Phong tục tập quán dân tộc Bana

Nét đẹp văn hóa của người Ba Na

Vi Văn Bàn (giới thiệu)

08:00 07/05/2020

Cũng như bà con các dân tộc thiểu số Tây Nguyên, bà con Ba Na có đời sống văn hóa tinh thần phong phú và giàu bản sắc. Bản sắc đó thể hiện ở nhiều mặt cuôc sống, từ dệt vải cho đến dựng nhà, các lễ hội, phong tục hôn nhân gia đình… Tới nay, cuộc sống nhiều biến đổi song những gì thuộc về bản sắc thì vẫn được giữ gìn, phát huy.

Phong tục tập quán dân tộc Bana

Phụ nữ làng Hà Ri giữ gìn nghề dệt thổ cẩm (Bình Định).

Đối với người Ba Na, nghề dệt thổ cẩm đã có từ lâu đời. Sản phẩm thổ cẩm dệt bằng tay của người Ba Na nổi tiếng bởi những hoa văn trang trí rất tinh tế. Không chỉ đẹp về hình thức, mà trong mỗi sản phẩm dệt truyền thống còn ẩn chứa sắc thái văn hóa, thể hiện một tâm hồn phong phú, phóng khoáng.

Các thiếu nữ Ba Na đều được bà hay mẹ chỉ cho cách dệt vải, dệt thổ cẩm từ lúc 12, 13 tuổi. Vì thế, đối với phụ nữ Ba Na, nghề dệt vải, thổ cẩm là đặc biệt quan trọng. Phụ nữ Ba Na nổi tiếng bởi kỹ thuật dệt tinh tế, làm ra những bộ trang phục, những tấm chăn, tấm thảm rất đẹp. Trong đó, việc tạo mầu cho sợi vải hoàn toàn dựa vào các loại cây trên rừng. Bà con giã nát cây chàm ngâm nước ba ngày đêm rồi cho vào một ít vôi bột, đưa búp vải vào khuấy đều, sau một đêm vớt ra sẽ có những sợi vải mầu đen (vì làm công việc này mà phụ nữ Ba Na ngày trước từ khuỷu tay trở xuống đều bị thâm đen). Muốn có chỉ mầu vàng thì nhuộm bằng củ Ktrơn, muốn có mầu đỏ thì dùng vỏ cây Kxan.

Theo nhà nghiên cứu văn hóa Phùng Sơn thì nguyên liệu dệt vải ngày xưa chủ yếu làm từ bông. Để làm được một tấm vải phải trải qua nhiều công đoạn: Lấy bông, cán bông, cào sợi, se sợi, nhuộm. Còn bây giờ người Ba Na vẫn dệt theo cách truyền thống, tuy nhiên nguyên liệu là từ sợi công nghiệp mua ngoài chợ; trang trí hoa văn, mầu sắc vẫn theo lối truyền thống.

Với người Bana, cồng chiêng là biểu tượng của sự linh thiêng, có mặt trong mọi nghi lễ cộng đồng cũng như của từng gia đình, cá nhân. Theo nhà nghiên cứu văn hóa Yang Danh: “Cồng chiêng có mặt trong mọi nghi lễ cộng đồng cũng như của từng gia đình, cá nhân. Người Ba Na không đơn thuần coi cồng chiêng là nhạc cụ mà coi đó là phương tiện giúp con người giao tiếp với thần linh”.

Âm vang cồng chiêng luôn gắn bó chặt chẽ với các cuộc vui, với đời sống tâm linh, nghi lễ của đồng bào Ba Na. Tuy nhiên, không chỉ có cồng chiêng, người Ba Na còn có nhiều nhạc cụ khác như đàn T’rưng, đàn Blơng khơng... Những nhạc cụ tự chế này làm phong phú đời sống tình cảm của người Ba Na, đồng thời cũng cho thấy chất nghệ sĩ trong mỗi một con người. Nói như nhà nghiên cứu văn hóa Yang Danh thì nếu như dệt thổ cẩm thể hiện sự tài hoa của dân tộc Ba Na qua bàn tay người thợ dệt thì cồng chiêng cùng với các loại nhạc cụ truyền thống lại thể hiện tâm hồn nghệ sĩ, nên trong mỗi người Ba Na đều có một tình yêu lớn dành cho văn hóa truyền thống và luôn ước vọng giữ gìn.

