Tiểu luận triết học nguyên tắc lịch sử cụ the

TRUNG TÂM GIA SƯ GLORY    -    TRUNG TÂM UY TÍN TẠI HẢI PHÒNG.    ĐỊA CHỈ: NGÕ 275 ĐÔNG KHÊ, NGÔ QUYỀN, HẢI PHÒNG


VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN VÀ QUAN ĐIỂM LỊCH SỬ VÀO QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 

   

MỤC LỤC


A. MỞ ĐẦU………………………………………………………………………………2
B. NÔI DUNG……………………………………………………………………………3
1. Cơ sở lý luận về quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử trong phép biện chứng duy vật 1.1. Lý luận chung về quan điểm toàn diện trong phép biện chứng duy vật…………….....3 1.1.1. Khái quát chung về nguyên lý mối liên hệ phổ biến trong phép biện chứng duy vật…3 1.1.2. Nội dung cơ bản nguyên tắc toàn diện trong phép biện chứng duy vật……………..5 1.2. Những nội dung cơ bản của quan điểm lịch sử trong phép biện chứng duy vật………7

2. Vận dụng quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử trong phép biện chứng duy vật vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội vào quá trình đổi mới ở nước ta………..9

2.1. Vận dụng quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử vào phát triển kinh tế xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay………………………………………………………….9 2.2. Những thành quả và hạn chế đạt được trong 35 năm đổi mới của Đảng ta trên lĩnh vực kinh tế - xã hội………………..…………………………………………………………..11

3. Giải pháp về việc vận dụng quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử nhằm phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn hiện nay………………………………………….14


C. KẾT LUẬN…………………………………………………………………….…….15
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………….…….……16     

          Trước thời điểm đổi mới [năm 1986], việc vận dụng quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử đã mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí, nóng vội, bảo thủ và trì trệ; không tuân theo các quy luật khách quan, đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trong xác lập quan hệ sản xuất, chúng ta tuyệt đối hoá vai trò của công hữu, làm cho quan hệ sản xuất chỉ còn tồn tại giản đơn dưới hai hình thức toàn dân và tập thể; kỳ thị, nóng vội xoá bỏ các thành phần kinh tế khác, không chấp nhận các hình thức sở hữu hỗn hợp, sở hữu quá độ; xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân một cách ồ ạt, dẫn đến lực lượng sản xuất không phát triển, tình trạng trì trệ kéo dài, sản xuất đình đốn, đời sống người dân gặp nhiều khó khăn. Nền kinh tế tăng trưởng thấp và thực chất không có phát triển.           Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã xác định phải đổi mới toàn diện đất nước.          Đại hội VIII của Đảng [năm 1996] đưa ra nhận định nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, chỉ rõ hơn quan niệm về chặng đường đầu tiên và chặng đường tiếp theo của thời kì quá độ, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Xác định đổi mới kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, kiên trì định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân coi phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu. Đại hội lần thứ 10 của Đảng [4-2006] một lần nữa rút ra bài học “đổi mới toàn diện toàn bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn, từ kinh tế, chính trị, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lí của Nhà nước đối với hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị. Đổi mới tất cả các mặt của đời sống xã hội nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm và có những bước đi thích hợp, bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa 3 nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hóa – nề tảng tinh thần của xã hội.           Qua 35 năm đổi mới việc vận dụng quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sự cụ thể vào công cuộc đổi mới ở nước ta đã có nhiều thành công đáng kể trong việc phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn hiên nay. Ngày nay với nền kinh tế hội nhập kinh tế quốc tế, đã cho thấy được việc vận dụng đúng đắn và hợp lý về quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể trong cuông cuộc đổi mới kinh tế - xã hội hiện nay có vai trò đặt biệt quan trong trong công cuộc đổi mới hiện nay.

