Tại sao thuốc kháng sinh có thể tiêu diệt được vi khuẩn gây bệnh những không hại tế bào người

Thuốc kháng sinh là cái tên không còn quá xa lạ với tất cả mọi người. Loại thuốc quen mặt này xuất hiện trong điều trị nhiều bệnh lý, từ đơn giản đến phức tạp và có thể mua ở hầu hết mọi nhà thuốc. Tuy nhiên, liệu bạn đã thật sự hiểu rõ về loại thuốc này? Hãy cùng tìm hiểu rõ hơn về lợi ích và nguy cơ mà nó mang lại đối với sức khỏe người bệnh.

1. Tìm hiểu về thuốc kháng sinh

Những thông tin về thuốc kháng sinh sau đây sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về loại thuốc khá quen thuộc này.

Như thế nào được gọi là kháng sinh?

Kháng sinh là những chất có khả năng kháng khuẩn, có nguồn gốc từ các chủng vi sinh vật như: nấm, vi khuẩn, Actinomycetes. Kháng sinh được sử dụng để ức chế, kìm hãm sự phát triển và tiêu diệt các vi sinh vật khác một cách toàn diện. Ngày nay, kháng sinh còn được tạo ra bằng các biện pháp tổng hợp hoặc bán tổng hợp từ các chất hóa học.

Các loại thuốc kháng sinh với công dụng chính chống khuẩn và nấm dễ dàng tìm mua nhiều ở nhà thuốc

Thuốc kháng sinh là gì?

Thuốc kháng sinh là các loại thuốc có tác dụng tiêu diệt các loại vi khuẩn gây nên các bệnh lý nhiễm trùng hay được kết hợp trong việc điều trị một số loại bệnh khác. Các loại thuốc kháng sinh được chế xuất dưới dạng thuốc uống viên nén, dạng lỏng được truyền hoặc tiêm vào cơ thể. Tùy theo nhu cầu của người bệnh để lựa chọn các loại thuốc sử dụng mang đến hiệu quả .

2. Những loại thuốc kháng sinh và tác dụng

Thuốc kháng sinh chống khuẩn

  • Kháng sinh thuộc nhóm Beta-Lactam

Đại diện cho kháng sinh nhóm Beta-Lactam: Kháng sinh nhóm Penicilin, kháng sinh nhóm Cephalosporin. Ngoài ra còn có các loại kháng sinh khác như: nhóm Carbapenem, nhóm monobactam,…

Các loại kháng sinh Penicillin được chỉ định sử dụng cho các bệnh nhân gặp phải các bệnh lý như: nhiễm khuẩn đường hô hấp, nhiễm khuẩn não - màng não, viêm màng trong tim, viêm tai, nhiễm khuẩn đường tiết niệu, nhiễm khuẩn các phần mềm trong cơ thể,… Có tác dụng chống và ngăn ngừa các hiện tượng nhiễm trùng nhẹ do sự tấn công của các loại vi khuẩn khi cơ thể bị tổn thương.

Các loại kháng sinh nhóm Cephalosporin gồm 3 thế hệ: Cefalexin, Cefuroxim, Cefotaxim. Các loại kháng sinh có tác dụng chống các vấn đề liên quan đến nhiễm khuẩn đường hô hấp, nhiễm khuẩn đường tiết niệu, nhiễm khuẩn các mô mềm [tổn thương trên da có mủ hoặc không mủ] và được sử dụng để phòng hiện tượng nhiễm khuẩn trong và sau khi phẫu thuật. Các loại thuốc này còn được sử dụng trong điều trị các bệnh viêm màng não, viêm màng trong tim, bệnh lậu, bệnh thương hàn,...

  • Kháng sinh nhóm Aminoglycosid

Kháng sinh nhóm Aminoglycosid bao gồm các loại như: Kanamycin, Gentamicin, Amikacin, Tobramycin,…

Các loại kháng sinh thuộc nhóm này có tác dụng diệt khuẩn. Tác dụng ức chế sự phát triển của các loại vi khuẩn gram âm, khuẩn tụ cầu, trực khuẩn lao. Thuốc Streptomycin thuộc nhóm này được dùng để điều trị bệnh lao. Ngoài ra, các kháng sinh còn lại có thể được kết hợp với một số loại khác để sử dụng cho những người có bệnh lý về: nhiễm khuẩn huyết, nhiễm khuẩn ngoài da, nhiễm khuẩn tiết niệu, nhiễm trực khuẩn mủ xanh, viêm màng trong tim, viêm màng não,…

  • Kháng sinh nhóm Lincosamid

Nhóm kháng sinh bao gồm 2 loại thuốc chính là: Lincomycin - kháng sinh từ vi sinh vật tự nhiên, Clindamycin - kháng sinh được bào chế qua hình thức bán tổng hợp.

