Tại sao ở nông thôn lại thiếu việc làm

Thực trạng thất nghiệp ở nông thôn việt nam

  • doc
  • 20 trang
LỜI NÓI ĐẦU

Trong công cuộc đổi mới nước ta hiện nay[ đặc biệt phải đứng trước những
cơ hội và thách thức khi ra nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO năm 2006], vấn
đề thất nghiệp và các chính sách giải quyết việc làm đang là vấn đề nóng bỏng và
bức bách được xã hội quan tâm.
Việt Nam là một nước đang phát triển, chúng ta đang từng bước đổi mới,
nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Kinh tế vĩ mô đã vạch rõ
những vấn đề phát sinh [ hoặc có thể nhận định nó là các vấn đề đi cùng với sự tồn
tại của một nền kinh tế_ đặc biệt là nền kinh tế thị trường] như: thất nghiệp, lạm
phát, suy thoái kinh tế, tăng trưởngLà một nước phát triển chậm, tốc độ công
nghiệp hóa hiện đại hóa chưa cao, cơ chế kinh tế còn nhiều bất cập, đòi hỏi chúng
ta luôn phải nhạy bén khi đứng trước những nguy cơ của nền kinh tế..
Một đất nước có tới hơn 70% dân số thuộc khu vực nông thôn., sản xuất
nông nghiệp vẫn đóng vai trò rất quan trọng, đời sống con người ở nông thôn còn
gặp rất nhiều khó khăn, trình độ học vấn còn thấp..khiến cho vấn đề thất nghiệp
ở nông thôn ngày càng được quan tâm và là vấn đề hết sức cấp bách.
Đề tài nghiên cứu này nhằm mục đích đưa ra nhận thức đúng đắn và cụ thể
về những nội dung liên quan đến thất nghiệp tại nông thôn Việt Nam hiện nay như
nguyên nhân, hậu quả,thực trạng,giải pháp Đồng thời giúp người đọc có cái
nhìn tổng quan về thi trường lao động nông thôn Việt Nam trong giai đoạn đổi mới
và đặc biệt là từ khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO.

1

Bài luận gồm có 4 phần chính :
I

Khái quát chung về vấn đề thất nghiệp ở nông thôn Việt Nam

II

Thực trạng thất nghiệp ở nông thôn Việt Nam

III

Nguyên nhân

IV

Giải pháp khắc phục.

Với lượng kiến thức và kinh nghiệm thực tế còn chưa nhiều, vì vậy không
tránh khỏi những thiếu sót trong bài viết , rất mong nhận được sự ủng hộ, đánh
giá, đóng góp của cô và các bạn.
Xin chân thành cảm ơn!
Nhóm 8 gồm 4 thành viên:
1. Đường thị Cúc
2. Đinh thì Phương Vân
3. Hoàng Tùng
4. Lê Tam Sơn

2

NỘI DUNG

I. Khái quát chung về vấn đề thất nghiệp ở nông thôn Việt Nam
1.1.Thất nghiệp.
Theo khái niệm của tổ chức lao động quốc tế[ILO], thất nghiệp[ theo nghĩa
chung nhất] là tình trạng tồn tại khi một số người trong độ tuổi lao động muốn có
việc làm nhưng không thể tìm được việc làm ở mức tiền công nhất định.
Người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động,
không có việc làm và đang có nhu cầu tìm việc làm.
Thất nghiệp ở nông thôn:
Trong khu vực nông thôn Việt Nam, tồn tại một số hình thức thất nghiệp
chủ yếu như:
+ Thất nghiệp tạm thời: Là loại thất nghiệp xảy ra khi có một số người lao
động đang trong thời gian tìm kiếm một nơi làm phù hợp hơn hoặc những người
mới bước vào thị trường lao động đang chờ việc
[ Loại thất nghiệp này tồn tại ngay cả khi thị trường lao động cân bằng]
+ Thất nghiệp cơ cấu: Là loại thất nghiệp xảy ra khi có mất cân đối về mặt
cơ cấu giữa cung và cầu lao động. Sự mất cân đối này do 2 nguyên nhân:
. Người lao động thiếu kỹ năng
. Khác biệt về nơi cư trú
+ Thất nghiệp mùa vụ: khi công việc phụ thuộc vào nhu cầu theo thời tiết.
đây là loại thất nghiệp xảy ra rất phổ biến ở khu vực nông thôn Việt Nam.
. Ví dụ: nông dân trong giai đoạn cây trưởng thành, công nhân xây dựng
trong mùa mưa, giáo viên dạy trượt tyết trong mùa hè

