi tiết dường như
khách quan.
4. Củng cố: Ý nghĩa biểu tượng: ngọn đèn con của chị Tí?
5. Dặn dò: Chuẩn bị: Hai đứa trẻ (Thạch Lam): Nhân vật Liên và cảnh đoàn tàu.
12
TIẾT 38 Đọc văn hai ®øa trÎ
(Thạch Lam)
A. MỤC TIÊU
1. Kiến thức: Giúp học sinh nắm được:
- Tấm lòng nhân ái sâu sắc của Thạch Lam đối với những kiếp người nghèo
khổ và sự cảm thông, trân trọng của nhà văn trước mong ước của họ về cuộc
sống tươi sáng hơn.
- Nét độc đáo trong bút pháp nghệ thuật của Thạch Lam.
2.Về kĩ năng: phân tích truyện ngắn trữ tình.
3. Về thái độ: biết cảm thông, yêu thương con người.
B. PHƯƠNG PHÁP: phát vấn, giảng bình.
C. CHUẨN BỊ GIÁO CỤ
1. GV: Đọc tài liệu, thiết kế giáo án.
2. HS: Đọc sgk, soạn bài.


D. TIẾN TRÌNH LÊN LỚP
1. Ổn định lớp, kiểm tra sĩ số
2. Kiểm tra bài cũ: Bình ngắn gọn về cảnh ngày tàn, chợ tàn và những kiếp
người tàn trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của TL?
3. Bài mới:
a. Đặt vấn đề: Cảnh ngày tàn, chợ tàn và những kiếp người tàn trong đoạn đầu
truyện giúp ta hiểu vì sao chị em Liên và những con người bé nhỏ ấy cố thức để
đợi đoàn tàu qua
b. Triển khai bài:
HOẠT ĐỘNG CỦA THẦY VÀ
TRÒ
NỘI DUNG KIẾN THỨC
Hoạt động 1: H/d học sinh tiếp tục
tìm hiểu chi tiết.
Trong những con người đang sống
âm thầm, vật vờ như những cái bóng
ở nơi phố huyện, thì Liên là nhân
vật được Thạch Lam khắc hoạ rõ nét
nhất. Liên là đứa trẻ như thế nào?.
Suy nghĩ, đưa ra những ý kiến khái
quát về nhân vật Liên -> Có những ý
chính cần làm rõ:
- Là đứa trẻ nghèo.
b.Nhân vật Liên và hình ảnh đoàn tàu
* Nhân vật Liên:
- Là đứa trẻ nghèo, cuộc sống cơm áo trói
buộc cô vào chõng hàng, cướp đi niềm
vui và quyền lợi của tuổi thơ. Liên sống
mòn mỏi đợi chờ.
- Là đứa trẻ giàu tình thương.


+ Đối với những đứa trẻ nghèo nhặt rác
"Liên động lònh thương nhưng chính chị
cũng không có tiền mà cho chúng".
+ Đối với mọi người: luôn quan tâm, luôn
13
- Là đứa trẻ giàu tình thương.
- Là đứa trẻ hiếu thảo, đảm đang.
- Là đứa trẻ có tâm hồn và biết ước
mơ.
*GV: bình chi tiết đôi mắt Liên:
không đặc tả kỷ nhưng cho thấy tâm
trạng lắng đọng sâu xa. Chính đôi
mắt ấy đã nhìn, thấu hiểu và cảm
nhận "mùi riêng của đất" -> trữ tình
hoá qua h/a đôi mắt.
Trong số các nhân vật của phố
huyện, ai là người đau khổ nhất?>
-HS:Nhận định có thể không giống
nhau, nhưng sẽ có ý kiến cho Liên là
người đau khổ nhất.
+ Trường hợp HS nêu không trúng
vấn đề thì GV gợi ý: Vì sao có
người cho rằng Liên là người đau
khổ nhất trong các nhân vật?
Tìm những chi tiết chứng minh rằng
TL tập trung bút lực miêu tả một
cách tỉ mỉ, kĩ lưỡng theo trình tự
thời gian, qua tâm trạng chờ kong
của Liên và An?
Đối với cuộc sống phố huyện, hình