1.1. lý luận chung về quan điểm toàn diện trong phép biện chứng duy vật
1.1.1. Khái quát chung về nguyên lý mối liên hệ phổ biến trong phép biện chứng duy vật
a. Khái niệm liên hệ, mối liên hệ
          Khái niệm liên hệ. Trong khi cùng tồn tại, các đối tượng luôn tương tác với nhau, qua đó thể hiện các thuộc tính và bộc lộ bản chất bên trong, khẳng định mình là những đối tượng thực tồn. Sự thay đổi các tương tác tất yếu làm đối trượng, các thuộc tính của nó thay đổi, và trong một số trường hợp có thể làm nó biến mất, chuyển hóa thành đối tượng khác. Sự tồn tạo của đối tượng, sự hiện hữu các thuộc tính của nó phụ thuộc vào các tương tác giữa nó với các đối tượng khác, chứng tỏ rằng, đối tượng có liên hệ với các tối tượng khác. Vậy mối liên hệ là gì?           “Mối liên hệ” là một phạm trù của triết học dùng để chỉ các mối ràng buộc tương hỗ, quy định và các yếu tố ảnh hưởng lần nhau với các yếu tố, bộ phận trong một đối tượng hoặc giữa các đối tượng với nhau. Cũng có thể quan hệ dùng để chỉu khái niệm “quan hệ”, nhưng khái niệm quan hệ rông hơn “liên hệ”. Liên hệ chỉ quan hệ giữa hai đối tượng nếu thay đổi của một trong số chúng nhất định làm đối ttượng kia thay đổi. Chẳng hạn, vậ động của vật thể có liê hệ hữu cơ với khối lượng của nó, bởi sự thay đổi vận tốc vận động tất yếu làm khối lượng của nó thay đổi; các sinh vâth đều có liên hệ với môi trường bên ngoài: những thay đổi của môi trường làm tất yếu làm cơ thể có sự thay đổi tương ứng; công cụ lao động có mối liên hệ với đối tượng lao động: những thay đổi của công cụ lao động gây ra những thay đổi xác định trong đối tượng lao động mà các công cụ đó tác động nên, đến lượt mình biến đổi của đối tượng lao động tất yếu gây ra những biến đổi ở các công cụ lao động…

b. Các tính chất của mối liên hệ


          Tính khách quan của mối liên hệ. Theo quan điểm biện chứng duy vật, các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới là có tính khách quan. Theo quan điểm đó, sự quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau và làm chuyên hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng [hoặc trong bản thân chúng] là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý chí của con người; con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình. Tính phổ biến của mối liên hệ. Theo quan điểm biện chứng thì không có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác. Đồng thời, cũng không có bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trúc hệ thống, bao gồm những yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất cứ một tồn tại nào cũng là một hệ thống, hơn nữa là hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau. Tính đa dạng của các mối liên hệ. Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ được thể hiện ở chỗ: mỗi sự vật, hiện tượng đều có nhiều mối liên hệ khác nhau [bên trong và bên ngoài, trực tiếp và crián tiếp, cơ bản và không cơ bản… chúng giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại, phát triển của sự vật đó; đồng thời, mỗi mối liên hệ đó lại có những biểu hiện phong phú khác nhau trong những điều kiện cụ thể khác nhau…