Các kháng sinh thuộc nhóm Lincosamid có chức năng chính là kìm khuẩn do sự ức chế tổng hợp của protein, protein của các vi sinh vật không thể phát triển hoặc hình thành khiến cho hoạt động của các vi sinh vật này bị ngưng trệ, mất khả năng sinh sôi và phát triển. Nhóm thuốc này được chỉ định sử dụng cho người bị nhiễm khuẩn nặng ở đường hô hấp, nhiễm khuẩn ở xương khớp hay bộ phận sinh dục. Bên cạnh đó, còn có tác dụng phòng bệnh viêm màng trong tim, điều trị viêm phổi, áp xe phổi hay các bệnh liên quan đến đến viêm đường sinh dục ở nữ.

Sử dụng kháng sinh trong điều trị bệnh giúp chống lại các tác nhân vi khuẩn gây hại, hạn chế hiện tượng nhiễm trùng, nhiễm khuẩn

Nhóm này có các loại thuốc kháng sinh được sử dụng nhiều như: Erythromycin, Spiramycin,…

Những loại thuốc này có tác dụng tiêu diệt, kìm hãm sự phát triển của nhiều loại vi khuẩn. Thường được sử dụng cho những loại bệnh đã sử dụng Penicillin nhưng không hiểu quả, vi khuẩn kháng lại Penicillin. Các loại thuốc này thường được chỉ định khi điều trị mụn trứng cá, nhiễm khuẩn đường hô hấp, nhiễm khuẩn khu vực mô mềm và da, nhiễm trùng răng miệng, viêm họng, viêm xoang,…

Nhóm kháng sinh gồm 2 loại thuốc chính là: Cloramphenicol và Thiamphenicol.

Cơ chế tác dụng của nhóm này kìm hãm sự phát triển và sinh sôi của vi khuẩn khi ức chế khả năng tổng hợp protein khiến vi khuẩn không thể sinh trưởng được. Các loại thuốc thuộc nhóm này được chỉ định sử dụng cho các bệnh nhiễm khuẩn ở khu vực mắt, tay, ngoài da và ở khu vực âm đạo nữ giới.

Ngoài ra, trên thị trường bạn có thể dễ dàng tìm thấy nhiều loại kháng sinh khác nhau: kháng sinh nhóm Tetracyclin - chỉ định điều trị bệnh mụn trứng cá, sốt rét, bệnh do Brucella; kháng sinh nhóm Quinolon sử dụng cho các trường hợp bị nhiễm khuẩn nặng toàn thân,...

Thuốc kháng sinh chống nấm

Các loại kháng sinh chống nấm thường được sử dụng: Nystatin, Ketoconazol, Griseophunvin,...

Các loại kháng sinh chống nấm có tác dụng diệt nấm kí sinh ở ngoài da và trong niêm mạc như nấm Candida, Trichophyton, Microsporum,… Điều trị một số bệnh nấm kí sinh ở khu vực móng tay, trên da, tóc, kẽ ngón tay, ngón chân,...

3. Tác hại của lạm dụng thuốc kháng sinh

Lạm dụng kháng sinh ảnh hưởng đến sức khỏe người dùng: Tác dụng chính của kháng sinh là diệt khuẩn và nấm chính vì thế nếu lạm dụng sử dụng kháng sinh không đúng cách, liều lượng, tự ý dùng sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người bệnh. Kháng sinh không chỉ diệt các vi khuẩn có hại mà chúng còn có thể ngăn chặn sự phát triển của các vi khuẩn có lợi trong khu vực niêm mạc, lợi, hầu, trong cơ quan tiêu hóa,…

Vì vậy, sử dụng kháng sinh quá nhiều lần gây nên hiện tượng loạn khuẩn, khiến cho các vi khuẩn có lợi bị tiêu diệt, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe. Đối với người cao tuổi sử dụng kháng sinh không đúng cách, sai nguyên tắc còn có thể gây nên các biến chứng nguy hiểm như sốc phản vệ, có thể tử vong nếu như không được cấp cứu kịp thời. Trẻ nhỏ cũng là một trong những đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề nếu dùng kháng sinh sai cách, khiến cho bé dễ bị hen suyễn, sức đề kháng yếu đi,… nên bé khó có thể phát triển khỏe mạnh.

