So sánh Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc và đồng chi

Phạm Văn Đồng đã so sánh Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc với Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi để khẳng định giá trị của bài văn tế.

Đáp án cần chọn là: A

CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ

Phân tích Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc là một dạng đề thường gặp sau khi học tác phẩm này của Nguyễn Đình Chiểu. Chúng ta cùng Kiến Guru làm rõ những vấn đề đặc sắc của tác phẩm, đặc biệt là hình tượng người nghĩa sĩ trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.

I. Sơ lược về tác giả Nguyễn Đình Chiểu trước khi phân tích Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc 

1. Sơ lược về cuộc đời


Điều đầu tiên cần lưu ý khi phân tích Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là cần giới thiệu đôi nét về tác giả. Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888) là người con của đất Gia Định (Thành phố Hồ Chí Minh), đây là quê mẹ của ông, còn cha ông - ông Nguyễn Đình Huy là người Thừa Thiên Huế. Là người ham học và có tố chất, Nguyễn Đình Chiểu được gia đình quan tâm và tạo điều kiện cho học hành. 

Năm 1833, ông được cha đưa ra Huế để có thêm nhiều điều kiện tốt hơn cho công việc đèn sách, vì chuyên tâm nên ông đã đỗ tú tài vào năm hai mươi mốt tuổi. Sau đó, gia đình ông gặp cơn nguy biến, mẹ ông mất, Nguyễn Đình Chiểu thương mẹ đến nỗi khóc mù cả hai mắt. Về sau, ông đã học nghề bốc thuốc chữa bệnh và trở thành một lương y, một nhà giáo tại quê nhà của mình.

2. Sơ lược về sự nghiệp văn chương


Trong sáng tác thơ văn, Nguyễn Đình Chiểu thể hiện tấm lòng yêu nước, thương dân sâu đậm bằng một nghệ thuật giàu sức truyền cảm. Dù là các truyện thơ hay trong những bài văn, ông đều nhất quán trong quan niệm sáng tác, đó là dùng văn chương để thể hiện đạo lí và tinh thần chiến đấu cao độ cho sự nghiệp cứu nước. Không chỉ vậy, ông còn đặc biệt quan tâm đến những tính thẩm mĩ và những giá trị thuộc về tinh thần mà các tác phẩm văn chương mang lại. Chính quan niệm sáng tác đó đã tạo nên sự đa dạng, phóng khoáng trong những sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu.

II. Hướng dẫn phân tích Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

1. Khái quát về bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc


Trước khi đi vào phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, chúng ta cần khái quát về hoàn cảnh sáng tác, chủ đề cũng như thể loại của tác phẩm.

Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta và quyết định mở cuộc tấn công xuống Cần Giuộc vào năm 1859. Nhân dân vô cùng căm phẫn và quyết tâm chống giặc. Ở Cần Giuộc, những người nghĩa sĩ đã quả cảm chiến đấu nhưng tiếc thay trong đêm tập kích đồn giặc ngày 16/12/1861, họ đã hi sinh anh dũng. Để bày tỏ niềm tiếc thương và lòng biết ơn sâu sắc, Nguyễn Đình Chiểu đã làm bài văn tế để đọc tại buổi truy điệu của những người chiến sĩ áo vải can trường, bất khuất.  

Văn tế là thể loại được viết vào để tưởng nhớ người đã mất, có thể được viết dưới dạng văn vần hoặc là văn xuôi. Một bài văn tế thường có bốn phần:

Thứ nhất là lung khởi, đây là phần khái quát chung về hoàn cảnh và sự ra đi của con người, bắt đầu bằng “Than ôi”, “Than rằng”, “Thương thay”,...

Thứ hai là phần thích thực, phần này kể về những công đức, phẩm chất tốt đẹp của người đã khuất ấy.

Thứ ba là phần ai vãn, thể hiện cảm xúc tiếc thương, đau xót về người đã khuất.

Cuối cùng là phần kết, đây là những dòng viết bày tỏ niềm tự hào và ca ngợi về sự bất khuất của họ.

2. Hình tượng người nghĩa sĩ trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc


a. Hình tượng người nghĩa sĩ trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ở cuộc sống thường nhật


Làm rõ hình tượng người nghĩa sĩ trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc sẽ tạo điểm nhấn cho bài phân tích Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.

Trước khi trở thành nghĩa sĩ thì những người lính Cần Giuộc chính là những người nông dân. Họ có xuất thân nghèo khổ từ dân ấp, dân lân “cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó” và “chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ”. 

Thế nhưng, những người nông dân quanh năm vất vả, lam lũ ấy lại có tính tình họ chăm chỉ, lương thiện và chính hoàn cảnh lịch sử dân tộc đã giúp họ phát huy những khả năng tiềm ẩn của bản thân để trở thành những anh hùng dân tộc thực thụ.

b. Hình tượng người nghĩa sĩ trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trong chiến đấu


Một điểm cần lưu ý nữa trong phân tích Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là làm rõ hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ trong chiến đấu.

Khi có thực dân Pháp sang xâm lược, những người nông dân thể hiện rõ tấm lòng yêu nước nồng nàn, sâu sắc.