3

+ Thất nghiệp chu kỳ [thất nghiệp theo lý thuyết Keynes]: là loại thất
nghiệp được tạo ra trong tình trạng nền kinh tế suy thoái của chu kì kinh tế , khi
tổng cầu lao động thấp hơn tổng cung lao động .
1.2.Tác động của thất nghiệp.
1.2.1.Tác động tới cá nhân người lao động và gia đình họ:
Không có việc làm đồng nghĩa với hạn chế giao tiếp với những người lao
động khác, tiêu tốn thời gian vô nghĩa, không có khả năng chi trả, mua sắm vật
dụng thiết yếu cũng như các hàng hóa tiêu dùng. Yếu tố sau là vô cùng trầm trọng
cho người gánh vác nghĩa vụ gia đình, nợ nần, chi trả chữa bệnh. Những nghiên
cứu cụ thể chỉ ra rằng, gia tăng thất nghiệp đi liền với gia tăng tỷ lệ tội phạm, tỷ lệ
tự tử, và suy giảm chất lượng sức khỏe.
Theo một số quan điểm, rằng người lao động nhiều khi phải chọn công
việthu nhập thấp [trong khi tìm công việc phù hợp] bởi các lợi ích của bảo hiểm xã
hội chỉ cung cấp cho những ai có quá trình làm việc trước đó. Về phía người sử
dụng lao động thì sử c dụng tình trạng thất nghiệp để gây sức ép với những người
làm công cho mình [như không cải thiện môi trường làm việc, áp đặt năng suất
cao, trả lương thấp, hạn chế cơ hội thăng tiến, v.v..].
Cái giá khác của thất nghiệp còn là, khi thiếu các nguồn tài chính và phúc
lợi xã hội, cá nhân buộc phải làm những công việc không phù hợp với trình độ,
năng lực. Như vậy thất nghiệp gây ra tình trạng làm việc dưới khả năng. Với ý
nghĩa này, thì trợ cấp thất nghiệp là cần thiết.
Những thiệt thòi khi mất việc dẫn đến trầm uất, suy yếu ảnh hưởng của
công đoàn, công nhân lao động vất vả hơn, chấp nhận thù lao ít ỏi hơn và sau cùng
là chủ nghĩa bảo hộ việc làm. Chủ nghĩa này đặt ra những rào cản với người muốn
gia nhập công việc, hạn chế di dân, và hạn chế cạnh tranh quốc tế. Cuối cùng, tình
trạng thất nghiệp sẽ khiến cán cân đàm phán điều kiện lao động nghiêng về giới

4

chủ, tăng chi phí khi rời công việc và giảm các lợi ích của việc tìm cơ hội thu nhập
khác.
Người thất nghiệp dễ ở trong tình trạng mình là người thừa tuy nhiên sự tác
động là khác nhau giữa hai giới. Ở phụ nữ nếu không có việc làm ngoài thì việc
nội trợ và chăm sóc con cái vẫn có thể được chấp nhận là sự thay thế thỏa đáng,
ngược lại ở người nam, đem thu nhập cho gia đình gắn chặt đến giá trị cá nhân,
lòng tự trọng. Nam giới khi mất việc làm thường tự ti, rất nhạy cảm và dễ cáu bẳn,
họ có thể tìm đến rượu, thuốc lá để quên đi buồn phiền, tình trạng này kéo dài
ngoài khả năng gây nghiện ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe còn có thể khởi tạo
một vấn đề mới đó là bạo hành gia đình[2]. Họ cũng dễ bị rối loạn tâm lý như buồn
phiền, mất ngủ, trầm cảm và như đã nói ở trên đôi khi còn dẫn đến hành vi tự sát.
1.2.2. Chi phí cho doanh nghiệp và giảm tăng trưởng kinh tế:
Tỷ lệ thất nghiệp cao đồng nghĩa với Tổng sản phẩm quốc nội [GDP] thấp
các nguồn lực con người không được sử dụng, bỏ phí cơ hội sản xuất thêm sản
phẩm và dịch vụ.
Thất nghiệp còn có nghĩa là sản xuất ít hơn. Giảm tính hiệu quả của sản
xuất theo quy mô.
Thất nghiệp dẫn đến nhu cầu xã hội giảm. Hàng hóa và dịch vụ không có
người tiêu dùng, cơ hội kinh doanh ít ỏi, chất lượng sản phẩm và giá cả tụt giảm.
Hơn nữa, tình trạng thất nghiệp cao đưa đến nhu cầu tiêu dùng ít đi so với khi
nhiều việc làm, do đó mà cơ hội đầu tư cũng ít hơn.
1.2.3.Tác động tích cực đến nền kinh tế
Tình trạng thất nghiệp gia tăng tương quan với áp lực giảm lạm phát. Điều
này được minh họa bằng đường cong Phillips trong kinh tế học.
Một tỷ lệ thất nghiệp vừa phải sẽ giúp cả người lao động và chủ sử dụng
lao động. Người lao động có thể tìm những cơ hội việc khác phù hợp với khả

5

năng, mong muốn và điều kiện cư trú. Về phía giới chủ, tình trạng thất nghiệp
giúp họ tìm được người lao động phù hợp, tăng sự trung thành của người lao động.
Do đó, ở một chừng mực nào đó, thất nghiệp đưa đến tăng năng suất lao động và
tăng lợi nhuận

II. Thực trạng thất nghiệp ở nông thôn Việt Nam.
Việt Nam là một trong những nước đang phát triển, quy mô dân số và mật
độ dân cư tương đối lớn so với các nước trên thế giới. Và tốc độ phát triển nhanh,
trong lúc đó việc mở rộng và phát triển kinh tế, giải quyết việc làm gặp nhiều hạn
chế như: thiếu vốn sản xuất, lao động phân bố chưa hợp lí, tài nguyên khai thác
chưa hợp lí.Càng làm cho chênh lệch giữa cung và cầu lao động rất lớn gây ra
sức ép về giải quyết việc làm cho toàn quốc.
Việt Nam hiện nay có tới hơn 70% dân số sống tại khu vực nông thôn, là
một nước có nền kinh tế nông nghiệp, lực lượng lao động tập trung chủ yếu ở
nông thôn. Vì vậy, vấn đề lao động và việc làm ở nông thôn vốn tồn tại nhiều khó
khăn, nay lại càng trở nên khó khăn hơn do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh
tế.
Do điều kiện kinh tế xã hội, điều kiện tư nhiên, tài nguyên thiên nhiên và
trình độ phát triển kinh tế khác nhau giữa thành thị và nông thôn nên nguồn lao
động ở các khu vực đó có mức tăng và tỉ lệ khác nhau:
Bảng: Phân bố dân số và lao động giữa thành thị và nông thôn Việt Nam.