Sử dụng thuốc kháng sinh không đúng theo chỉ định của bác sĩ gây nên hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe của trẻ em và người lớn

Lạm dụng kháng sinh ảnh hưởng đến cộng đồng: Việc sử dụng kháng sinh một cách “dễ dãi”, hễ có bệnh lại đi mua kháng sinh. Không những thế, một người còn sử dụng 2 - 3 loại kháng sinh khác nhau để “giúp” bệnh nhanh khỏi. Điều này có thể dẫn đến hiện tượng, vi khuẩn sinh ra tình trạng kháng kháng sinh, kháng lại tác dụng của thuốc. Một khi vi khuẩn đã phát triển lên đến tình trạng kháng thuốc sẽ dễ dàng lây lan từ người sang người và tạo nên những loại vi khuẩn mới, vô cùng nguy hiểm.

Nếu như vi khuẩn lây lan nhanh mà không tìm được loại thuốc kháng nhanh chóng có thể khiến số lượng người nhiễm khuẩn tăng nhanh nguy hiểm hơn có thể xuất hiện các trường hợp tử vong.

Lạm dụng kháng sinh gây khó khăn trong điều trị bệnh: Một số người tự ý mua và sử dụng thuốc kháng sinh tại nhà, sau một thời gian bệnh không dứt mới lựa chọn đến các cơ sở y tế để kiểm tra. Điều này khiến cho bệnh tình của bệnh nhân có thể trở nên nặng hơn, thời gian phục hồi lâu hơn và cũng đồng thời khiến cho chi phí chữa bệnh trở nên cao hơn. Như vậy, người bệnh không chỉ không “giúp” mình mà còn vô tình tự “hại” bản thân, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe.

Khi có các vấn đề bất thường về sức khỏe hãy đến ngay MEDLATEC để được chẩn đoán và điều trị kịp thời

Vì vậy, nếu gặp bất kỳ vấn đề gì về sức khỏe, bạn hãy đến bệnh viện để được khám, chẩn đoán bệnh và kê thuốc sử dụng an toàn, hiệu quả. Đến với MEDLATEC bạn sẽ được thăm khám và hành kiểm tra sức khỏe dưới sự giúp đỡ và tư vấn của y tá, bác sĩ chuyên khoa giàu kinh nghiệm. Mọi thông tin chi tiết bạn có thể ghé qua trang web của chúng tôi hoặc liên hệ qua số hotline: 1900 565656 để được tư vấn miễn phí bạn nhé!

Việc lạm dụng thuốc kháng sinh đang dẫn đến một cuộc khủng hoảng trên quy mô toàn cầu, khi ngày càng có nhiều chủng vi khuẩn trở nên kháng thuốc. Một trong số những hành động lạm dụng kháng sinh phổ biến nhất là sử dụng nó để điều trị cảm cúm.

Giờ đây, bạn có thể biết rằng kháng sinh chỉ có hiệu quả với vi khuẩn, chứ không phải virus cảm cúm. Nhưng tại sao lại lại như vậy? Lí do nào mà những viên “thần dược” thất bại trong việc trị bệnh gây ra bởi virus? Chúng ta hãy cùng tìm hiểu điều này qua chuyến phiêu lưu vào bên trong cơ thể cùng tiến sĩ Daniel A. Frank, một bác sĩ nội khoa đến từ Trung tâm y học thực hành MedNorthwest, Hoa Kỳ.

Đi tìm những con virus

Tại sao kháng sinh không hiệu quả với virus

Khi còn là một cậu bé, một trong những bộ phim hoạt hình yêu thích của tôi là “Cuộc phiêu lưu vào không gian bên trong cơ thể”. Trong đó, bạn sẽ bước lên một con tàu mà có thể thu nhỏ đến kích thước một phân tử. Một cuộc phiêu lưu tuyệt vời mở ra khi chúng ta đi vào không gian sinh học bên trong cơ thể.

