Sáng kiến kinh nghiệm một số biện pháp giúp trẻ học tốt môn khám phá khoa học

Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Một số biện pháp giúp trẻ 5-6 tuổi học tốt môn khám phá khoa học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

thực hiện đề tài còn có những hạn chế sau đây: Giáo viên chưa chủ động và chưa linh hoạt trong việc tổ chức giờ học môn khám phá khoa học Môi trường cho trẻ hoạt động ở lớp cũng chưa phong phú (chưa có nơi nuôi một số con vật cho trẻ được làm quen). Khám phá khoa học đòi hỏi độ chính xác cao nên trẻ cần được tham quan, trải nghiệm thực tế nhiều, trẻ cần được tri giác những con vật thật, đồ vật thật, cây cối, danh lam thắng cảnhnhưng nhà trường lại chưa có điều kiện để tổ chức cho trẻ đi tham quan, trải nghiệm thực tế còn ít. Các cháu phần đông gia đình làm nông nên việc nhận thức để giáo dục con cái một cách khoa học là chưa cao. * Nguyên nhân chủ quan Trình độ nhận thức của các cháu không đồng đều. Các cháu chưa có các kỹ năng cơ bản như kỹ năng quan sát, kỹ năng so sánh, phân tích, tổng hợpMột số trẻ chưa qua lớp mầm, lớp chồi nên vẫn còn tự do trong học tập và chơi, chưa mạnh dạn, tích cực trong các hoạt động. Trong lớp có một số trẻ cá biệt, cháu không chú ý, mặt nhận thức của cháu hạn chế hơn nhiều so với trẻ khác. Dẫn đến thời gian hoạt động dành cho những cháu yếu hơi nhiều Góc thiên nhiên còn nghèo, số cây ít, loại cây chưa phong phú, đồ chơi, đồ dùng còn ít, thiếu những hình ảnh đẹp, sinh động để trẻ quan sát Cơ sở vật chất chưa thật sự đầy đủ, đồ dùng phục vụ tiết dạy còn rất nghèo nàn như những vật mẫu, những con vật thật, đồ vật... Đồ dùng để trẻ thử nghiệm thực tế còn ít. Đồ dùng, đồ chơi, vật thật chưa đầy đủ, lớp học chưa có thiết bị để kết nối mạng phục vụ công tác giảng dạy trên máy tính. Bên cạnh đó việc sử dụng đồ dùng dạy học chưa khoa học, dẫn đến giờ học trẻ ít tập trung chú ý nên hiệu quả trên tiết học chưa cao. Vì vậy việc giúp trẻ khám phá khoa học rất quan trọng vì môn học này giúp trẻ tích luỹ một số vốn kiến thức sơ đẳng vận dụng trực tiếp vào cuộc sống hàng ngày của trẻ có cái nhìn về thế giới quan tươi đẹp và sinh động hơn cho tương lai trẻ sau này. * Nguyên nhân khách quan Khuông viên sân trường chật hẹp, chưa có nhiều khu vực để trẻ quan sát, trải nghiệm. Một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học của con mình, chiều chuộng con thái quá, luôn bao bọc không để con có cơ hội trải nghiệm. Dẫn đến một số cháu thụ động, ỉ lại vào người khác không biết cách tự mày mò, tìm tòi khám phá, giải quyết vấn đề. 3. Nội dung và hình thức của giải pháp a. Mục tiêu của giải pháp Giúp trẻ lĩnh hội kiến thức một cách sâu sắc và chính xác, không mang tính trừu tượng và khô khan. Phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần. Trẻ được hòa mình vào với thiên nhiên, trẻ được hít thở không khí trong lành, vận động thoải mái giúp phát triển khả năng