Chỉ tiêu
1.tổng dân số
Nông thôn
Thành thị
2.dân số trong độ
tuổi lao động
Nông thôn

1/4/1989
Nghìn
người
64.774
52.197
12.577
33.496
25.625

Tỷ trọng
[%]
100,00
80,58
19,42
100,00

1/4/1999
Nghìn
Tỷ trọng
người
[%]
76.653 100,00
58.572 76,42
18.018 23,58
43.556 100,00

1/7/2004
Nghìn
Tỷ trọng
người
[%]
82.100
100,00
43.255,3

100,00

76,50

32.196

32.706

75,60

73,92

6

Thành thị

7.870

23,50

11.359

26,08

10.549, 3

24,40

Qua 3 giai đoạn điều tra dân số và dân số trong độ tuổi lao động ta thấy
được, dân số nông thôn Việt Nam có xu hướng giảm tỷ trọng trong tổng dân số
nhưng tỉ lệ dân số trong độ tuổi lao động lại tăng lên,con số này luôn trong khoảng
trên 75%.
Trong năm 2008, tỷ lệ thiếu việc làm của khu vực nông thôn là 6.10%
[ trong khi đó tỷ lệ này ở khu vực thành thị là 2.34%] cao hơn so với mức 5.10%
của cả nước Tỷ lệ thiếu việc làm giữa các vùng trong khu vực nông thôn cũng có
sự khác nhau đang kể như: vùng đồng bằng sông Hồng là 8.23% trong khi đó ở
trung du và miền núi phía Bắc là 2.56%, đồng bằng sông Cửu Long là 7.11%.......

Tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm của lực lượng lao động
trong độ tuổi năm 2008 phân theo vùng[*]
%
Tỷ lệ thất nghiệp
Thành Nông
Chung
thị
thôn
CẢ NƯỚC
2.38
4.65
1.53
Đồng bằng sông Hồng
2.29
5.35
1.29
Trung du và miền núi phía
Bắc
1.13
4.17
0.61
Bắc Trung Bộ và duyên hải
miền Trung
2.24
4.77
1.53
Tây Nguyên
1.42
2.51
1.00
Đông Nam Bộ
3.74
4.89
2.05
Đồng bằng sông Cửu Long
2.71
4.12
2.35
[ nguồn : tổng cục thống kê]

Tỷ lệ thiếu việc làm
Thành
Nông
Chung
thị
thôn
5.10
6.85

2.34
2.13

6.10
8.23

2.55

2.47

2.56

5.71
5.12
2.13
6.39

3.38
3.72
1.03
3.59

6.34
5.65
3.69
7.11

Theo tổng cục Thống kê [TCTK], chỉ tiêu tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta những
năm gần đây chỉ được tính cho khu vực thành thị, với những người trong độ tuổi

7

15-60 với nam và 15-55 với nữ. Tuy nhiên, để đánh giá về tình hình lao động, còn
một chỉ tiêu khác là tỷ lệ lao động thiếu việc làm. Đây là chỉ tiêu quan trọng được
tính cho cả lao động ở khu vực nông thôn và thành thị, nhưng từ trước đến nay
chưa công bố. Ở Việt Nam, tỷ lệ lao động thiếu việc làm thường cao hơn tỷ lệ thất
nghiệp; trong đó tỷ lệ thiếu việc làm nông thôn thường cao hơn thành thị. Với cách
hiểu như vậy, tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam hiện là 4,65%, tăng 0,01% so với
năm 2007. Trong khi đó, tỷ lệ lao động thiếu việc làm hiện là 5,1%, tăng 0,2% so
với năm 2007. Đáng chú ý, tỷ lệ thiếu việc làm nông thôn tới 6,1%, trong khi tỷ lệ
này ở khu vực thành thị là 2,3%. 5 năm lại đây, tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm có
xu hướng giảm 0,1-0,2%/năm. Nhưng do ảnh hưởng của biến động kinh tế thế
giới, từ năm 2007 đến nay, tỷ lệ này đang tăng dần. Việt Nam đang tích cực triển
khai các giải pháp để giảm tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm về đúng quỹ đạo giảm
như các năm trước. Theo dự báo của TCTK, tỷ lệ thiếu việc làm năm 2009 sẽ tăng
lên 5,4% [2008: 5,1% ]; trong đó, khu vực nông thôn khoảng 6,4%.
Nguồn lực quan trọng cho sự tăng tốc kinh tế khu vực nông thôn phải kể tới
là nguồn lao động qua đào tạo. Mặc dù, trong thời gian qua, lộ trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp khá nhanh, đã chuyển đổi số lượng không nhỏ lao
động thuần nông sang sản xuất công nghiệp hàng hoá. Nhiều lao động nông thôn
đã được đào tạo để chuyển đổi nghề nghiệp. Song lao động ở khu vực nông nghiệp
nông thôn chiếm tới 76% lực lượng lao động toàn xã hội và số lao động qua đào
tạo chỉ chiếm khoảng 10% so với trên 25% ở khu vực thành thị. Nhiều công trình
nghiên cứu cho thấy, ở nông thôn dân trí thấp hơn 2 lần, nhân tài thấp hơn 8,6 lần,
và nhân lực, trong đó có đào tạo nghề, thấp hơn 10 lần so với thành thị. Đó còn
chưa kể tới một thực tế, hiện nay, tình trạng lao động ở nông thôn mới sử dụng
khoảng 80% thời gian lao động; tỷ lệ thất nghiệp chiếm khoảng 6%; đặc biệt trong
thời gian gần đây có tình trạng chuyển đổi đất nông nghiệp sang sản xuất công
nghiệp và xây dựng các công trình công cộng nên tỷ lệ lao động không có việc