Bây giờ, tôi có thể sử dụng một ý tưởng tương tự để giải thích cho bạn: tại sao thuốc kháng sinh không làm việc với virus. Hãy cùng bước lên tàu và hạ cánh vào bên trong mũi của một ai đó.

Khi con tàu thu nhỏ đến thích thước khoảng vài mm, bạn đã có thể dễ dàng đứng trong mũi của một người trưởng thành. Lúc này, những sợi lông mũi là rất lớn và bạn sẽ cần một cái nút tai để tránh những âm thanh ồn ào trong đầu anh ta.

Tiếp tục thu nhỏ xuống, bạn sẽ thấy các mô bên trong mũi không hề là một tấm phẳng đồng nhất và mịn màng. Chúng được xếp lại từ hàng ngàn tế bào san sát nhau như những viên gạch nhấp nhô. Những tế bào này chính là mục tiêu tấn công của virus cảm lạnh thông thường.

Khi đạt đến cấp độ nhỏ hơn nữa, bạn sẽ nhìn thấy hàng tá vi khuẩn đang tồn tại trên các tế bào. Tuy nhiên, hầu hết các vi khuẩn này hiền lành và vô tội. Một số đang bơi xung quanh niêm mạc mũi với một cái đuôi hình roi, số khác chỉ di chuyển lân cận tại chỗ. Thậm chí, trong số đó có những loại vi khuẩn rất tốt, làm nhiệm vụ ngăn chặn vi khuẩn có hại sinh sôi trong mũi bạn.

Hàng tá vi khuẩn sống trên các tế bào bên trong mũi bạn

Hãy quan sát kỹ những con vi khuẩn, bạn có thể thấy chúng đang sống. Chúng di chuyển, chúng sinh sản, ăn đường và nhả ra khí. Nhưng ngay khi bạn phun vào mũi một loại kháng sinh, chúng sẽ chết.

Bây giờ, hãy đi tìm dấu vết của những con virus, bạn phải tiếp tục thu nhỏ mình xuống. Đến mức độ bạn có thể nhận ra một số tế bào lót trong mũi trông có vẻ bất thường. Chúng có những vết rách trên bề mặt.

Lúc này, bạn chưa thể biết lí do tại sao đâu. Cho đến khi bạn đã đủ nhỏ để nhìn vào bên trong tế bào, lúc này những con virus mới hiện ra trước mắt. Chúng chính là hàng ngàn những hạt nhỏ đang chảy ra từ vết nứt của tế bào.

Kháng sinh không thể tiêu diệt virus vì chúng không hề sống

Các nhà khoa học đôi khi tranh luận về vấn đề liệu virus còn sống hay không. Câu trả lời là chúng không sống.

Hãy tưởng tượng, chúng ta có thể cảm nhận thấy dấu hiệu của sự sống từ một tế bào của con người hoặc vi khuẩn. Các quá trình sinh hóa gây ra những tiếng ồn ào, như động cơ của các tàu vũ trụ trong phim khoa học viễn tưởng. Các phản ứng xảy ra phía trong của tế bào và vi khuẩn chứng minh cho việc chúng đang tiêu thụ năng lượng.

Kháng sinh không thể tiêu diệt virus vì chúng không hề sống

Nhưng đối với virus, bạn sẽ nhìn thấy chúng như những con tàu chết, im lìm, đóng băng và không hoạt động. Virus không di chuyển chủ động, chúng không cho thấy bất kỳ dấu hiệu nào của sự sống. Chúng không ăn uống, không hít thở và không có phản ứng hóa học nào diễn ra cả.

Thuốc kháng sinh tiêu diệt vi khuẩn bằng cách tấn công các quá trình sống của chúng. Mục tiêu của việc phát triển thuốc kháng sinh là tìm ra chất có thể gây rối loạn phản ứng hóa học của vi khuẩn mà không làm hại các tế bào của con người.

Ví dụ như penicilin chống lại sự hình thành của thành tế bào ở vi khuẩn, nhưng không ảnh hưởng đến tế bào con người. Tế bào con người không có thành vì chúng ta có các màng tế bào. Ciprofloxacin khiến cho DNA của vi khuẩn không thể phân chia, nhưng không có tác dụng trên DNA của con người.

Nhưng đối với virus, nếu không có hoạt động nào của sự sống được diễn ra, nếu không có phản ứng hóa học nào được tiến hành, kháng sinh không thể làm bất cứ điều gì.