quan sát, ghi nhớ, chú ý. Quá trình đó giúp trẻ tri giác, tiếp cận, khám phá, cô giáo có thể vận dụng phối hợp nhiều phương pháp, biện pháp tùy theo mục đích sư phạm của những hoạt động dạy học. Phải thay đổi hình thức tổ chức hoạt động của trẻ để tránh tâm lí mệt mỏi thụ động và gây được ấn tượng mới hợp lí. Giáo viên phải nắm được phương pháp, biết lựa chọn phương pháp, biện pháp phù hợp với chủ đề, lứa tuổi. Dùng biện pháp mới giúp phát triển tư duy, ngôn ngữ củng cố các kỹ năng nhận thức của trẻ. Từ đó rèn khả năng tri giác, phân tích, so sánh tổng hợp ở trẻ Tìm ra các giải pháp, biện pháp giúp trẻ ham mê khám phá khoa học, từ đó nhằm phát triển tính sáng tạo và mở rộng vốn kiến thức cho trẻ, kích thích tính tò mò ham hiểu biết muốn khám phá và tìm hiểu thế giới xung quanh trẻ. Các biện pháp này sẽ hình thành xúc cảm, tình cảm tích cực và kinh nghiệm cũng như kỹ năng sống cho trẻ và trẻ mong muốn bảo về gìn giữ môi trường xung quanh trẻ. b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp Qua một thời gian tìm tòi, nghiên cứu tôi thấy rằng muốn gây được sự tập trung chú ý, sự hứng thú tham gia tích cực vào các hoạt động khám phá, khơi dậy được trí tò mò, ham hiểu biết của trẻ thì phải dựa vào đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để tìm ra những biện pháp phù hợp giúp trẻ học tốt môn khám phá khoa học và tôi đã đưa ra những biện pháp sau: Biện pháp 1: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan để cho trẻ khám phá khoa học là một phương pháp rất phổ biến. Tuy nhiên nó cũng là phương pháp rất quan trọng trong việc giúp trẻ tiếp thu những kiến thức khoa học một cách dễ dàng nhất      Nhận thức rõ tầm quan trọng của đồ dùng trực quan đối với tiết khám phá khoa học cho nên ngay từ đầu năm học tôi mạnh dạn đề xuất với ban giám hiệu nhà trường trang bị thêm cho các lớp các thiết bị đồ dùng dạy học như ti vi, bảng, tranh ảnh lô tô, và một số các mô hình mô phỏng để phục vụ dạy học. Thông qua những bộ phim hoạt hình ngắn sinh động và đẹp mắt, các bé sẽ được tìm tòi, khám phá và trải nghiệm với những điều bé muốn biết về thế giới xung quanh kỳ thú.        Khi lập kế hoạch cho mỗi tiết học tôi đã rất chú ý tới cách thức truyền tải kiến thức với trẻ đặc biệt đồ dùng trực quan vừa phải mang tính thẩm mỹ, tính chính xác và sự sáng tạo từ đó kich thích được sự hứng thú, ham hiểu biết ở trẻ Tôi luôn lưu ý tới việc sử dụng đồ đùng trực quan phải phù hợp với nội dung từng tiết dạy ngay từ khi lập kế hoạch cho mỗi tiết khám phá khoa học tôi luôn suy nghĩ và lựa chọn những đồ dùng trực quan sao cho trẻ dễ hiểu và thích thú đối với những tiết chủ đề về môi trường xã hội thì tôi lựa chọn tranh, ảnh để dạy trẻ. Đối với những tiết về đồ dùng, đồ vật tôi sử dụng vật thật và đồ dùng đồ chơi bằng nhựa hoặc đồ chơi tự tạo  Vì trẻ mẫu giáo thường tư duy trực quan hình ảnh, kinh nghiệm sống của trẻ còn ít nên tôi thường