8

làm có xu hướng tăng cao... Trong thời gian tới cần có giải pháp phù hợp để đào
tạo và phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn.
Nông thôn Việt Nam có nguồn lao động dồi dào và tiềm năng, là nơi cung
cấp và hậu thuẫn đắc lực cho các khu đô thị và khu công nghiệp. Tuy nhiên, nguồn
lao động này vẫn còn ít cơ hội để phát huy khả năng cống hiến của mình cho sự
phát triển nông thôn. Đây là thách thức đối với chính lao động nông thôn và các
nhà hoạch định chính sách.
Theo số liệu tổng điều tra dân số năm 2009, 70% dân số nước ta đang sống
ở khu vực nông thôn, lao động nông thôn hiện chiếm 75% tổng lực lượng lao động
cả nước và chủ yếu tập trung sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp, năng suất lao
động thấp, phương thức sản xuất lạc hậu, hiệu quả sản xuất không cao. Giai đoạn
2000-2007, tốc độ tăng trưởng lao động của cả nước đạt 2,79%, trong đó tốc độ
tăng trưởng của lao động nông thôn là 2,18%. Năm 2007, lực lượng lao động nông
thôn của cả nước là 34,8 triệu người, chiếm 74,5% tổng lực lượng lao động, trong
đó số người nằm trong độ tuổi lao động là 32,73 triệu người. Lao động nông thôn
vùng đồng bằng sông Hồng chiếm 22,3%, vùng đồng bằng sông Cửu Long chiếm
21,5%, Tây Bắc chiếm 3,18% và Tây Nguyên chiếm 5,59%....
Lực lượng dồi dào như vậy nhưng trình độ chuyên môn của lao động nông
thôn chưa cao. Hiện lao động có việc làm và kỹ năng chuyên môn chỉ chiếm
16,8%, còn lại 83,2% là lao động chưa qua đào tạo, chưa có trình độ kỹ thuật
chuyên môn. Thêm vào đó, hầu hết các thị trường lao động vẫn chỉ tập trung chủ
yếu ở các tỉnh, thành phố có nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất và ở ba vùng
kinh tế trọng điểm. Ở vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa, thị trường lao động lại
chưa phát triển nên dẫn đến thực trạng là nơi thừa, nơi thiếu lao động. Qua các
cuộc điều tra của Viện Xã hội học nghiên cứu về việc làm - lao động gần đây, chỉ
có 2,7% thanh niên nông thôn có chuyên môn kỹ thuật bậc trung, cao trong các
lĩnh vực; nhân viên kỹ thuật làm trong văn phòng khoảng 1%; trong khi đó, thanh
niên nông thôn lao động giản đơn, phi nông nghiệp chiếm tỷ lệ rất cao, khoảng
9

27%, và lao động trong lĩnh vực nông nghiệp là 32%. Tỷ lệ thất nghiệp từ độ tuổi
15-29 ở nông thôn lên tới 77%. Ngoài ra, lề lối làm ăn trong ngành nông nghiệp
truyền thống và tình trạng ruộng đất manh mún, nhỏ lẻ như hiện nay đã hạn chế
tính chủ động sang tạo của người nông dân trong sản xuất, kinh doanh cũng như
khả năng tiếp cận thị trường của người lao động. Có thể thấy , cung lao động nông
thôn dồi dào nhưng chất lương chưa cao cả về văn hoá , kỹ năng chuyên môn cũng
còn rất hạn chế

III. Nguyên nhân.
3.1.Quá trình đô thị hóa nông thôn:
Trong những năm gần đây, nhờ các chính sách mở cửa của nền kinh tế,
hàng loạt các khu công nghiệp trong nước và liên doanh nước ngoài được mở rộng
và xây dựng mới. Đặc biệt phát triển rầm rộ ở khu vực các tỉnh cận thành Hà Nội_
khu vực có nguồn nhân công dồi dào, lao động dẻ, nguồn vốn bất động sản lớn,
gần thị trường tiêu thụ chính..hàng loạt các nhà máy, khu phân xưởng được
dựng lên, góp phần không nhỏ vào sự đổi mới khu vực nông thôn Việt Nam, tạo
công ăn việc làm cho rất nhiều lao động phổ thông.Nhưng ngược lại, nó cũng
mang lại những mặt trái: đất đai canh tác bị thu hẹp, những lao động không có
trình độ, trước kia sống nhờ đồng ruộng thì giờ đã không còn đất canh tác, số tiền
nhận được từ đền bù không được sử dụng hợp lí..gây rất nhiều khó khăn cho đời
sống nhân dân..tăng tỉ lệ thất nghiệp ở nông thôn.
3.2. Chính sách tự do hóa thương mại cải cách thị trường lao động và tác
động lên thu nhập lao động nông thôn.
Sự tự do hóa này sẽ khuếch đại thêm tác động của WTO lên thu nhập của
lao động nông thôn qua kênh thứ nhất. Lao động nông thôn sẽ di cư ra thành thị
tìm việc nhiều hơn. Quá trình di trú này làm tăng mạnh hơn nữa nguồn cung trong
thị trường lao động thành thị, do đó dẫn đến giảm mạnh hơn nữa thu nhập tương
đối công nhân thành thị. Ngược lại, quá trình này dẫn đến thu hẹp nguồn cung