Bài học phương pháp luận của nguyên lí mối liên hệ phổ biến:
Quan điểm toàn diện. 
Thứ nhất, khi nghiên cứu, xem xét đối tượng cụ thể, cần đặt nó trong chỉnh thể thống nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, các mối liên hệ của chỉnh thể đó. Thứ hai, chủ thể phải rút ra được các mặt, các mối liên hệ tất yếu của đối tượng đó và nhận thức chúng trong sự thống nhất hữu cơ nội tại, bởi chỉ có như vậy, nhận thức mới có thể phản ánh được đầy đủ sự tồn tại khách quan với nhiều thuộc tính, nhiều mối liên hệ, quan hệ tác động qua lại của các đối tượng. Thứ ba, cần xem xét đối tượng này trong mối liên hệ với đối tượng khác và với môi trường xung quanh, kể cả các mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp; trong không gian, thời gian nhất định, tức cần nghiên cứu cả những mối liên hệ của đối tượng trong quá khứ, hiện tại và phán đoán cả tương lai của nó. Thứ tư, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, một chiều, chỉ thấy mặt này mà không thấy mặt khác; hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét dàn trải, không thấy mặt bản chất của đối tượng nên dễ rơi vào thuật ngụy biện [đánh tráo các mối liên hệ cơ bản thành không cơ bản và ngược lại] và chủ nghĩa chiết trung [lắp ghép vô nguyên tắc các mối liên hệ trái ngược nhau vào một mối liên hệ phổ biến].
1.1.2. Nội dung của nguyên tắc toàn diện trong phép biện chứng duy vật           Nguyên tắc toàn diện trong hoạt động trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn là một trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng của phép biện chứng duy vật. Cơ sở lí luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lí về mối liên hệ phổ biến. Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi, muốn nhận thức được bản chất của sự vật, hiện tượng chúng ta phải xem xét sự tồn tại của nó trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, yếu tố, thuộc tính khác nhau trong tính chỉnh thể của sự vật, hiện tương ấy và trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với sự vật, hiện trong khác, tránh cách xem xét phiến diện, một chiều. Nguyên tắc toàn diện đồi hỏi phải xem xét, đánh giá tìmg mặt, tùng mối liên hệ, và phải nắm được đâu là mối liên hệ chủ yếu, bản chất quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện trong tránh chủ nghĩa chiết trung, kết hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ; tránh sai lầm của thuật nguy biện, coi cái cơ bản thành cái không cơ bản, không bản chất thành bản chất hoặc ngược lại, dẫn đến sự nhận thức sai lệch, xuyên tạc bản chất sự vật, hiện tượng.           Trong nhận thức, nguyên tắc toàn diện là yêu cầu tất yếu của phương pháp tiếp cận khoa học, cho phép tính đến mọi khả năng của vận động, phát triển có thể có của sự vật, hiện tượng đang nghiên cứu, nghĩa là cần xem xét sự vật, hiện tượng trong một chính thể thống nhất với tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, cùng các mối liên hệ của chúng. Muốn thực sự hiểu được sự vật, cân phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp của sự vật đó, phải tính đến “tổng hoà những quan hệ muôn vẻ của sự vật ấy với những sự vật khác. Tuy nhiên, cũng theo VI. Lênin, chúng ta không thể làm được điều đó hoàn toàn đầy đủ, nhưng sự cần thiết phải xem xét tất cả mọi mặt sẽ để phòng không phạm sai lầm và cứng nhắc. Sở dĩ chúng ta không làm được điều đó hoàn toàn đầy đủ bởi trong quá trình vận động, phát triển, sự vật, hiện tượng phải trải qua nhiều giai đoạn tồn tại, phát triển khác nhau, trong mỗi giai đoạn đó không phải lúc nào sự vật, hiện tượng cũng bộc lộ tất cả các mối liên hệ bến trong và bên ngoài của nó. Hơn nữa, tất cả những mối liên hệ ấy chỉ được biểu hiện ra trong những điều kiện nhất định. Và bản thân con người, những chủ thể nhận thức với những phẩm chất và năng lực của mình luôn bị chế ước bởi những điều kiện xã hội lịch sử, do đó không thể bao quát được hết những mối liên hệ bên trong và bên ngoài sự vật, hiện tượng. Nguyên tắc toàn diện còn đòi hỏi, để nhận thức được sự vật, hiện tượng chúng ta cần xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. Mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng với nhu cầu của con người rất đa dạng. Trong mỗi hoàn cảnh nhất định, con người chỉ phản ánh một số mối liên hệ nào đó của sự vật, hiện tượng phù hợp với nhu cầu nhất định của mình, nên nhận thức của con người về sự vật, hiện tượng mang tính tương đối, không đầy đủ, trọn vẹn. Nắm được điều đó sẽ tránh tuyệt đối hoá những tri thức đã có về sự vật, hiện tượng và tránh coi những tri thức đã có là những chân lí bất biến, tuyệt đối, cuối cùng về sự vật, hiện tượng mà không bổ sung, phát triển. Bởi vậy, khi xem xét toàn diện tất cả các mặt của những mối quan hệ của sự vật, hiện tượng phải chú ý đến sự phát triển cụ thể của các quan hệ đó. Chỉ có như vậy mới thấy được vai trò của các mặt trong từng giai đoạn cũng như của toàn bộ quá trình vận động, phát triển của từng mối quan hệ cụ thể của sự vật, hiện tượng. Theo VI, Lênin, phép biện chứng đòi hỏi người ta phải chú ý đến tấ cả các mặt của những mối quan hệ trong sự phát triển cụ thể của những mối quan hệ đó, chứ không phải lấy một mẩu ở chỗ này, mộtmẩu ở chỗ kia. Như vậy, xem xét toàn diện nhưng không bình quân, dàn đểu" mà có trọng tâm, trọng điểm”, phải tìm ra vị trí từng mặt, từng yếu tố, từng mối liên hệ ấy trong tổng thể của chúng, phải từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật, hiện tượng để khái quát, rút ra mối liên hệ chủ yếu nhất, bản chất nhất, quan trọng nhất chi phối sự tồn tại và phát triển của chúng.