Kiến trúc nhà ở của đồng bào Ba Na cũng có những nét độc đáo riêng. Nhà ở của người Ba Na thuộc loại hình nhà sàn, trong đó nhà rông là tiêu biểu khi là nơi sinh hoạt chung của bà con trong buôn làng. Trường ca, truyện cổ của dân tộc Ba Na cũng là những tác phẩm dân gian độc đáo, có giá trị trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Trong cuộc sống, lễ hội là điều không thể thiếu. Người Ba Na có nhiều lễ hội như; Lễ tạ ơn cha mẹ, lễ đâm trâu, lễ bỏ mả, lễ tạ ơn thần lúa. Những lễ hội không chỉ là dịp để đồng bào tạ ơn trời đất cho vụ mùa bội thu mà còn là dịp vui chơi, đánh cồng chiêng, uống rượu cần...và cũng là dịp để người Ba Na thể hiện tài năng chế biến những món ăn vô cùng độc đáo.

Trong các lễ hội, thì lễ hội cầu an, cầu mùa là rất quan trọng.

Phong tục tập quán dân tộc Bana

Phục dựng cảnh lễ hội cúng bến nước.

Trước khi tổ chức lễ hội, già làng tổ chức cho dân trong buôn phát dọn đường đi sạch sẽ, sửa sang nhà rông, bến nước, dọn vệ sinh các con đường trong buôn. Để chuẩn bị cho lễ hội, người dân chuẩn bị 4 hình nộm người làm bằng các vật liệu, sản vật sẵn có trong tự nhiên hay từ những sản phẩm nông nghiệp. Tùy vào điều kiện kinh tế mà người dân trong buôn cúng cho Yang những lễ vật hiến sinh phù hợp. Thông thường, lễ vật cúng thần của người Bana có thể là những con bò, heo, dê, gà… Những năm gần đây, bà con Ba Na thường chọn dê làm con vật hiến sinh. Theo quan niệm của đồng bào, dê là con vật linh thiêng, là anh của các con vật được nuôi trong làng.

Vào ngày lễ hội, tất cả thành viên trong buôn đều tập trung trước nhà rông để làm lễ cúng thần. Già làng là người chủ trì buổi lễ. Già làng cầm khiên, đao đi đầu, bên cạnh là một thanh niên đeo mặt nạ cầm mác; tiếp sau là 4 thanh niên mang theo hình nộm. Tiếp nữa là 2 thiếu nữ, mỗi người cầm cây lá đót. Cuối cùng là đội cồng chiêng và đi sau là toàn thể dân trong buôn.

Giờ phút được chờ đợi nhất của lễ hội đó là lúc già làng làm lễ cầu khấn các thần linh phù hộ, cảnh người dân làm các động tác hú gọi xua đuổi tà ma trong tiếng cồng chiêng nổi lên dồn dập. Việc xua đuổi những con ma xấu diễn ra cho đến khi đoàn người đi hết khắp buôn làng, đuổi dồn về cuối buôn. Lúc này, tất cả các đạo cụ như: hình nộm, lá đót, mặt nạ…được dân bỏ lại, rồi đoàn người quay về tập trung tại nhà rông. Ngay sau phần lễ, tất cả dân làng cùng đánh cồng chiêng, trình diễn trang phục cổ truyền, uống rượu cần, ăn một bữa chung vui và ca hát.

Ngày nay, những lễ hội cầu an, cầu mùa của đồng bào Ba Na vẫn được lưu giữ, cũng như lễ hội cúng bến nước- cho thấy đời sống tinh thần của người Ba Na gắn bó mật thiết với thiên nhiên.