xuyên tận dụng các vật thật để dạy trẻ. Khi cho trẻ được tiếp xúc với vật thật thì tôi nhận thấy trẻ hứng thú và nắm bắt kiến thức một cách rõ ràng nhất. Ví dụ: Khi tìm hiểu về quả soài tôi dùng quả soài thật cho trẻ quan sát và trải nghiệm: nhìn, sờ, nếm, ngửi Đây là quả gì? nhìn xem quả soài có hình dạng gì? Màu gì? Hãy sờ xem vỏ của chúng có đặc điểm gì? muốn biết soài có mùi gì hãy đưa lên mũi ngửi xem nào Cuối cùng tôi cho trẻ nếm thử vị của soài sau đó hỏi trẻ về vị của soài (có trẻ nói chua, trẻ nói ngọt) từ đó tôi giải thích “Qủa soài chưa chín có vị chua, còn quả soài chín có vị ngọt” khi được trải nghiệm thực tế thì trẻ đã nắm vững những kiến thức tôi muốn truyền đạt. Qua bài về quả soài tôi không những đã cho trẻ tìm hiểu một cách tổng quát về quả soài mà còn dạy trẻ biết lợi ích của soài đối với sức khỏe con người. Việc sử dụng màn hình, máy chiếu cũng là một hình thức sử dụng trực quan vì vậy tôi thường xuyên sử dụng tạo điều kiện để cho trẻ nắm kiến thức. Thông qua những cảnh quay, đoạn băng được đưa lên màn hình sẽ tạo ra sự thay đổi, sự mới lạ cho trẻ vì tất cả những sự vật hiện tượng đều có thể chụp lại, quay lại để đưa lên màn hình cơ hội để trẻ khám phá những sự vật- hiện tượng, con vật mà trẻ khó có cơ hội tiếp xúc như: tìm hiểu động vật sống trong rừng, động vật sống dưới biển Phương tiện trực quan trong các hoạt động dạy và học rất đa dạng như: Đồ dùng trực quan bằng vật thật: các con vật, một số loại rau, Các loại mô hình: mô hình sân bay, nhà ga...Các loại tranh ảnh, lô tô.        Việc sử dụng đồ dùng trực quan phải được sử dụng một cách linh hoạt và sáng tạo. Trong tiết dạy tôi không sử dụng một loại đồ dùng từ đầu đến cuối cũng không sử dụng quá nhiều loại ôm đồm để trẻ khó hiều mà tôi phối hợp các loại đồ dùng trực quan sao cho phù hợp, linh hoạt từng phần sao cho trẻ không nhàm chán.   Ví dụ: Trong tiết dạy cho trẻ tìm hiểu về một số loại hoa tôi có thể sử dụng một số loại đồ dùng như: Tranh lô tô, hoa thật, đồ chơi, màn hình, mô hình kết hợp với nhau sao cho linh hoạt và phù hợp như phần đầu giới thiệu bài cho trẻ đi thăm mô hình vườn rau với nhiều loại hoa, phần cung cấp kiến thức cho trẻ quan sát các loại hoa thật, phần mở rộng cho trẻ xem trên màn hình một số loại hoa khác, phần luyện tập cho trẻ đi chơi trò chơi với hoa thật, tranh lô tô. Việc kết hợp sử dụng linh hoạt các loại đồ dùng trực quan trong tiết học tôi thấy trẻ hứng thú hơn mỗi khi học khám phá khoa học, kiến thức tôi truyền đạt vì thế mà dễ dàng và trẻ ghi nhớ hơn. Biện pháp 2: Sử dụng các trò chơi thực nghiệm : Trẻ mầm non rất thích tìm hiểu và khám phá môi trường xung quanh. Trẻ rất vui sướng khi được trực tiếp nhìn thấy hoặc tự tay mình làm các thí nghiệm rồi tự rút ra kết luận. Thông qua việc cho trẻ làm thí nghiệm, đòi hỏi trẻ phải sử dụng tích cực các giác quan. Chính vì vậy sẽ phát triển ở trẻ năng lực quan sát, khả năng phân tích, so