10

trong thị trường lao động nông thôn, dẫn đến tăng thu nhập tương đối cho lực
lượng lao động còn lại ở nông thôn.
Bất chấp những điều chỉnh lớn trong lực lượng lao động nông thôn đến nay,
xu hướng chuyển dịch lao động dư thừa từ nông thôn ra thành thị mới chỉ dừng lại
ở mức độ rất thấp và những chính sách về thị trường lao động đã tạo ra những rào
cản lớn ngăn cách nông thôn với thành thị. Có những ước tính cho thấy khoảng
35-40% lực lượng lao động nông thôn bị dư thừa và năng suất lao động nông thôn
cực kỳ thấp. Phần lớn lao động rời bỏ nông thôn nếu may mắn thì tìm được việc
làm trong các nhà máy.
Vấn đề lao động nông thôn còn trở nên nan giải với hiện thực thất nghiệp
và bán thất nghiệp tương đối lớn ở thành thị, nơi mà các doanh nghiệp tư nhân chỉ
mới được khuyến khích gần đây, còn các doanh nghiệp nhà nước tuy chiếm tỉ
trọng đa số về vốn nhưng chỉ chiếm một tỉ trọng nhỏ về công ăn việc làm, nhiều
trong số đó nợ nần và thua lỗ ngập đầu và đang trải qua quá trình tái cơ cấu, sát
nhập, giải thể và tinh giảm biên chế. Với những nguyên nhân này, không khó hiểu
tại sao tỉ trọng lao động nông nghiệp ở VN có xu hướng giảm rất chậm [quanh
quẩn con số 70% trong nhiều năm nay].
Sau khi gia nhập, tác động từ WTO lên thu nhập lao động nông thôn sẽ xảy
ra từ hai kênh chính, có liên quan đến nhau.
Thứ nhất là tiền lương thực tế của lao động nông thôn sẽ tăng tương đối so
với tiền lương trong khu vực công nghiệp [thành thị]. Lý do là vì cho đến nay,
mức độ bảo hộ với hàng công nghiệp vẫn lớn hơn hàng nông sản, và do đó sau khi
gia nhập WTO, sự cắt giảm thuế và các loại bảo hộ phi thuế quan khác trong
ngành công nghiệp ở mức độ lớn hơn trong ngành nông nghiệp sẽ làm giảm giá cả
tương đối của các sản phẩm công nghiệp so với các sản phẩm nông nghiệp, dẫn
đến thu nhập thực tế của công nhân thành thị sẽ giảm tương đối so với lao động
nông thôn.

11

Thứ hai, gia nhập WTO còn có nghĩa là các hạn chế về dịch chuyển trong
thị trường lao động sẽ bị gỡ bỏ dưới áp lực của WTO và/hoặc là kết quả tự thân
của sự thay đổi trong chính sách về thị trường lao động của chính phủ, trước yêu
cầu của thực tế đòi hỏi phải tự do hóa thị trường lao động nhằm khắc phục tình
trạng cách biệt nông thôn - thành thị như đã nêu ở trên.
3.3.Dân số tăng nhanh và phân bổ dân cư không đều ở khu vực nông thôn.
Khu vực nông thôn Việt Nam là khu vực có tốc độ tăng dân số cao do
không có hiểu biết về những thường thức, thiếu hiểu biết về các biện pháp phòng
tránh, và quan trọng là không nhận thức được tầm quan trọng của chất lượng dân
số đối với đời sống gia đình và xa hơn là sự đi lên của nền kinh tế.
Theo số liệu của tổng cục thống kê, khu vực Đồng bằng sông Hồng có mật
độ dân số là 933 người/km2, khu vực trung du miền núi Bắc bộ là 118 người/km2,
khu vực tây nguyên là 92 người/km2.với mật độ này trên cả nước là 260
người/km2 [số liệu sơ bộ năm 2008]Việc phân bố dân cư không đều gây khó
khăn cho việc phát triển đồng đều nền kinh tế, quá trình di dân làm tăng nguy cơ
thất nghiệp, tăng khả năng ô nhiễm môi trường và khó kiểm soát vấn đề việc
làm.
3.4.Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động thấp.
Chúng ta có thể dễ dàng đánh giá được lao động Việt Nam,đặc biệt là lao
động nông thôn : nhiều về số lượng nhưng chất lượng rất thấp.
Theo điều tra của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, công nhân lao động
trong cả nước có trình độ tiểu học chiếm 3,7%, THCS là 14,7%, THPT là 76,6%,
THCN và cao đẳng là 13,8%, đại học là 13,24%.[ số liệu năm 2006].Theo đánh
giá chung, trình độ tay nghề, kỹ năng nghề nghiệp của công nhân lao động còn
thấp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, năng suất lao động chưa đáp ứng yêu
cầu. Thậm chí một số khu công nghiệp vẫn còn công nhân lao động mù chữ và tái