Virus gây bệnh như thế nào?

Virus trên cơ thể con người giống như người anh em của nó trên máy tính, chỉ đơn giản là tập hợp lệnh chỉ dẫn lưu trữ trên DNA hoặc RNA, thay vì các đoạn code. Các DNA và RNA được bao bọc bởi một lớp vỏ protein bảo vệ.

Khi virus tiếp cận và gắn vào tế bào con người, chúng truyền vào bên trong tế bào một sợi ngắn DNA hoặc RNA. Quá trình này giống như bằng cách nào đó, các DNA đã đi qua được cửa an ninh của sân bay.

Về lý thuyết khi một người lọt qua được cửa an ninh, anh ta được tính là một người tốt. Tế bào con người cũng vậy, chúng coi các DNA ngoại lại này là hiền lành và cơ chế miễn dịch không hoạt động. Cơ thể con người, cùng với hệ miễn dịch, rất giỏi trong việc tấn công các đối tượng ngoại lai khi chúng ở bên ngoài, nhưng một khi đã vào bên trong tế bào, điều tệ hại là chúng được để cho yên ổn.

Tế bào con người lúc này nhận DNA từ virus và bắt đầu làm theo các lệnh hướng dẫn trên đó. Các hướng dẫn này ra lệnh cho tế bào tổng hợp các bản sao của virus và dành tất cả năng lượng chỉ để làm việc này. Chẳng bao lâu, phía bên trong tế bào chứa hàng trăm, nếu không muốn nói đến mức hàng ngàn virus được sao chép. Các virus phá vỡ tế bào và bắt đầu “gõ cửa” các tế bào khác.

Virus giết chết các tế bào như thế nào?

Tuy nhiên, khi virus được giải phóng, hệ thống miễn dịch bắt đầu nhận diện chúng và hoạt động. Những con virus không sống, vì vậy, chúng thụ động, trơ và không chạy trốn. Chỉ có hệ miễn dịch tấn công virus và kháng sinh đơn giản là đứng nhìn điều đó diễn ra vì chúng không tìm thấy mục tiêu sống.

Nếu việc tấn công của hệ miễn dịch là hiệu quả, virus bị giết chết, bạn sẽ khỏi bệnh. Nếu không, chúng sẽ tiếp tục lây lan và phá hủy các tế bào khác. Ở con người, khi có một số lượng tế bào chết nhất định, cơ thể bắt đầu chịu tác động. Bạn có thể bị bệnh hoặc thậm chí tử vong nếu không được điều trị.

Nếu kháng sinh là vô dụng, con người đối phó với virus như thế nào?

Trong khi kháng sinh là vô dụng với virus, con người có một cách tiếp cận tốt hơn là vắc-xin. Vắc-xin có thể ngăn chặn cơ thể bị bệnh bởi nhiễm virus. Một mũi tiêm chứa hàng triệu hạt virus được giảm độc tính, hoặc chỉ gồm bộ phận của nó được đưa vào cơ thể. Hệ miễn dịch sau đó có thể nhận diện, tấn công và tiêu diệt chúng một cách dễ dàng.

Quá trình này giống như một lần tập trận, để khi những con virus thực sự đến, hệ miễn dịch chỉ cần lặp lại đúng những kinh nghiệm mà chúng đã học được để bảo vệ sự khỏe mạnh cho cơ thể.

Một phương pháp khác để chiến đấu với virus là các loại thuốc chống virus. Tất nhiên, chúng không được gọi là kháng sinh. Hãy lấy một ví dụ về virus cúm, chúng rất giỏi trong việc thâm nhập vào bên trong tế bào và ra lệnh sản xuất ra các bản sao.

Tuy nhiên, virus cúm phá vỡ tế bào theo một cơ chế rất riêng. Thay vì sản xuất một số lượng bản sao khổng lồ để làm nổ tế bào, virus cúm đục một lỗ trên màng tế bào để thoát ra ngoài. Chúng mang một enzyme đặc biệt được gọi là neuraminidase, làm công việc khoan thủng màng tế bào.

Hiểu được cơ chế này, con người điều chế ra thuốc Tamiflu. Các phân tử nhỏ hơn của Tamiflu bám vào các khối neuraminidase và làm bất hoạt chúng trong việc xuyên thủng màng tế bào. Từ đó, các virus mới bị giam giữ trong tế bào và không thể lây lan ra khỏi các tế bào khác.