1.2. Những nội dung cơ bản của quan điểm lịch sử trong phép biện chứng duy vật

          Nguyên tắc lịch sử - cụ thể cung là một trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, trong quá trình hoạt động nhận thức và thực tiễn. Đặc trưng cơ bản của nguyên tắc này là xem xét sự hình thành, tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng trong điều kiện, môi trường cụ thể, hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Điểm xuất phát của ngiuyên tắc lịch sử cụ thể là sự tồn tại vận động, phát triển của sự vật hiện tượng trong không gian, thời gian cụ thể. Không gian, thời gian, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể khác nhau thì có mối liên hệ và hình thức phát triển của sự vật, hiện tượng cũng khác nhau. Bởi vậy, không chỉ nghiên cứu chúng trong các không gian, thời gian, điều kiện, hoàn cảnh- cụ thể khác nhau.           Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mỗi sự vật hiện tượng đều có quá trình, phát triển và diệt vong của mình và quá trình đó thể hiện trong tính cụ thể, ao gồm mọi sự vật thay đổi và phát triển diễn ra trog điều kiện, hoàn cảnh khách nhau trog không gian và thời gian khác nhau. Bởi vậy, nghiên tắc lịch sử cụ thể đòi hỏi để nhận thức đầu đủ về sự vật hiện tượng, chúng ta cần phải xem xét sự vật hiện tượng đó trong quá trình phát sinh, phát triển, chuyền hóa trong các hình thức biểu hiện, với những bước quanh co, với những ngẫu nhiên gây tác động lên quá trình tồn tại của sự vật, hiện tượng trong không gian và thời gian cụ thể; gắn liền với điều kiện hoàn cảnh cụ thể mà trong đó các sự vật, hiện tượng tồn tại. Nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong sự vật động và phát triển trong từng giai đoạn cụ thể của nó; biết phân tích tình hình cụ thể trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn là yếu tố quan trọng nhất trong các yếu tố của nội dung nguyên tắc lịch sử - cụ thể. Nguyên tắc lịch sử cụ thể được Lênin nêu rõ và cô đọng, “xem xét mỗi vần đề theo quan điểm sau đây: một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, hiện tượng đó trải qua những giai đoạn chủ yếu nào, và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để xem xét hiện nay nó trở thành như thế nào”. Bản chất của nguyên tắc này nằm ở chổ, trong quá trình nhận thức sự vật, hiện tượng, trong sự vận động, trong sự chuyển hóa qua lại của nó, phải tái tạo lại được những sự phát triển của sự vật, hiện tượng ấy, sự vận động của chính nó, đời sống của chính nó. Nhiệm vụ của nguyên tắc lịch sử - cụ thể là tái tạo sự vật, hiện tượng xuyên qua lăng kính của những ngẫu nhiên lịch sử, những bước quanh co, những gián đoạn theo trình tự không gian và thời gian. Nét quan trọng nhất của nguyên tắc lịch sử - cụ thể là mô tả sự kiện cụ thể theo trình tự nghiêm ngặt của sự hình thành sự vật, hiện tượng. Giá trị của nguyên tắc này là ở chỗ, nhờ đó mà có thể phản ánh được sự vận động lịch sử phong phú và đa dạng của các hình thức biểu hiện cụ thể của sự vật, hiện tượng để qua đó, nhận thức, được bản chất của nó.           