Chủ đề: văn hóa dân tộc thiểu số Nét đẹp người Ba Na

Trường chính trị tỉnh Kon Tum https://indembassyhavana.org/uploads/banners/files/baner-chu.jpg

Dân tộc Ba Na trên địa bàn thành phố Kon Tum là một cộng đồng dân tộc thiểu số (DTTS) tại chỗ của tỉnh Kon Tum sở hữu một kho tàng văn hóa đồ sộ. Biểu hiện sinh động trong hệ thống di sản văn hóa vật thể và phi vật thể như kiến trúc nhà, các loại nhạc cụ, vật dụng sinh hoạt, văn học nghệ thuật, luật tục, tín ngưỡng…

Gắn với chủ trương của Đảng, chính sách của nhà nước về xây dựng nền văn hóa và con người mới, việc giữ gìn và phát huy giá trị vàn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số tại chỗ trong đó có dân tộc Ba Na trên địa bàn thành phố Kon Tum là một nhiệm vụ thường xuyên, cấp thiết trong tình hình hiện nay.

Đang xem: Phong tục tập quán của dân tộc bana

Nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Ba Na, UBND thành phố chỉ đạo Phòng Văn hóa và Thông tin Thành phố Kon Tum tiến hành điều tra, khảo sát đời sống văn hóa cơ sở nhằm bảo tồn và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc địa phương, đặc biệt là loại hình diễn kể sử thi, hát dân ca, trình diễn cồng chiêng, múa xoang của dân tộc Ba Na và các loại nhạc cụ dân tộc như đàn KLongpút, T’rưng… được khôi phục, duy trì và phát triển. Các ngành nghề, làng nghề truyền thống như đan lát, dệt thổ cẩm được duy trì và phát triển ở một số địa bàn phường Thắng Lợi, xã Vinh Quang, xã ĐăkRơWa, phường Quang Trung.

Duy trì tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ, lễ hội với nhiều hình thức phong phú, thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia. Các đội cồng chiêng, đội văn nghệ quần chúng thường xuyên tham gia giao lưu văn hóa văn nghệ do các ngành, các cấp tổ chức, qua đó giới thiệu, quảng bá nét văn hóa đặc sắc của đồng bào dân tộc Ba Na trên địa bàn thành phố, khơi dậy và giữ gìn phong tục, tập quán tốt đẹp của địa phương. Đến năm 2018 toàn thành phố đã tổ chức được 61 lớp dạy cồng chiêng, với 1084 học viên tham gia, do 32 nghệ nhân truyền dạy. Duy trì các làng nghề truyền thống. Lập hồ sơ đề nghị công nhận nghệ nhân ưu tú, nghệ nhân nhân dân cho các nghệ nhân trên địa bàn…

Phong tục tập quán dân tộc Bana

Nhà Rông Kon Klor – Một điểm đến hấp dẫn du khách ở Tp. Kon Tum

Quy hoạch các làng đồng bào dân tộc nội thành thành các địa điểm du lịch cộng đồng gắn với giá trị văn hóa của đồng bào các DTTS thành phố tại thôn KonK’tu, xã ĐăkRơWa. Tổ chức rà soát toàn bộ hộ gia đình, cá nhân có khả năng dệt thổ cẩm của dân tộc Ba Na; tổ chức dạy nghề, nâng cao kỹ năng, công nhận nghệ nhân dệt thổ cẩm. Thành lập hợp tác xã dệt thổ cẩm; xây dựng thương hiệu sản phẩm dệt thổ cẩm: Thiết kế bao bì, mẫu mã, đăng ký nhãn hiệu, xuất xứ, nguồn gốc cho sản phẩm và tổ chức tiêu thụ sản phẩm.