ảnh đoàn tàu có ý nghĩa gì?.
-HS: thảo luận, trình bày ý nghĩa
của đoàn tàu: nó mang đến phố
huyện thế giới khác -> trở thành thói
quen, niềm vui, nhu cầu thiết yếu
của mọi người.
đối xử ân cần, lễ phép và đầy tình người
(cụ Thi, chị Tí, bác Xẩm).
+ Đối với em An: Thương yêu, lo lắng,
chăm sóc, ân cần lời mẹ, "chiếc xà tích
chị là con gái lớn và đảm đang".
- Là đứa trẻ có đời sống tâm hồn và biết
mơ ước -> làm nên chất thơ cho truyện.
- Là người đau khổ nhất trong các nhân
vật:
+ Vì Liên đã biết thế nào là ánh sáng
chốn thị thành.
+Liên nhạy cảm trước nỗi đau con người.
+Liên cảm nhận được cảnh tối tăm mà
Liên và những người xung quanh đang
sống và là người biết mơ ước, khát khao
ánh sáng.
=> Hiện thực buồn tẻ, tù đọng của tác
phẩm càng nặng nề vì Liên đã ý thức
được đầy đủ và sâu sắc về cuộc sống đó.
* Hình ảnh đoàn tàu:
- TL tập trung bút lực miêu tả một cách tỉ
mỉ, kĩ lưỡng theo trình tự thời gian, qua
tâm trạng chờ kong của Liên và An.
-Con tàu mang đến một thế giới khác:


+ Nó như con thoi ánh sáng xuyên thủng
màn đêm phố huyện, đem lại ánh sáng xa
lạ, rực rỡ chốn thị thành, át đi ánh sáng
mờ ảo, yếu ớt của phố huyện.
+ Âm thanh của còi tàu, bánh xe rít trên
đường ray và tiếng ồn ào của hành khách
át đi buồn tẻ, đơn điệu phố huyện.
+ Nó là thói quen, là niềm vui, là sự chờ
đợi -> trở thành nhu cầu thiết yếu như
cơm ơn, nước uống hàng ngày cho đời
sống tinh thần người dân phố huyện
- Chị em Liên đợi tàu không phải vì mục
14
Vì sao chị em Liên đợi tàu và điều
đó có ý nghĩa gì?.
-HS: thảo luận và lí giải:
-Nhìn thấy thế giới rực sáng, náo
nhiệt khác hẵn phố huyện.
- Gợi lại kỷ niệm về Hà Nội, mơ
ước về Hà Nội sáng trưng, vui vẻ,
huyên náo -> thoã mãn nỗi ước ao,
khao khát.
GV: Hai đứa trẻ- bài ca về thiên
nhiên, đất nước. Chứng minh?
Hoạt động 2: H/d hs tổng kết.
Trình bày những nét đặc sắc về
nghệ thuật? Ý nghĩa của truyện?.
đích tầm thường là có khách mua hàng
mà vì:
+ Nhìn thấy cái gì đó khác cuộc sống


hàng ngày: mạnh mẽ, rực rỡ ánh sáng,
giàu sang.
+ Niềm say mê
+ Mang đến thế giới kỷ niệm về Hà Nội
-> đánh thức kỷ niệm về Hà Nội đẹp đẽ
thiết tha.
+ Nhìn tàu là hành động thỏa mãn thị
giác, tư tưởng -> nhìn thấy rõ hơn, sâu
hơn sự tù túng, ngưng đọng của cuộc
sống.
c. Hai đứa trẻ- bài ca về thiên nhiên, đất
nước.
- Bức tranh quê hương gần gũi mà không
kém phần thơ mộng, đầy gợi cảm:
“Chiều, chiều rồi gió mát”
- Các nhân vật luôn gắn bó với thôn dã:
“tưởng là mùi riêng của đất, của quê
hương này”
- Hai đứa trẻ luôn luôn phát hiện những
biến thái tinh tế của thiên nhiên: “Qua kẽ
lá ”
Có thể coi là đóng góp của TL cho VH
giai đoạn từ đầu thế kỉ XX đến CMT8
1945?
4. Tổng kết:
Nghệ thuật:
-Truyện không có cốt truyện
-Ngôn ngữ súc tích, giàu tính biểu cảm,
giàu chất thơ.
- Đan xen yếu tố lãng mạn và hiện thực.