Nguyên tắc lịch sử - cụ thể yêu cầu phải nhận thức được vận động có tính phổ biến, là phương thức tồn tại của vật chất, nghĩa là phải nhận thức được sự vận động, làm cho sự vật, hiện tượng xuất hiện, phát triển theo những quy luật như định và hình thức của vận động quyết định bản chất của nó, phải chỉ rõ được những giai đoạn cụ thể mà nó đã trải qua trong quá trình phát triển của mình; phải biết phân tích mối tình hình cụ thể trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiền thì mới có thể hiểu, giải thích được những thuộc tính, những mối liên hệ tất yếu, những đặc trưng chất và lượng vốn có của sự vật, hiện tượng.           Nguyên tắc lịch sử – cụ thể không chỉ yêu cầu nhận thức những thay đổi diễn ra trong sự vật, hiện tượng, nhận thức những trạng thái chất lượng thay thế nhau, mà còn yêu cầu chỉ ra được các quy luật khách quan quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, quy định sự tồn tại hiện thời và khả năng chuyển hoá thành sự vật, hiện tượng mới thông qua sự phủ định; chỉ ra được rằng, thông qua phủ định của phủ định, sự vật, hiện tượng mới là sự kế tục sự vật, hiện tượng cũ; là sự bảo tồn sự vật, hiện tượng cũ trong dạng đã được lọc bỏ, cải tạo cho phù hợp với sự vật, hiện tượng mới. Như vậy, chỉ khi đã tìm được mối liên hệ khách quan, tất yếu giữa các trạng thái chất lượng, tạo nên lịch sử hình thành và phát triển của sự vật, hiện tượng đang nghiên cứu, tạo nên các quy luật quy định sự tồn tại và chuyển hoá của nó, quy định giai đoạn phát triển này sang giai đoạn pháttriển khác cho tới trạng thái chín muồi và chuyển hoá thành trạng thái khác, hay thành các mặt đối lập của nó, thì mới có thể giải thích các đặc trưng chất lượng và số lượng đặc thù của nó, nhận thức được bản chất của nó.           Nguyên tắc lịch sử - cụ thể còn đòi hỏi phải xem xét các sự vật, hiện tượng trong các mối liên hệ cụ thể của chúng. Việc xem xét các mặt, các mối liên hệ cụ vong của chúng cho phép nhận thức đúng đắn bản chất của các sự vật, hiện tượng thể của sự vật, hiện tượng trong quá trình hình thành, phát triển cũng như diệt và từ đó mới có định hướng đúng cho hoạt động thực tiễn của con người. Đối với việc nghiên cứu quá trình nhận thức, nguyên tắc lịch sử - cụ thể cũng đòi hỏi phải tính đến sự phụ thuộc của quá trình đó vào trình độ phát triển của xã hội, trình độ phát triển của sản xuất và các thành tựu khoa học trước đó.           Sự kiện tuy có vai trò quan trọng đối với nguyên tắc lịch sử – cụ thể và đối với các nguyên tắc khác nói chung, nhưng nguyên tắc lịch sử – cụ thể không kết hợp các sự kiện đơn lẻ, mô tả các sự kiện, mà tái hiện sự kiện, chi ra mối liên hệ nhân quả giữa các sự kiện với nhau, khám phá quy luật và phân tích ý nghĩa và vai trò của chúng tạo nên bức tranh khoa học về các quá trình lịch sử.           Nhận thức sự vật, hiện tượng theo nguyên tắc lịch sử - cụ thể là cần thấy các mối liên hệ, sự biến đổi của chúng theo thời gian, cũng như trong những không gian tồn tại khác nhau của mỗi mặt, mỗi thuộc tính, đặc trưng của sự vật, hiện tượng, tránh khuynh hướng giáo điều, chung chung, trừu tượng không cụ thể. Mặt khác, cũng cần đề phòng khuynh hướng tuyệt đối hoá tính cụ thể, không thấy sự vật, hiện tượng trong cả quá trình vận động, biến đổi. Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải vừa thấy tính cụ thể, vừa thấy cả quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng là điều tất yếu.