12

mù chữ. Vì vậy đã có nghịch lý, các doanh nghiệp thiếu thị trường lao động kỹ
thuật cao còn người lao động lại thiếu việc làm.
3.5.Phương thức sản xuất và tính chất công việc đặc trưng ở nông thôn Việt
Nam.
Nền nông nghiệp Việt Nam còn manh mún nhỏ lẻ, sản xuất theo hình thức
lạc hậu, máy móc kĩ thuật chưa được áp dụng nhiềulàm cho năng suất không
cao và tạo ra một lượng lớn lao động nhàn rỗi sau mùa vụ.chưa tận dụng hết
khả năng tăng gia sản xuất, nguồn lao động trong khu vực kinh tế nông thôn dồi
dào. Thu nhập của người sản xuất nông nghiệp còn thấp, tỉ lệ thất nghiệp mùa vụ
cao, nhu cầu việc làm cấp thiết dẫn đến hiện tượng di dân gây áp lực việc làm cho
khu vực thành thị và tính không ổn định của lớp lao động này làm nguy cơ thất
nghiệp càng cao..
Với các khu vực làng nghề truyền thống, giải quyết một lượng lớn lao
động nông thôn nhưng không có tính chủ động, khi các hợp đồng bị trì hoãn,lương
lao động bị cắt giảm, với đặc tính không thích ứng nhanh với môi trường, không
có năng lực thực sự làm cho nhưng đối tượng đó trở thành lực lượng thất nghiệp
trong nền kinh tế.Đời sống của họ phụ thuộc hoàn toàn vào tiền công, giờ sẽ
gặp rất nhiều khó khăn và kéo theo rất nhiều hệ lụy

IV. Giải pháp
Việt Nam là một nước có nền kinh tế nông nghiệp, lực lượng lao động tập
trung chủ yếu ở nông thôn. Vì vậy, vấn đề lao động và việc làm ở nông thôn vốn
tồn tại nhiều khó khăn, nay lại càng trở nên khó khăn hơn do ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng kinh tế.
Do những bất cập không nhỏ về tình hình cung cầu trên thị trường lao động
nông thôn nước ta, NNL ở nông thôn vẫn chỉ là dạng tiềm năng chưa được khai
thác và sử dụng tốt. Để giải quyết vấn đề đó và sử dụng có hiệu nguồn nhân lực ở
nông thôn trong thời gian tới, quan điểm chung: Một là, tận dụng tối đa số lượng
13

lao động, đồng thời không ngừng nâng cao năng suất lao động, nghĩa là sử dụng
gắn với phát triển NNL. Hai là, quá trình sử dụng lao động gắn liền với quá trình
phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn. Ba là, quá trình sử dụng lao động gắn với
quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Từ đó cần tiến hành các giải pháp
sau:
Thứ nhất: Giảm lượng cung lao động
Cần tiếp tục duy trì chương trình dân số kế hoạch hóa gia đình. Việc đưa
chương trình dân số và kế hoạch hóa gia đình về nông thôn nhằm thực hiện chỉ
tiêu tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,1% vào 2010, từ đó giảm số lượng nguồn nhân
lực. Muốn thực hiện được thì trước hết phải hỗ trợ cho họ có thể tiếp cận được các
phương tiện truyền thông để họ hiểu được pháp lệnh dân số và biện pháp kế hoạch
hóa gia đình. Cần hỗ trợ cho họ các loại thuốc và dụng cụ tránh thai không phải trả
tiền. Cần phải có các chính sách về lợi ích vật chất, để khuyến khích họ sinh đẻ
đúng kế hoạch.
Thứ hai: Phải sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả nguồn lực đất đai
Cần hoàn thiện chính sách và pháp luật về quản lý đất đai, để biến đất đai
thành nguồn vốn quan trọng cho phát triển kinh tế và tạo thêm việc làm. Mỗi địa
phương phải xây dựng và thực hiện nghiêm túc quy hoạch dài hạn sử dụng đất.
Trong nông nghiệp phải thay đổi cơ cấu về diện tích cây trồng trên cơ sở lựa chọn
đúng cơ cấu cây trồng vật nuôi thích hợp, phải đẩy nhanh thâm canh tăng vụ, nâng
cao hệ số sử dụng ruộng đất, tăng nhanh giá trị sản lượng trên một đơn vị diện
tích. Phải tiếp tục thực hiện giao đất giao rừng cho nhân dân để gắn đất đai với lao
động, đất rừng phải có chủ. Hoàn thành giao đất cho những hộ dân không có đất
sản xuất và kèm theo những điều kiện hỗ trợ về khuyến nông để giúp họ sản xuất
và khắc phục tình trạng sử dụng kém hiệu quả đất đai của các doanh nghiệp nông
lâm nghiệp. Trong xây dựng đô thị và kết cấu hạ tầng quan trọng phải trên cơ sở
quy hoạch tránh lãng phí. Tạo ra thị trường đất đai ở khu vực nông thôn sẽ làm
cho sự minh bạch về giá, giúp cho quá trình sử dụng nguồn vốn này tốt hơn, thúc
14