Tuy nhiên, hiện nay nhìn chung đời sống văn hóa tinh thần của đồng bào DTTS còn nhiều khó khăn, tại một số nơi thì luật tục lạc hậu vẫn thực hiện. Trong khi đó sinh hoạt văn hóa mang đậm các sắc tộc đôi khi bị lấn át và mai một. Cơ chế của nền kinh tế thị trường đã tác động nhiều đến nền văn hóa của đồng bào DTTS trên địa bàn tỉnh Kon Tum nói chung và dân tộc Ba Na nói riêng đang đứng trước những thử thách lớn. Cùng với trào lưu hiện đại của xã hội, thì tập tục truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống trên địa bàn bàn thành phố Kon Tum đang có nguy cơ bị mai một, nghệ thuật dân gian dân tộc Ba Na cũng nằm trong số đó. Đặc biệt là với sử thi trên địa bàn thành phố Kon Tum chỉ còn 13 nghệ nhân còn nhớ và hát kể lại được, nhưng tuổi họ đều ngoài 60-70 cùng với đó là cuộc sống hiện tại của họ còn nghèo và khó khăn. Những nghệ nhân này đều tuổi cao, sức khỏe lại yếu, trí nhớ bị suy giảm, khả năng hát kể không được lâu và liên tục như trước đây nữa. Bên cạnh đó là thế hệ trẻ hầu như không còn quan tâm hay có ý thức về việc tiếp thu nghệ thuật dân gian…

Sự xâm nhập mạnh mẽ văn hóa từ bên ngoài vào nền văn hóa dân tộc vốn đã yếu sức đề kháng. Lứa tuổi thanh niên chư­a ý thức đầy đủ về nền văn hóa dân tộc của mình nên dễ tiếp thu văn hóa bên ngoài không có sự chọn lọc, có biểu hiện xu hướng vọng ngoại, quay lưng lại với những sinh hoạt văn hóa dân tộc mình.

Trên địa bàn thành phố chư­a có được những mô hình, những phương thức tổ chức sinh hoạt văn hóa thực sự hiệu quả trong các cơ sở thôn, làng. Các sinh hoạt văn hóa dân gian và công tác sưu tầm nhiều lúc còn mang tính hình thức và việc biến nó thành những sinh hoạt bổ ích, lành mạnh có tính thường xuyên và tính xã hội còn gặp nhiều khó khăn.

Còn thiếu những công trình nghiên cứu khoa học mang tính thực tiễn cho các mục tiêu giữ gìn và phát huy vốn văn hóa dân gian vào đời sống xã hội; nguồn kinh phí, ngân sách, phương tiện, con người cần đầu tư­, bố trí cho lĩnh vực này còn hạn chế và vốn đầu tư còn ít ỏi và khó khăn, đặc biệt là sự thiếu hụt cán bộ làm công tác văn hóa là người các DTTS ở địa phương.

Các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương thành phố chư­a chú trọng và có biện pháp chỉ đạo tích cực, hữu hiệu cho việc bảo tồn, phát huy kho tàng bản văn hóa truyền thống của dân tộc Ba Na. Việc tuyên truyền, giáo dục và vận động quần chúng tham gia giữ gìn văn hóa dân tộc ch­ưa được tiến hành thường xuyên và sâu rộng đến các thôn, làng và các tầng lớp Nhân dân.

Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Ba Na trên địa bàn thành phố Kon Tum trong thời gian tới cần thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất, phát triển kinh tế – xã hội, xoá đói giảm nghèo là điều kiện quan trọng để đảm bảo hiệu quả công tác giữ gìn và phát huy văn hoá dân tộc Ba Na.

Có thể thấy rõ, việc gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc Ba Na ở thành phố Kon Tum là một quá trình khó khăn và lâu dài, nó không thể là sản phẩm chủ quan duy ý chí mà trước hết phải phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, vào tình hình và điều kiện cụ thể của địa phương. Vì vậy, phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo được khẳng định là cơ sở quan trọng hàng đầu để phát triển văn hóa.