2. Vận dụng quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử trong phép biện chứng duy vật vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội vào quá trình đổi mới ở nước ta.


2.1. Vận dụng quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử vào phát triển kinh tế xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay           Bước vào thời kì đổi mới [từ đại hội VI năm 1986] Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận ra được nhiều hạn chế trong các hoạt động nhận thức và chỉ đạo trước đó của mình. Nguyên nhân là chưa biệt vận dụng, hoặc là vận dụng một cách giáo điều máy móc học thuyết Mác – Lênin, tư tường Hồ Chí Minh và các quan điểm trên [quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử]. Thay đổi đầu tiên diễn ra từ trong nhận thức, Đảng ta đã ý thức được sâu sắc rằng, cách mạng là sáng tạo, chân lý cụ thể. Nguyên tắc “phân tích cụ thể trong một tình hình cụ thể” như là bản chất là kinh hồn của chủ nghĩa Mác đã được tích cực vận dụng như một nguyên tắc phương pháp luận khoa học trong hoạt động lý luận và thực tiễn của Đảng. Đảng nhấn mạnh hơn nhiều đến sự cần thiết phải nắm vững các nguyên tắc và phương pháp luận biện chứng duy vật vào phân tích, đánh giá thực tiễn, phải thấm nhuần nguyên tắc toàn diện và nguyên tắc lịch sử cụ thể trong nghiên cứu, nhận định tính hình phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, công tác lý luận, khoa học, giáo dục, để vận dụng tốt hơn vào xây dựng đấy nước.           Vận dụng nguyên tắc toàn diện và nguyên tắc lịch sử cụ thể của trong phép biện chứng duy vật đã giúp đất nước chúng ta đạt được những thành tựu trong quá trình đổi mới kinh tế - xã hội. Vận dụng phương pháp luận biện chứng của chủ nghĩa duy vật về quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể Đảng đã đổi mới tư duy lý luận về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Bắt đầu từ đại hội VI [1986] Đảng ta đã đề ra phương hướng đổi mới toàn diện và dần hoàn thiện qua các kì đại hội đại hội đổi đường lối đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hóa, nhiều thành phần, cho phép và khuyến khích kinh tế tư nhân, cá thể phát triển, chủ ý đảm bảo hợp lý lợi ích cá nhân làm động lực trực tiếp cho phát triển kinh tế, điều chỉnh cơ cấu kinh tế vĩ mô, sắp xếp lại các lĩnh vực và khu vực sản xuất chính, có chính sách biến đổi dịch vụ sản xuất kinh doanh và đời sống là đời sống thành một bộ phận quan trọng trong cơ cấu kinh tế, do đất nước đã xây dựng được nền kinh tế có cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp – dịch vụ tương đối hợp lý, gắn liền với trong nước và thị trường quốc tế.           Từ những yếu kém, không thành công do nhiều nguyên nhân khác nhau của nền công nghiệp hóa trước khi đổi mới, Đảng ta đã nhận thức rõ hơn về tính tất yếu, mô hình, mục tiêu, của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Công nghiệp hóa là sự chuyển đổi cản bản, toàn diện các hoạt động kinh tế xã hội từ sử dụng công cụ lao động đơn giản là chính sang dùng công nghệ lao động có công nghệ cao với phương tiện và phương pháp sản xuất tiên tiến, hiện đại có khả năng vượt trội. Đó là quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhằm cải biến xã hội nông nghiệp lạc hậu nước ta thành xã hội công nghiệp, hiện đại hoá.           Vận dụng quan điểm lịch sử - cụ thể từ năm 1930, Đảng ta đã lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Ngày nay để xây dựng thành công chủ nghĩ xã hội, Đảng ta đã đề ra đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, hiệu quả và bên vững; thực hiện tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội, bảo vệ cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế xã hội tăng cường quốc phòng an ninh; bảo vệ và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.           Đặc biệt, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội [bổ sung, phát triển năm 2011] đã nhấn mạnh mối quan hệ “giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa” là một trong tám mối quan hệ lớn cần nắm vững và giải quyết tốt. Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kì quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một đất nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh hạnh phúc. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội cũng nhấn mạnh vai trò của khoa học công nghệ; Khoa học công nghệ giữ vai trò then chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nên kinh tế. Phát triển khoa học công nghệ nhằm mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế tri thức, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Phát triển nền kinh tế thị trường trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta , trong cương lĩnh này khẳng định; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thưc sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh, và hình thức tổ chức phân phối; các thành phần kinh tế cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế tập thể không ngững củng cố và phát triển.       Đại hội XII tiếp tục xác định “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường”.           Trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, Đảng đã từng bước áp dụng các nguyên tắc biện chứng duy vật cơ bản vào phân tích nguyên nhân yếu kém trong công tác này, nêu một số vấn đề có tính phương pháp luận là: việc xây dựng Nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa cần phải gắn với củng cố chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa và mở rộng dân chủ phù hợp với các điều kiện chuyển đổi nến kinh tế. Phải luôn chăm lo phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam ở mọi cấp chính quyền, bởi vì Đảng là của giai cấp công nhân, đồng thời của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam. Do vậy, vấn đề xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng luôn được đặt lên vị trí hàng đầu trong bất kì hoàn cảnh nào Đảng cũng phải kiên định những nguyên tắc lí luận phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để phân tích tình hình, vận dụng sáng tạo để ra chủ trương, đường lối, chính sách sát hợp với hoàn cảnh cụ thể của đất nước trong giai đoạn hiện nay.           Vận dụng nguyên tắc lịch sử - cụ thể để giải quyết thoả đáng vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân và kết nạp người làm kinh tế tư nhân vào Đảng. Ở đây rõ ràng là phải có cách tiếp cận toàn diện. Một mặt, Đảng kiên trì nguyên tắc đảng viên phải là người lao động, không bóc lột, một khác, Đảng đã xem xét các điều kiện cụ thể, tính đến những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn để cho phép và hướng dẫn, tạo điều kiện cho đảng viên làm người làm kinh tế tư nhân giỏi, giải quyết việc làm cho người lao động, mang lại lợi ích cho xã hội, làm giàu chính đáng cho bản thân, tuân thủ pháp luật, gia nhập Đảng Cộng sản.