đẩy quá trình tích tụ và tập trung đất đai, từ đó góp phần thực hiện CNH, HĐH
nông nghiệp nông thôn.
Thứ ba: Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
Xác định chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn và xây dựng nền nông nghiệp hàng hoá lớn. Vì thế cần một là:
phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở khu vực nông thôn. Tiếp theo là phát
triển mạnh lâm nghiệp và thuỷ sản nhằm thay đổi cơ cấu giữa nông- lâm- thuỷ sản.
Trong nội bộ ngành nông nghiệp cần tiếp tục đẩy mạnh phát triển chăn nuôi, và tất
nhiên là thay đổi cơ cấu cây trồng giảm tỷ trọng cây lương thực, tăng tỷ trọng cây
màu cây công nghiệp. Hai là: củng cố thị trường đã có, mở rộng thị trường mới để
tiêu thụ nông sản phẩm và dịch vụ phi nông nghiệp ở nông thôn. Ba là: hoàn chỉnh
quy hoạch sản xuất nông lâm thuỷ sản và ngành nghề dịch vụ ở nông thôn theo
hướng hàng hoá gắn với thị trường. Bốn là: phát triển kinh tế nhiều thành phần.
Thứ tư: Cải tiến và đổi mới cơ chế huy động vốn, sử dụng và quản lý vốn
đầu tư
Một mặt tăng tỷ lệ đầu tư từ ngân sách nhưng chủ yếu cho kết cấu hạ tầng
cho nông nghiệp nông thôn. Có cơ chế và chính sách phù hợp như chính sách
miễn giảm thuế, chính sách tín dụng..., để kêu gọi khuyến khích đầu tư từ nhiều
nguồn vốn khác nhau vào nông nghiệp nông thôn, đặc biệt là nguồn vốn FDI vẫn
là nguồn vốn quan trọng để thúc đẩy sự phát triển và chuyển giao công nghệ trong
ngành nông -lâm- thuỷ sản.
Cần thúc đẩy sự hoạt động của hệ thống tài chính ngân hàng vào khu vực
thị trường nông thôn, nơi tỷ lệ rủi ro cao. Tạo ra những thuận lợi nhất để nông dân
có thể tiếp cận với các nguồn tài chính. Đẩy nhanh việc cổ phần hoá, hình thành
thị trường vốn và vận hành tốt loại thị trường này nhằm nhanh chóng huy động
vốn và di chuyển vốn dễ dàng giữa các khu vực, các ngành kinh tế từ đó tạo vốn
cho khu vực nông thôn.

15

Tăng nguồn vốn trung hạn và dài hạn hỗ trợ cho nhân dân, đặc biệt với
nông dân trong quá trình tạo việc làm và chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở nông thôn.
Thứ năm: Thúc đẩy quá trình đô thị hoá nông thôn cùng với việc xây dựng
các khu công nghiệp nhỏ ở nông thôn
Quá trình này được thực hiện bằng việc hình thành các thị trấn thị tứ, các
khu công nghiệp nhỏ và vừa, gia tăng các hoạt động dịch vụ ở nông thôn. Đây là
cơ sở cho việc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phân công lao
động ở nông thôn. Nhà nước kích thích quá trình này bằng cách hỗ trợ xây dựng
các công trình cấu trúc hạ tầng như cấp điện, giao thông, thông tin liên lạc, các
trung tâm thương mại dịch vụ. Khuyến khích dân cư nông thôn tự tạo việc làm
ngay tại quê hương mình theo phương châm "Li nông bất li hương. Khôi phục và
phát triển các làng nghề truyền thống. Chẳng hạn trước đây số lao động trẻ của
tỉnh Quảng Nam di chuyển đến các đô thị tìm việc làm rất lớn thì hiện tại với
chương trình khôi phục làng nghề truyền thống của tỉnh đã thu hút rất nhiều lao
động trẻ.
Thứ sáu: Nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực ở nông thôn
Cần thực hiện cơ chế nhà nước và nhân dân cùng làm để tăng cường đầu tư
cho giáo dục nâng cao trình độ văn hoá cho các vùng nông thôn, đặc biệt là vùng
Tây Nguyên, Tây Bắc và đồng bằng sông Cửu Long sớm phổ cập giáo dục cơ sở.
Điều chỉnh mạng lưới cơ sở đào tạo cho phù hợp với yêu cầu quy hoạch
phát triển kinh tế xã hội của từng vùng nông thôn. Xây dựng một số cơ sở sản xuất
nông nghiệp có trình độ kỹ thuật công nghệ cao trong các vùng nông nghiệp trọng
điểm nhằm kết hợp khuyến nông, đẩy mạnh hoạt động phổ biến chuyển giao tiến
bộ kỹ thuật cho nông dân. Trong việc đào tạo nghề nông nghiệp cho nông dân cần
chú ý cả phương tiện kỹ thuật và kỹ năng quản lý, không chỉ chú trọng các loại
hình chính quy trên cơ sở phát triển hệ cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, mà đặc