Để phát triển kinh tế – xã hội, xoá đói giảm nghèo cho vùng đồng bào dân tộc Ba Na. Nhà nước cần có chính sách đầu tư và quản lý đầu tư tốt hơn nữa để xây dựng kết cấu hạ tầng, giao thông; hỗ trợ vốn kỹ thuật và giống cây trồng, vật nuôi cho đồng bào phát triển kinh tế – xã hội để từng bước xoá đói giảm nghèo. Nhà nước và chính quyền địa phương cần tăng cường cán bộ khoa học kỹ thuật nhất là cán bộ biết tiếng dân tộc Ba Na, đến từng bản làng hướng dẫn đồng bào một cách cụ thể, tránh tình trạng chỉ đạo chung chung. Bên cạnh đó, trong các hoạt động văn hoá, thông tin nên lồng ghép nội dung tuyên truyền các mục tiêu và các hoạt động kinh tế – xã hội. Các cơ quan văn hoá cần kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ phát triển văn hoá với tuyên truyền phát triển kinh tế – xã hội để đồng bào dân tộc Ba Na hiểu và hăng hái tham gia các hoạt động xây dựng văn hoá và phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương đảm bảo tính hiệu quả và bền vững của công việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Ba Na.

Xem thêm: Khinh Khí Cầu Và Những Lễ Hội Khinh Khí Cầu Wiki, Lễ Hội Bóng Cave Creek

Thứ hai, đẩy mạnh công tác giáo dục văn hoá, lịch sử văn hoá truyền thống, nâng cao trình độ dân trí cho đồng bào dân tộc Ba Na hiện nay.

Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, với đường lối cải cách mở cửa, hội nhập với thế giới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đang phải đối mặt với nhiều thử thách lớn hơn cả về kinh tế, chính trị và văn hoá… nhất là những mưu đồ phản động của các thế lực thù địch trên lĩnh vực văn hoá tư tưởng. Để cộng đồng tộc người Ba Na phát triển được trong quá trình toàn cầu hoá, một trong những vấn đề cần quan tâm hàng đầu là tăng cường giáo dục lịch sử văn hoá truyền thống, giáo dục các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, giáo dục chủ nghĩa yêu nước tinh thần tự hào dân tộc. Bên cạnh đó phải thường xuyên nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đối phó và góp phần làm thất bại mọi âm mưu đen tối của các thế lực thù địch chống phá gây tổn hại đến khối đại đoàn kết các dân tộc. Cùng với giáo dục chủ nghĩa yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc là giáo dục lòng nhân ái, tình cảm cộng đồng dân tộc để phát huy truyền thống dân tộc và giúp con người sống cân bằng trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập. Đồng thời, phải đặc biệt quan tâm giáo dục tính cần cù sáng tạo trong lao động và học tập cho đồng bào Ba Na để đồng bào có thu nhập chính đáng và có nghề nghiệp chuyên môn vững vàng. Giáo dục tinh thần dân chủ và công bằng xã hội đây là hạt nhân của định hướng xã hội chủ nghĩa trong lối sống mới, đạo đức mới.

Thứ ba, chủ động bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá dân tộc Ba Na ở thành phố Kon Tum.

Để làm tốt công việc bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá dân tộc BaNa ở thành Phố Kon Tum. Điều đầu tiên phải điều tra nghiên cứu, sưu tầm những di sản văn hoá của dân tộc Ba Na từ đó đưa ra các kết luận có cơ sở khoa học và có sức thuyết phục về bản sắc văn hoá của dân tộc Ba Na. Từ việc điều tra, kiểm kê đánh giá, các nhà quản lý các cấp (nhất là ở địa phương) nên phối hợp với các ngành chuyên môn tổ chức tuyên truyền, giáo dục rộng rãi cho các vùng, các dân tộc hiểu biết văn hoá từng vùng, từng dân tộc qua sách, báo, các phương tiện thông tin đại chúng và giáo dục ở nhà trường. Điều đáng quan tâm là, tại các vùng có dân tộc BaNa sinh sống, các cấp uỷ đảng và chính quyền cần xây dựng chương trình và tổ chức thực hiện việc tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức của mỗi người dân trong cộng đồng tộc người Ba Na về việc sưu tầm, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc mình, từ đó tìm ra biện pháp khả thi để duy trì và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Ba Na.