2.2. Những thành quả và hạn chế đạt được trong 35 năm đổi mới của Đảng ta trên lĩnh vực kinh tế xã hội


2.2.1. Những thành quả đạt được
          Quy mô nền kinh tế tăng nhanh. Trong suốt 35 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới [1986 - 1990], mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4% thì giai đoạn 1991 - 1995, GDP bình quân đã tăng gấp đôi, đạt 8,2%/năm; các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao; giai đoạn 2016 - 2019 đạt mức bình quân 6,8%. Mặc dù năm 2020, kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19 nhưng tốc độ tăng GDP của Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực, thế giới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ USD/năm thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 268,4 tỷ USD/năm. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt, năm 1985 bình quân thu nhập đầu người mới đạt 159 USD/năm thì đến năm 2020 đạt khoảng 2.750 USD/năm. Những nỗ lực đổi mới trong 35 năm qua đã giúp cho môi trường đầu tư liên tục được cải thiện, nhờ đó đã thu hút ngày càng nhiều hơn vốn đầu tư cho phát triển. Tính riêng năm 2019, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành đạt 2.046,8 nghìn tỷ đồng; tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài [FDI] đạt 38,02 tỷ USD, cao nhất trong vòng 10 năm lại đây. Năm 2020, trong bối cảnh đại dịch Covid-19, Việt Nam vẫn là một điểm đến tin cậy cho các nhà đầu tư với tổng vốn FDI đạt 28,5 tỷ USD. Ngoài ra, tại Việt Nam đã hình thành các vùng kinh tế trọng điểm để làm động lực cho phát triển kinh tế vùng, miền và cả nước; phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp tập trung nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển, đồng thời hình thành các vùng chuyên môn hóa cây trồng, vật nuôi gắn với chế biến công nghiệp... Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển mạnh mẽ.
          Phát triển gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa - xã hội. Trong suốt quá trình 35 năm đổi mới, việc tăng trưởng kinh tế đã cơ bản gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa, xây dựng con người, tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Từ chỗ Nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm đã dần chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần kinh tế và người lao động đều tham gia tạo việc làm; từ chỗ không chấp nhận có sự phân hóa giàu - nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo. Công tác giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng. Tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 22% năm 2005; 9,45% năm 2010, 7% năm 2015 và còn dưới 3% năm 2020 [theo chuẩn nghèo đa chiều].       Quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển, cơ sở vật chất được nâng cao, chất lượng đào tạo từng bước đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực. Nhiều chỉ số về giáo dục phổ thông của Việt Nam được đánh giá cao trong khu vực, như: Tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99% [đứng thứ 2 trong khu vực ASEAN sau Singapore]; tỷ lệ học sinh đi học và hoàn thành chương trình tiểu học sau 5 năm đạt 92,08%, đứng ở tốp đầu của khối ASEAN. Vị thế các trường đại học của Việt Nam đã được nâng lên trong bảng xếp hạng châu Á và thế giới, năm 2019 xếp thứ 68/196 quốc gia trên thế giới, tăng 12 bậc so với năm 2018. Lần đầu tiên, Việt Nam có 4 cơ sở giáo dục đại học được vào top 1.000 trường đại học tốt nhất thế giới. Việt Nam đang là điểm đến được lựa chọn của nhiều sinh viên quốc tế trong những năm gần đây. Năng lực của hệ thống các cơ sở y tế được củng cố và phát triển. Nhờ đó, người dân dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ y tế hơn. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế cũng được chú trọng đầu tư, đáp ứng tốt hơn nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân… Việt Nam là một trong số ít quốc gia có hệ thống y tế hoàn chỉnh, tổ chức rộng khắp tới tận thôn, bản; làm chủ được nhiều kỹ thuật công nghệ cao mang tầm thế giới như: ghép chi, tim, gan, thận...; kiểm soát được nhiều dịch bệnh nguy hiểm, trong đó có Covid-19; chủ động sản xuất được nhiều loại vắcxin phòng bệnh, mới đây nhất là vắcxin phòng Covid-19...Bên cạnh đó, công tác bảo đảm an sinh xã hội luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm thực hiện. Đến nay, diện thụ hưởng chính sách an sinh xã hội ngày càng mở rộng, mức hỗ trợ được nâng lên, đời sống vật chất và tinh thần của người dân, đặc biệt là người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số.
Hội nhập quốc tế sâu rộng, vị thế ngày càng được nâng cao. Trong35 năm đổi mới cũng là một chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức. Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế; tích cực xây dựng Cộng đồng ASEAN 2015 và hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo cam kết WTO. Đến nay, đã có 71 quốc gia công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường, trong đó có các đối tác thương mại lớn của Việt Nam. Từ khi gia nhập WTO đến nay, Việt Nam đã ký kết 15 FTA khu vực và song phương và đang đàm phán 2 FTA với các đối tác khác. Các FTA mà Việt Nam tham gia có độ phủ rộng hầu hết các châu lục với gần 60 nền kinh tế có tổng GDP chiếm gần 90% GDP thế giới, trong đó có 15 nước thành viên G20 và 9/10 đối tác kinh tế - thương mại lớn nhất của Việt Nam thuộc 3 trung tâm kinh tế lớn nhất thế giới là Bắc Mỹ, Tây Âu và Đông Á. Do đó, việc tham gia và thực thi các FTA sẽ mang lại những cơ hội lớn cho Việt Nam, tác động tích cực tới phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm... Việt Nam cũng là thành viên chủ động, tích cực và có trách nhiệm cao trong các tổ chức quốc tế. Việt Nam đã tham gia vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á [ASEAN], Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương [APEC], các tổ chức của Liên hợp quốc... đóng góp tích cực và đang trở thành nước có vị thế và vai trò ngày càng cao ở khu vực, được cộng đồng quốc tế tôn trọng. Bên cạnh đó, Việt Nam đã được tín nhiệm bầu vào các cơ quan quan trọng của Liên hợp quốc, như: Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014 - 2016, Ủy ban Di sản Thế giới của UNESCO nhiệm kỳ 2013 - 2017, Hội đồng kinh tế - xã hội của Liên hợp quốc [ECOSOC] nhiệm kỳ 2016 – 2018. Đặc biệt, năm 2020, Việt Nam cùng lúc đảm nhận 3 trọng trách: Ủy viên không Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN và Chủ tịch AIPA. Trong bối cảnh vô cùng khó khăn của đại dịch Covid-19 và những thiệt hại nặng nề do thiên tai bão lũ... song Việt Nam đã hoàn thành tốt cả ba trọng trách, góp phần nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.