sánh, tổng hợp, nhờ vậy khả năng cảm nhận của trẻ nhanh nhậy, chính xác, những biểu tượng kết quả trẻ thu nhận được trở nên cụ thể và sinh động hấp dẫn hơn. Ví dụ 1: Thí nghiệm về sự nảy mầm của hạt * Mục tiêu:        Trẻ biết được cây cũng cần thức ăn ,ánh sáng và nước mới sinh trưởng được. * Chuẩn bị:           Một vài hạt đậu tương, đậu đen2 Khay nhỏ, một ít đất, bình nước tưới. *Tiến hành: Ngâm hạt vào trong nước ấm từ 1 đến 2 tiếng sau đó lấy ra đặt hạt vào khay có sẵn đất. Đặt 1 khay nơi có ánh sáng mặt trời và cho trẻ tưới nước hàng ngày. Khay còn lại đặt trong bóng tối và không tưới nước. Quan sát sau 3 đến 4 ngày cây trong khay được tưới nước hàng ngày sẽ nảy mầm và lớn dần còn khay không tưới sẽ không nảy mầm. Lúc này hãy cho trẻ giải thích hiện tượng nảy mầm và không nảy mầm trên . Vì trẻ mẫu giáo lớn nên tôi cho trẻ tự làm và nêu kết quả thực nghiệm của bản thân . * Giải thích và kết luận:   Cây nảy mầm được nhờ được gieo xuống đất, có ánh sáng và tưới nước đầy đủ và ngược lại cây mà không được chăm sóc đầy đủ sẽ không nảy mầm được. Ví dụ 2:   * Mục tiêu:          Cho trẻ hiểu với cùng mọt đồ dùng nhưng chọn đơn vị đo khác nhau thì kết quả cũng khác nhau * Chuẩn bị: Một chai nhựa trong 1 lít, ba cốc nhựa to, nhỡ, nhỏ, thẻ số 4, 5, 6 Lần lượt cho trẻ đong nước bằng các cốc khác nhau rồi đổ vào chai nhựa( cốc to, nhỡ, nhỏ) Sau mỗi lần đong ghi kết quả lại, quan sát kết quả các chai bằng các thẻ số * Giải thích và kết luận:           Sử dụng cốc to đổ nước vào chai sẽ nhanh đầy hơn( 4 cốc), sử dụng cốc nhỡ phải đong 6 cốc, sử dụng cốc nhỏ sẽ lâu đầy hơn( 8 cốc). Ví dụ 3: Thí nghiệm về nước và các lớp chất lỏng * Chuẩn bị: dầu ăn, nước lọc, si rô, cốc thủy tinh Tiến hành: Cho trẻ chọn một chất đổ vào ly, tiếp theo chọn chất thứ hai, cuối cùng cho chất thứ ba vào Cho trẻ quan sát rút ra kết luận, lớp si rô nặng nhất nên ở dưới cùng, lớp dầu ăn nhẹ nhất nên ở trên cùng, và lớp nước ở giữa Khi quan sát trẻ hoạt động tôi thấy những biểu hiện trên trẻ rất tích cực, trẻ rất thích thú khi được quan sát hoặc thử nghiệm những hoạt động khám phá. Trong quá trình quan sát trẻ tỏ ra nhanh nhẹn linh hoạt và phát triển nhiều vốn kinh nghiệm, vốn từ của trẻ trở nên phong phú hơn khả năng diễn đạt tổt hơn. Vì vậy chúng ta những giáo viên mầm non có nhiệm vụ khuyến khích, tạo điều kiện giúp trẻ được khám phá, trải nghiệm Tuy nhiên, nội dung và đối tượng cho trẻ làm quen cần được chọn lọc, nội dung cho trẻ khám phá thử nghiệm đảm bảo cung cấp cho trẻ những kiến thức đơn giản, gần gũi và đặc biệt là phải an toàn về quy trình thực hiện Biện pháp 3: Tạo môi trường cho trẻ hoạt động Hoạt động khám phá khoa học cho trẻ được tổ chức theo chủ đề, nội dung của hoạt động xuất phát từ nhu cầu và hứng thú của trẻ. Để tạo cơ hội cho trẻ được trải nghiệm tối đa trong hoạt động khám phá khoa học, giáo viên cần xây dựng môi trường cho trẻ hoạt động, đặc