Cùng với hoạt động tuyên truyền các vùng có dân tộc Ba Na sinh sống cần đẩy mạnh công tác xã hội hoá việc sưu tầm, bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá dân tộc Ba Na, đồng thời đầu tư kinh phí cho hoạt động sưu tầm, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc Ba Na một cách thoả đáng. Để tăng kinh phí, ngoài nguồn kinh phí đầu tư của Nhà nước, tỉnh cần tranh thủ nhiều nguồn tài trợ theo hướng đa dạng hoá nguồn đầu tư: nhân dân tự nguyện đóng góp, tài trợ của các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ… Đồng thời phương thức bảo tồn ở trạng thái tĩnh của những đơn vị chuyên ngành khi sưu tầm, văn bản hoá, ghi âm, ghi hình… cần tiến hành ở phương thức bảo tồn ở trạng thái động, nghĩa là đưa các giá trị văn hoá truyền thống về với môi trường văn hoá cộng đồng, nơi đã nảy sinh ra các giá trị văn hoá, làm cho nhân dân các bản làng Ba Na nhận thức được ý nghĩa nền tảng và động lực của việc bảo tồn các giá trị văn hoá truyền thống thì chính họ sẽ là chủ thể quan trọng có thể giải quyết được những mâu thuẫn đặt ra với văn hoá truyền thống. Tuy nhiên, chính quyền địa phương có vai trò quan trọng trong việc định hướng và tạo điều kiện để nhân dân có nhiều cơ hội giữ gìn, sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hoá truyền thống.

Thứ tư, đổi mới chính sách đối với cán bộ làm công tác văn hoá tạo động lực cho việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Ba Na hiện nay

Đội ngũ cán bộ làm công tác văn hoá và cán bộ quản lý văn hoá là nhân tố có vai trò quyết định đến hiệu quả công việc gìn giữ, lưu truyền và phát triển văn hoá truyền thống các DTTS trong đó có văn hoá truyền thống dân tộc Ba Na.

Có chính sách ưu đãi đối với đội ngũ Nghệ nhân dân gian trên các lĩnh vực diễn xướng sử thi… bằng cơ chế phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian, có chế độ vật chất kèm theo để khuyến khích họ phát huy hơn nữa công tác bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc. Có cơ chế chính sách đầu tư về đội ngũ cán bộ khoa học và kinh phí để bảo tồn, gìn giữ, kế thừa và phát huy giá trị bản sắc văn hóa thông qua các đề án cụ thể của từng lĩnh vực giữa các Viện nghiên cứu, các cơ quan quản lý của Trung ương đối với địa phương.

Thứ năm, tập trung đầu tư, hỗ trợ công tác sưu tầm, bảo tồn các làng nghề thủ công truyền thống; các làng văn hóa dân tộc gắn với phát triển du lịch.

Xây dựng mô hình bảo tồn, phát triển làng nghề truyền thống dệt thổ cẩm, trang phục một số DTTS có nguy cơ mai một. Có cơ chế hỗ trợ, tôn vinh đối với các nghệ nhân và những người am hiểu văn hóa truyền thống, có công trong việc bảo vệ, truyền dạy, phát huy giá trị các di sản văn hóa truyền thống của dân tộc.

Xem thêm: Cải Cách Văn Hóa Ở Việt Nam Năm Nào ? Cải Cách Văn Hóa

Như vậy, đối với dân tộc Ba Na ở thành phố Kon Tum, một dân tộc đã có một nền văn hóa phong phú,độc đáo và hết sức đặc sắc, thì việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc này ngày càng trở nên đặc biệt cần thiết trong điều kiện hiện nay. Nếu làm tốt được điều này thì không những chúng ta có thể giữ gìn những nét văn hóa riêng đáng tự hào củamột dân tộc, mà còn phát huy được sức mạnh tiềm tàng vốn có của nó từ bao đời nay, góp phần xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc./.

See more articles in category: Ẩm thực