Tamiflu khiến virus cúm không thể thoát ra ngoài tế bào để lây lan

Dựa trên cơ chế này, bạn có thể thấy rõ ràng một loại thuốc chống virus như Tamiflu chỉ hoạt động trên những virus có hành vi sinh học nhất định. Nó vô dụng đối với chống lại các loại virus khác không phải cúm. Đây là điều khác biệt lớn giữa kháng sinh và thuốc chống virus. Thông thường, một loại kháng sinh hiệu quả trên rất nhiều chủng vi khuẩn khác nhau.

Điều gì xảy ra khi bạn uống kháng sinh trong khi bị cảm cúm?

Bây giờ hãy trở lại bên trong mũi của một anh chàng bị cảm cúm. Điều này gây ra bởi một loại virus có tên rhinovirus. Chúng đã tấn công hàng ngàn tế bào lót trong mũi. Tất cả các tế bào này bây giờ đã được huy động năng lượng chỉ để tổng hợp và sản sinh virus. Khi tế bào chứa đủ các virus, chúng sẽ đâm thủng màng tế bào và ào ạt đổ ra ngoài. Khi bệnh nhân hắt hơi, hàng trăm ngàn con virus sẽ phát tán vào không khí.

Lúc này, anh ta nghĩ rằng mình cần một liều kháng sinh. Và loại thuốc hay bị lạm dụng trong trường hợp này nhất là azithromycin, bởi chúng không cần kê theo toa của bác sĩ. Azithromycin là một phân tử đặc biệt. Chúng đi vào bên trong cơ thể vi khuẩn và tìm đến nơi protein được tổng hợp.

Nó liên kết với các cơ quan làm nhiệm vụ tạo ra protein và ngăn chặn quá trình này. Vi khuẩn sau đó không thể tạo ra thứ gì mới, không thể làm thêm bất cứ điều gì và chết dần nếu không có protein.

Các phân tử thuốc Azithromycin nhắm vào mọi loại vi khuẩn có trong mũi, không phân biệt tốt xấu. Nhưng chúng lại để yên cho virus, bởi virus không có cơ quan để tổng hợp protein cho riêng mình. Điều thực sự xảy ra khi bạn điều trị với kháng sinh là các vi khuẩn bị tiêu diệt gọn, còn virus vẫn tiếp tục tồn tại và lây lan.

Tuy nhiên, cảm cúm thông thường sẽ khỏi trong vòng 1 tuần. Nhiều người lầm tưởng đó là tác dụng của kháng sinh. Nhưng không, công lao thuộc về hệ miễn dịch của cơ thể. Ngay khi hệ miễn dịch nhân ra rằng virus là các kẻ xâm lược ngoại lai, các đại thực bào sẽ nuốt và tiêu diệt chúng.

Kết luận

Kháng sinh không có tác dụng trong điều trị cảm cúm do virus

Nói tóm lại, kháng sinh hiệu quả đối với vi khuẩn, bởi nó có khả năng nhận diện và tấn công vào các quá trình sống của chúng. Virus bản thân không có những quá trình sống như trao đổi chất, tự di chuyển. Vì vậy, kháng sinh không thể nhận diện và tìm thấy mục tiêu tấn công.

Tuy nhiên, cơ thể con người có thể sử dụng hệ miễn dịch để chống lại virus. Vắc-xin sẽ giúp cho hệ miễn dịch nhận diện virus và tiêu diệt chúng. Trong khi đó, một số loại thuốc chống virus cũng được phát triển để điều trị các căn bệnh do nhiễm virus.

Mặc dù vậy, các loại thuốc chống virus chỉ có tác dụng điều trị trên một phổ bệnh học hẹp. Một loại thuốc chống virus chỉ có tác dụng với một số loài virus nhất định, không giống như một loại kháng sinh có thể tiêu diệt rất nhiều loại vi khuẩn khác nhau.

Cuối cùng, một điều cần phải nhắc lại rằng kháng sinh không có tác dụng trong điều trị cảm cúm. Sử dụng kháng sinh trong điều kiện này không những là vô ích, nó còn tiêu diệt các loại vi khuẩn có lợi và khiến các loài vi khuẩn gây hại gia tăng khả năng phát triển để trở nên kháng kháng sinh.

Tham khảo Mednorthwest

Video liên quan

Chủ Đề