biệt môi trường ở góc thiên nhiên. Một môi trường hiệu quả cho trẻ khám phá khoa học không chỉ giúp trẻ củng cố kiến thức mà còn phải giúp trẻ phát triển năng lực khám phá và thái độ đối với hoạt động khám phá khoa học. Tôi xây dựng góc thiên nhiên có các cây xanh như trồng các loại hoa, cây cảnh... Góc thiên nhiên là nơi dành cho các hoạt động chăm sóc cây cối: Nhặt cỏ, bắt sâu, tưới nước, ngoài ra còn là nơi tìm đọc các loại sách về thiên nhiên, các tranh ảnh về thế giới tự nhiên tạo cho trẻ có góc chơi rộng rãi với các nguyên vật liệu khác nhau để trẻ được trải nghiệm . Tôi bố trí giá sách chủ yếu là sách về con vật, cây cối, hoa lá, quả hạt để cho trẻ tìm hiểu. Tranh ảnh vừa tầm với của trẻ để trẻ có thể xem và đọc sách (có que chỉ cho việc đọc sách). Đọc sách theo từng chữ, từng dòng, tôi sắp xếp các hộp đựng vỏ cây khô hoa lá ép khô, các loại hạt Có ngắn nhãn mác và hình ảnh rõ ràng để trẻ rễ nhận thấy, trẻ được chơi và làm được những sản phẩm từ những dồ chơi ấy. Ngoài ra tôi cũng dùng vỏ hến, ốc trai ,sò vỏ trứng vệ sinh sạch sẽ vừa làm đồ dùng, đồ chơi phong phú vừa rẻ tiền vừa dễ kiếm . Biện pháp 4: Phương pháp lồng ghép khám phá khoa học vào các tiết học. Trong dạy học không có môn nào học nào, không có phương pháp nào là duy nhất , bao quát các môn học, các phương pháp khác, mà để đạt được hiệu quả giáo dục cần phải phối hợp lồng ghép giữa các lĩnh vực, các phương pháp mới có được hiệu quả tốt nhất với người học. Hiểu được vấn đề ấy trong các tiết dạy tôi thường xuyên lồng ghép khám phá khoa học vào trong các môn học khác như toán, âm nhạc, văn học, Ví dụ: trong hoạt động làm quen văn học trẻ học bài thơ “Hoa đào hoa mai” Tôi cho trẻ quan sát hoa đào hoa mai thật đó hỏi trẻ:       + Đây hoa gì? Nêu các đặc điểm của hoa đào, hoa mai?       + Hoa đào, hoa mai nở vào mùa nào ?       + Nêu cảm nhận của các con về những hoa đào và hoa mai?      Sau khi trò chuyện, tìm hiểu về hoa đào hoa mai xong tôi giới thiệu với trẻ bài thơ nói về hai loại hoa này. Bài thơ “ Hoa đào, hoa mai”. Qua tiết học làm quen văn học tôi đã giúp trẻ có thêm những hiểu biết về đặc điểm và cảm nhận của trẻ về hoa đào hoa mai từ đó trẻ cảm thấy thích đọc thơ hơn, hứng thú hơn. Các hoạt động tô màu, cắt dán, nối hình, cũng có thể tạo hứng thú giúp trẻ khám phá khoa học. Nếu cho trẻ tự khám phá trẻ sẽ tăng thêm phần hứng thú, kiến thức đến với trẻ nhẹ nhàng mà khắc sâu phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ. Những tiết khám phá khoa học thường được quan niệm khô khan thì tôi luôn khéo léo lồng ghép tích hợp các môn khác như : Toán, âm nnhạc, tạo hình ,văn học để trẻ thêm hứng thú, ghi nhớ tốt hơn, hiểu vấn đề sâu và rộng hơn. Câu đố cũng là một hình thức được tôi sử dụng để lôi cuốn trẻ vào hoạt động khám phá khoa học. Trẻ sẽ lắng nghe câu đố suy nghĩ và trả lời thật nhanh về câu đố đó Ví dụ : Trong tiết dạy làm quen với động vật sống trong gia đình. Tôi cho trẻ thi “ đố vui ” hai đội ra câu đố cho nhau và giải câu đố đội bạn. “ Đôi mắt long lanh Màu xanh trong vắt Chân có móng vuốt Vồ chuột rất tài” Là con gì ?                                ( con mèo ) “Thường nằm đầu hè Giữ nhà cho chủ Người lạ nó sủa Người quen nó mừng” ( con chó) Như vậy trẻ được đố những câu đố rất vui vẻ hào hứng, kích thích tư duy, làm phong phú vốn từ và ngôn ngữ mạch lạc... Trong tiết dạy tôi cũng lồng ghép toán sơ đẳng như khi làm quen với con cua, cô và trẻ cùng đếm số chân cua sau đó đọc câu đồng dao, bài hát về con cua, sự kết hợp ấy giúp tiết học không nhàm chán, khô khan mà còn giúp trẻ tìm hiểu được một cách tổng quát nhất về con cua .   Biện pháp 5: Ứng dụng công nghệ thông tin vào các tiết dạy khám phá khoa học: Trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay, sự phát triển của hệ thống mạng cùng với những tiện ích, ứng dụng phong phú đã tạo nên một cuộc cách mạng trong mọi người, mọi ngành và đặc biệt là giáo dục. Chính vì vậy ngay từ cấp học mầm non trẻ đã được làm quen với công nghệ thông tin như một phần của hoạt động giáo dục không thể thiếu. Không chỉ với người lớn mà đối với trẻ em mầm non thì công nghệ thông tin luôn mang lại nhiều điều kì thú và hữu ích trong việc tiếp thu kinh nghiệm sống. Hơn nữa trong việc giáo dục, truyền đạt kiết thức cho trẻ không phải sự vật hiện tượng nào cũng có sẵn để trẻ được trực tiếp tri giác, nhất là với hoạt động khám phá khoa học như tìm hiểu động vật sống dưới biển, quan sát máy bay, các hiện tượng tự nhiên, . , hay chúng ta không thể có thời gian để chứng kiến những hiện tượng trong tự nhiên xảy ra như tìm hiểu về cách sinh sản của một số loại vật nuôi, quá trình phát triển của câychính vì vậy để trẻ được tìm hiểu thế giới xung quanh một cách bao quát nhất thì ứng dụng công nghệ thông tin vào tiết học là một việc cần thiết. Được ưu thế là một giáo viên trẻ và có khả năng sử dụng công nghệ thông tin khá thành thạo tôi rất quan tâm và thường xuyên sử dụng công nghệ thông tin như các bài powerpoint vào các tiết học. Tôi nhận thấy khi sử dụng công nghệ thông tin vào các tiết khám phá khoa học trẻ tỏ ra rất hào hứng, thích thú và cũng giúp trẻ nhận biết sự vật- hiện tượng một cách rõ ràng hơn. Ví dụ 1: Tìm hiểu về “Mưa có từ đâu?” Tôi sử dụng bài powerpoint trình chiếu các quá trình tạo thành mưa (ánh nắng chiếu xuống mặt nước – Nước bốc hơi- Tạo thành mây - Gió thổi mây thành đám nặng rồi rơi xuống thành mưa) Sau khi tìm hiểu xong về quá trình tạo thành mưa tôi cho trẻ xem phim hoạt hình “Đám mây đen xấu xí” vừa là phim vừa đám ứng việc củng cố kiến thức về quá trình tạo thành mưa cho trẻ. Thông qua việc trình chiếu và xem phim hoạt hình trẻ vừa như được giải trí và cũng là khi lượng kiến thức cần cung cấp cho trẻ đảm bảo trọn vẹn với hình thức này. Việc triển khai chuyên đề công nghệ thông tin trong trường mầm non Hoa Cúc