2.3. Những hạn chế còn tồn đọng


          Thứ nhất, quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa diễn ra chậm, nhất là nhận thức về bản chất và nguyên tắc vận hành của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nên đã tạo ra sự thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán và những bất cập trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường; do vậy, chưa huy động được tối đa tiềm lực để phát triển kinh tế. Mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội chưa được xử lý phù hợp, rõ ràng, minh bạch. Thứ hai, tăng trưởng kinh tế còn chậm, chưa bền vững, vẫn ở dưới mức tiềm năng, lực lượng sản xuất chưa được giải phóng triệt để, năng suất lao động thấp, khả năng cạnh tranh quốc tế chưa cao. Thứ ba, việc phân bổ các nguồn lực cho phát triển còn dàn trải, lãng phí, chưa công bằng, chưa đem lại hiệu quả cao; vấn đề phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội, tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng; đời sống vật chất và tinh thần của một bộ phân dân cư, nhất là nông dân ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa chậm được cải thiện, ít được hưởng lợi từ thành quả tăng trưởng chung của nền kinh tế. Yếu tố vật chất được đề cao, yếu tố tinh thần, đạo đức có lúc, có nơi bị xem nhẹ. Do vậy, đã xuất hiện những biểu hiện của chủ nghĩa vị kỷ, cá nhân, coi trọng đồng tiền, xem thường truyền thống đạo lý, tác động xấu tới đời sống xã hội.
3. Giải pháp về việc vận dụng quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử nhằm phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn hiện nay           Từ quan điểm toàn diện trong nhận thức, chúng ta rút ra cách nhìn đồng bộ trong hoạt động thực tiễn. Theo đó, muốn cải tạo sự vật, hiện tượng phải áp dụng đồng bộ một hệ thống các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động làm thay đổi các mặt, các mối liên hệ tương ứng của sự vật, hiện tượng. Song trong từng bước, từng giai đoạn phải nắm đúng khâu trọng tâm, then chốt để tập trung lực lượng giải quyết. Trước đây, trong giai đoạn cách mạng dân tộc, dân chủ, trên cơ sở phân tích toàn diện bản chất xã hội Việt Nam là thuộc địa, nửa phong kiến, Đảng ta chỉ rõ hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, mà trước hết là nông dân với giai cấp địa chủ, phong kiến. Trong đó, mâu thuẫn giữa nhân dân với để quốc xâm lược và bọn tay sai phản bội dân tộc là mâu thuẫn chủ yếu, cần tập trung lực lượng giải quyết, sau đó giải quyết các mâu thuẫn khác. Nhờ đó, cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giành thắng lợi trọn vẹn. Ngày nay, trong quá trình lãnh đạo đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở nhấn mạnh tính tất yếu phải đổi mới cả lĩnh vực kinh tế và linh vực chính trị, Đảng ta luôn xác định phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Thực tiễn quá trình đổi mới vừa qua đã chứng minh tính đúng đắn của những quan điểm đó.           Trong mọi hoạt động cần quán triệt nguyên tắc toàn diện. Việc nghiên cứu trong các ngành khoa học tự nhiên không tách rời nhau, ngược lại phải trong môi liên hệ với nhau, thâm nhập vào nhau. Có nhiều sự vật, hiện tượng đòi hỏi phải có sự nghiên cứu liên ngành giữa các khoa học. Trong lĩnh vực xã hội, nguyên tắc toàn diện cũng có vai trò quan trọng. Chúng ta không thể hiểu được bản chất một hiện tượng xã hội nếu tách nó ra khỏi những mối liên hệ, những sự tác động quả lại với các hiện tượng xã hội khác. Trong thời kì đẩy mạnh công cuộc đổi mới của đất nước hiện nay, nếu không phân tích toàn diện những mối liên hệ tác động sẽ không đánh giá đúng tình hình và nhiệm vụ cụ thể của đất nước trong từng giai đoạn cụ thể, và do vậy sẽ không đánh giá hết những khó khăn, những thuận lợi trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xác định “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”[14]. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.


Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn. Xây dựng và thực thi pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia. Xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số; hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mô hình kinh doanh mới. Tập trung sửa đổi những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, cản trở phát triển kinh tế. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền, ủy quyền gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm cá nhân và nâng cao trách nhiệm phối hợp giữa các cấp, các ngành.
C. KẾT LUẬN Những thành tựu của 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới đã tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo. Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong đó việc vận dụng quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử trong giai đoạn hiện nay có vai trò đặt biệt quan trong trong thời kì cách mạng công nghiệp 4.0, với nền kinh tế hội nhập quốc tế cùng nhau phát triển hiện nay. Có thể thấy được sự phát triển của đất nước trong 35 năm đổi mới nhất là đại hội VI [1986] về đổi mới toàn diện đánh dấu về sự cải cách toàn diện trên mọi mặt của đời sống con người với việc lấy phát triển kinh tế - xã hội là trong tâm thì trong những năm qua cho ta thấy được những thành công đáng kể.      

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. Giáo trình Triết học Mác – Lênin
[2]. Tạp chí kinh tế - xã hội, bài báo về tăng trưởng kinh tế trong hơn 30 năm
[3]. Tạp chí kinh tế, bài báo phát triển xã hội trong thời kì công nghiệp hóa hiện đại hóa              

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Video liên quan

Chủ Đề