16

biệt quan tâm tới mô hình đào tạo cộng đồng. Tăng cường đào tạo ngành nghề phi
nông nghiệp cho nông dân.
Có chính sách khuyến khích và sử dụng tốt sinh viên học sinh tốt nghiệp
các trường đại học, cao đẳng, trung cấp về phục vụ ở nông thôn.
Để giải quyết vấn đề việc làm trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế, bên cạnh
những nhóm giải pháp lớn của Chính phủ như: thúc đẩy sản xuất kinh doanh và
xuất khẩu; thực hiện các biện pháp kích cầu đầu tư; chính sách tài chính hỗ trợ
doanh nghiệp; đảm bảo an sinh xã hội... có thể xem xét thêm một giải pháp cụ thể
hơn đối với vấn đề lao động, việc làm nông thôn.
Trong thời kỳ khủng hoảng, để duy trì được quy mô việc làm trong lĩnh vực
nông nghiệp, kích cầu lao động, giảm sức ép việc làm và thu nhập ở nông thôn,
cần triển khai một số giải pháp, đó là:
Duy trì sản xuất nông nghiệp; trước hết là sản xuất lúa gạo và các loại nông
sản, đảm bảo thực hiện được mục tiêu sản lượng và giải quyết việc làm thông qua
nhiều gói hỗ trợ, như: Gói tín dụng hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, ưu tiên các loại
sản phẩm chiến lược như gạo, cao su, cà phê...; gói tín dụng hỗ trợ bao tiêu, chế
biến nông sản... thông qua hoạt động của các tổng công ty; gói hỗ trợ lao động sản
xuất nông nghiệp [nông dân] về giống, thủy lợi, phân bón... tăng cường thu mua
và dự trữ quốc gia.
Hỗ trợ phát triển mô hình kinh tế hộ tự sản xuất, tự tạo việc làm thông qua
các gói hỗ trợ tín dụng vi mô, chương trình tín dụng việc làm và các chính sách hỗ
trợ khác.
Hỗ trợ các doanh nghiệp đang sử dụng và có khả năng sử dụng nhiều lao
động như dệt may, da dày, chế biến... thông qua các gói hỗ trợ tín dụng ưu đãi,
giảm thuế, hỗ trợ xuất khẩu, hỗ trợ quỹ lương và bảo hiểm, tiền thuê đất...

17

Đầu tư phát triển các công trường lớn mang tính công ích sử dụng nhiều
lao động như: thủy điện, công trình thủy lợi lớn, giao thông lớn,... phát triển mô
hình thanh niên nông thôn đi xây dựng kinh tế mới, thanh niên lập nghiệp.
Ưu tiên đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng cơ sở ở nông thôn như: giao
thông nông thôn, thủy lợi... với mục tiêu tạo việc làm và thu nhập tại chỗ cho
người dân.
Hỗ trợ tăng cường các hoạt động đào tạo nâng cao nguồn nhân lực nông
thôn. Đặc biệt ưu tiên đào tạo lao động xuất khẩu, chuẩn bị để đáp ứng tốt hơn nhu
cầu lao động quốc tế sau khủng hoảng. Hỗ trợ dự án đào tạo nghề cho thanh niên
nông thôn, nông dân và người nghèo thông qua các gói hỗ trợ dạy nghề và nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực...

18

KẾT LUẬN
Lĩnh vực lao động việc làm những năm qua có nhiều đổi mới và thu hút
được những kết quả bước đầu đáng khích lệ.
Trước hết nhận thức về việc làm, hiểu biết về việc làm và cách giải quyết
việc làm cũng như tâm lý về việc làm của người lao động của xã hội đã được thay
đổi tích cực . Tạo và giải quyết việc làm cho lao động xã hội không chỉ là trách
nhiệm của nhà nước mà là trách nhiệm của các cấp các ngành các tổ chức, các gia
đình, bản thân người lao động và của toàn xã hội. Quan điểm nhân dân tự tạo ra
việc làm là chính. Nhà nước tạo ra môi trường kinh tế, pháp luật thuận lợi và hỗ
trợ một phần nguồn lực để nhân dân tự tạo việc làm đã thấm nhuần trong cuộc
sống và trở thành nội lực thúc đẩy sự nghiệp tạo và giải quyết việc làm. Những
năm qua, Đảng và Nhà Nước đã đề ra một loạt chính sách chương trình phát triển
kinh tế xã hội. Trong đó có nhiều chính sách, chương trình tác động trực tiếp đến
việc tạo và giải quyết việc làm cho lao động xã hội như : nghị quyết VI của trung
ương Đảng về chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nông thôn, lập quỹ quốc gia về
giải quyết việc làm, chương trình 327 phủ xanh đất trống đồi trọc, chương trình
773 khai thác mặt nước trồng, bãi bồi. Chính sách giao đất khoán rừng cho nông
dân ổn định, chính sách tín dụng với nông nghiệp nông thôn, phân bố lại lao động
dân cư
Phương hướng quan trọng nhất để giải quyết việc làm thời kỳ này, báo cáo
của ban chấp hành trung ương tại đại hội VIII của đảng đã chỉ rõ nhà nước cùng
toàn dân ra sức đầu tư phát triển, thực hiện tốt kế hoạch và các chương trình kinh
tế xã hội, khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân mọi nhà đầu tư mở
mang ngành nghề, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Mọi công dân đều được
tự do ngành nghề, thuê mướn nhân công theo pháp luật. Phát triển phục vụ việc

19

làm. Tiếp tục phân bố lại dân cư và lao động trên địa bàn cả nước, tăng dân cư trên
địa bàn có chiến lược và kinh tế, an ninh quốc phòng. Mở rộng kinh tế đối ngoại,
đẩy mạnh xuất khẩu lao động, giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và nông
thôn.
Đất nước ta đang trông chờ vào thế hệ trẻ, đặc biệt là cán bộ quản lý kinh tế
trong tương lại, là một sinh viên khoa kinh tế tôi nhận thức được điều này. Phải
luôn trau dồi kiến thức, tận dụng thời gian và nâng cao năng lực để theo kịp với sự
tiến triển của nền kinh tế đất nước đang trong thời kỳ đổi mới, thế giới của sự văn
minh, giàu có và công bằng.

20

Tải về bản full

Video liên quan

Chủ Đề