được Ban giám hiệu và giáo viên rất quan tâm đặc biệt là đối với trẻ 5-6 tuổi, các trò chơi thông minh trong “Vui học kidsmart” luôn làm trẻ tò mò và hứng thú. Biết được điều đó tôi thường xuyên tìm hiểu những trò chơi thông minh có liên quan tới chủ đề, chủ điểm mà trẻ đang học vừa giúp trẻ thỏa mãn tính tò mò cũng như củng cố, mở rộng hiểu biết về bào học với trẻ hơn. Ví dụ 2: Trò chơi “Tìm lá cho hoa” chủ đề Thế giới thực vật. Cách chơi: Trên màn hình xuất hiện những hình ảnh về 1 số cành hoa bất kì sau đó biến mất chỉ xuất hiện hoa và lá riêng rẽ nhiệm vụ của trẻ di chuột sắp xếp hoa và lá lại thành một bông hoa có cành lá chính xác. Khi trẻ đã chơi thành thạo tôi nâng cao trí nhớ cũng như sự nhanh nhẹn của trẻ bằng cách chỉnh thời gian xuất hiện hoa ban đầu nhanh hơn hoặc cao hơn nữa là không có sự xuất hiện của cành hoa ban đầu mà đòi hỏi trẻ phải có trí nhớ, kĩ năng từ những lần chơi trước tự xếp lá cho hoa đúng theo yêu cầu. Qua công nghệ thông tin từ một trò chơi tôi đã giúp trẻ có thêm kĩ năng sử dụng máy tính, đồng thời giúp trẻ củng cố, ghi nhớ bài học cho trẻ Biện pháp 6: Nâng cao kỹ năng quan sát, so sánh và phân loại ở trẻ.   Một trong những phương pháp quan trọng và không thể thiếu đối với khám phá khoa học là quan sát, so sánh và phân loại. Hầu như ở tiết học khám phá nào trẻ cũng được rèn luyện các kỹ năng này. Với mỗi đối tượng làm quen đầu tiên tôi sẽ làm cho trẻ bất ngờ khi nhìn thấy, bằng nhiều hình thức như đọc câu đố, hát bài hát có liên quan, đi tham quan mô hình hay là mở những ô cửa bí mật, những điều này sẽ giúp tôi lôi cuốn trẻ vào hoạt động khám phá. Sau đó trẻ sẽ được quan sát đối tượng thật kỹ có thể đối tượng bằng tranh ảnh hoặc là vật thật tùy theo đề tài và điều kiện thực tiễn để cho trẻ quan sát vật thật. Khi quan sát trẻ vừa được nhìn vừa được sờ được ngửi thoải mái lúc này trẻ sẽ tri giác đối tượng kỹ nhất làm tiền đề cho việc so sánh và phân loại đối tượng một cách chính xác. Ngoài giờ học hoạt động chung về môn khám phá khoa học ở trong lớp tôi còn kết hợp cho trẻ tham gia đi dạo chơi, tham quan, hoạt động ngoài trời. Trẻ được quan sát đối tượng trực tiếp và tôi sẽ đưa ra các câu hỏi đàm thoại để trẻ so sánh và phân loại đối tượng nhằm phát huy khả năng sáng tạo và tư duy cho trẻ. Ví dụ : Cô và trẻ quan sát vườn rau của trường có nhiều loại rau khác nhau như rau muốn, rau cải, cà chuatôi hướng cho trẻ nhận biết hình dạng lá của từng loại rau, xem đó là loại rau ăn gì? cho trẻ tìm ra điểm giống nhau và khác nhau của các loại rau. Lúc này trẻ đang được quan sát thực tế các loại rau trẻ sẽ dễ dàng nhìn thấy đặc điểm nổi bật của đối tượng nên trẻ so sánh và phân loại rất nhanh Dạo chơi thăm quan hoạt động ngoài trời, không những để trẻ khám phá thế giới xung quanh mình mà tôi còn giáo dục tình yêu thiên nhiên, ý thức bảo vệ môi trường. Tôi cũng luôn chú ý giáo dục bảo vệ môi trường. Với trẻ mặc d