-Miêu tả tâm lí đặc sắc.
Nội dung: TL thể hiện một cách nhẹ
nhàng mà thấm thía niềm xót thương đối
15
với những kiếp người sống cơ cực, quẩn
quanh, bế tắc ở phố huyện nghèo trước
CM. Đồng thời, ông cũng thể hiện sự trân
trọng đối với những mong ước tuy còn
mơ hồn của họ.
4. Củng cố: Gía trị nhân đạo của truyện?
5. Dặn dò: Chuẩn bị: Ngữ cảnh
Rõ ràng, dựa vào các thao tác phân tích các bước đi của hình tượng thời gian
– không gian (1. Cảnh phố huyện lúc chiều tối, 2. Cảnh phố huyện ban đêm, 3.
Cảnh phố huyện lúc chuyến tàu đêm đi qua), học sinh hoàn toàn có thể biết,
hiếu, cảm nhận được diễn biến tâm trạng của hai nhân vật chính Liên và An.
Đồng thời, không – thời gian phố huyện còn làm nền để hình ảnh đoàn tàu đêm
xuất hiện với rất nhiều ý nghĩa. Từ đó, giúp học sinh hiểu được ý nghĩa văn bản:
Truyện ngắn hai đứa trẻ thể hiện niềm cảm thương chân thành của Thạch Lam
đối với những kiếp sống nghèo khổ, chìm khuất trong mỏi mòn, tăm tối, quẩn
quanh nơi phố huyện trước cách mạng và sự trân trọng với những mong ước nhỏ
bé, tha thiết mà bình dị của họ.
4. Kết quả.
- Giờ dạy học văn trở nên sinh động hơn, học sinh hứng thú, sôi nổi phát
biểu xây dựng bài.
- Học sinh được tiếp cận với sự đổi mới về phương pháp dạy học hướng
đến sự hình thành năng lực tự học, phát huy tối đa tiềm năng sáng tạo cũng như
tính tích cực, chủ động của các em.
- Khơi dậy ở học sinh niềm yêu thích, say mê học Văn, từ đó các em đi sâu
khám phá thế giới hình tượng, các tầng lớp nghĩa được nhà văn, nhà thơ gửi gắm
đến người đọc thông qua văn bản.


- Kết quả cụ thể: Qua thực tế giảng dạy môn Ngữ Văn học kì I, năm học
2012 – 2013, cho thấy:
Lớp Sĩ số Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém
11A1 42 HS 02 14 20 06 0
11B7 48 HS 02 16 23 07 0
11B9 42 HS 0 14 25 03 0
Tỉ lệ 132 HS 3% 33,3% 51,5% 11,3% 0
5. Kinh nghiệm đúc rút:
16
- Dạy học theo hướng thi pháp học chỉ gợi ý , góp phần giúp học sinh mở
rộng chân trời cảm thụ tác phẩm, chiếm lĩnh đặc trưng bản chất nghệ thuật,
- Giúp học sinh hình thành năng lực cảm thụ, nâng cao tiềm lực, trau dồi
tiếp nhận tác phẩm văn học.
- Người học chiếm lĩnh tác phẩm bằng cảm nhận có ý thức, có lí chứ
không phải tuỳ hứng tuỳ tiện. Thi pháp học hiện đại cố gắng giúp học sinh học,
đọc văn chương thấy ngay những “hướng tiếp cận ” đơn giản để sau đó cảm
nhận, tinh tế hơn, sâu sắc hơn.
III. KẾT LUẬN
Việc dạy học Văn theo tinh thần Thi pháp học là xu hướng chung của thế
giới. Ở Việt Nam hiện nay đã có nhiều điều kiện tốt để thực hiện điều này.
Chúng ta đã có một đội ngũ các nhà Thi pháp học tương đối hùng hậu. Việc phổ
biến quan điểm Thi pháp học trong nhà trường đã có bề dày khoảng 20 năm.
Sách giáo khoa Ngữ văn hiện hành chứa đựng rất nhiều tri thức về Thi pháp học.
Các đề thi và đáp án môn Văn gần đây đã yêu cầu học sinh chú trọng phân tích
hình thức nghệ thuật. Nhưng những vấn đề nói trên chỉ nằm ở dạng lý thuyết.
Thi pháp học có biến thành thực tiễn sinh động hay không còn phụ thuộc rất
nhiều vào sự vận dụng tích cực của thầy và trò trong giờ giảng văn.
TP Huế, ngày 05 tháng 03 năm 2013
Người viết sáng kiến
Trần Thị Thu Hà


17
ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI CỦA HĐKH TRƯỜNG THPT GIA HỘI
TP Huế, ngày tháng năm 2013
HIỆU TRƯỞNG
(Chủ tịch Hội đồng)
ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI CỦA HỘI ĐỒNG THẨM ĐỊNH SKKN SỞ
TP Huế, ngày tháng năm 2013
(Chủ tịch Hội đồng)
18

Truyện Ngắn Hai Đứa Trẻ Là Một Tác Phẩm Tiêu Biểu Cho Phong Cách Nghệ Thuật Của Thạch Lam