Họ thể hiện sự căm thù giặc ngoại xâm bằng cách xung phong xông pha vào trận mạc dù trong lòng canh cánh biết bao nỗi lo. Thế nhưng, họ đã vượt qua hết tất cả những nỗi lo ấy để thể thẳng thắn thể hiện thái độ “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”, rồi “muốn tới ăn gan”, “muốn ra cắn cổ” cho thoả nỗi căm hờn. 

Từ nhận thức, họ hành động. Họ quyết định “làm quân chiêu mộ”, bản lĩnh “đạp rào”, “xô cửa”, “đâm ngang”, “chém ngược” để tiêu diệt quân thù. Chính vì thế họ đã lập nên những chiến công hiển hách, nào là “đốt xong nhà dạy đạo kia”, nào là “chém rớt đầu quan hai nọ”. Họ lúc này đã trở thành một biểu tượng sừng sững về tinh thần của anh hùng cứu nước.

Tiếc thay, dù chiến đấu quả cảm nhưng cuối cùng họ phải hi sinh, nhưng đó là một sự ra đi vinh quang, bất khuất. Tác giả đã sử dụng cách nói tránh về sự hi sinh của họ: “xác phàm vội bỏ”, “da ngựa bọc thây” nhưng dù có nói tránh thế nào thì sự ra đi ấy là một nỗi mất mát vô cùng của gia đình và dân tộc. Hình ảnh của họ xứng đáng lưu dấu trong sử sách nước nhà bằng niềm tự hào, cảm phục to lớn.

Như vậy, bằng việc tập trung làm rõ hình tượng người nghĩa sĩ trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Kiến Guru đã phần nào giúp các bạn thể hiện cái nhìn về những phương diện cụ thể của người nông dân áo vải khi phân tích Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Mong rằng đây sẽ là nguồn tư liệu hữu ích để các bạn làm tốt bài viết của mình. 

- Đề bài yêu cầu phân tích và chứng minh một nhận định về giá trị của bài Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc, về đặc sắc của hình tượng nghệ thuật mà Nguyễn Đình Chiểu tạo dựng nên trong tác phẩm đó.

- Nhận định của đồng chí Phạm Vãn Đồng được chia làm hai vế: “những người thất thế” và “vẫn hiên ngang”, cần thấy mối liên hệ qua lại giữa hai vế này. Đây là sự hiên ngang của những người thất thế. Trông sự thất thế càng nổi bạt lên vẻ hiên ngang. Vì thế, bài làm phải tái hiện được tình huống éo le của người nghĩa sĩ cần Giuộc để tô đậm lên vẻ hiên ngang, dũng cảm nơi họ.

So sánh Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc và đồng chi

- Trong lúc phân tích, chứng minh các ý trên cần làm sáng tỏ màu sắc bi tráng của hình tượng người nghĩa sĩ cần Giuộc. Đây là tác phẩm thuộc thể văn tế. Vẻ đẹp hình tượng nghệ thuật, vì thế, không tách rời cảm hứng bi thương, tự hào của người viết (chú ý chữ “khúc ca” trong nhận định). Chỉ ra tính chất bi tráng của hình tượng người nghĩa sĩ cần Giuộc cũng là tìm đến cảm hứng chủ đạo của Nguyễn Đình Chiểu khi viết bài Văn tế này.

DÀN BÀI

1. MỞ BÀI

- Vị trí bài Vãn tế nghĩa sĩ cần Giuộc trong cuộc đời và trong sự nghiệp văn học của Nguyễn Đình Chiểu.

- Giới thiệu ý kiến của đồng chí Phạm Văn Đồng.

2. THÂN BÀI

- Thân phận, tình huống éo le của người nghĩa quân cần Giuộc.

- Những người nông dân hết sức bình thường, “cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó”.

- Sơ sài về tri thức quân sự, rất ít được huấn luyện, tập tành.

- Sơ sài về vũ khí, trang bị.

- Đảm đương sứ mệnh đánh giặc, cứu nước giữa lúc triều đình bạc nhược, làm ngơ trước sự hung hãn, lấn lướt của kẻ thù.

So sánh Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc và đồng chi

Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc - Khúc ca hùng tráng về những con người hiên ngang, dũng cảm.

- Vào trận và xả thân với lòng hoàn toàn tự nguyện, với những trang bị sẵn có hết sức thô sơ.

- Khí thế xung trận dũng mãnh khác thường được dựng tả trong cảm hứng tự hào, phấn chấn Nguyễn Đình Chiểu.

- Nguồn sức mạnh lớn lao để người nghĩa sĩ xả thân cao cả như thế là lòng căm thù giặc sâu sắc, là nhận thức đúng đắn về lẽ sống, chết ở đời.

- Cảm hứng bi hùng của Nguyễn Đình Chiểu trong lúc viết Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.

- Đau xót, bi thương trước sự hi sinh của những người nghĩa sĩ.

- Cảm phục, tự hào trước tấm gương “nghìn năm tiết rỡ”.

3. KẾT BÀI

Khẳng định vị trí đặc biệt của bài Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc trong lịch sử văn học dân tộc: lần đầu tiên dựng lên một tượng đài nghệ thuật đầy tính chất bi tráng về những người nông dân đánh giặc cứu nước.

Mở đầu tác phẩm, tác giả Phạm Văn Đồng đã đưa ra vấn đề gì?

Tích vào những luận điểm được tác giả đưa ra ở phần giải quyết vấn đề: