Tóm tắt Truyện Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga Trạng 113

Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga - Nguyễn Đình Chiểu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.93 KB, 5 trang )

(1)

LỤC VÂN TIÊN CỨU KIỀU NGUYỆT NGA


(Trích Truyện Lục Vân Tiên - Nguyễn Đình Chiểu)


1. Truyện Lục Văn Tiên là truyện Nôm bằng thơ lục bát được Nguyễn Đình Chiểu sáng tác vào
đầu những năm 50 của thế kỉ XIX, trước khi Pháp xâm lược nước ta. Truyện có sử dụng một số chi
tiết trong tiểu sử của Nguyễn Đình Chiểu, nhưng khơng phải là một tự truyện của tác giả. Truyện
Lục Vận Tiên có cốt truyện và kết cấu gần với mơ hình chung của các truyện thơ Nơm trong văn
học Việt Nam (xem tóm tắt cốt truyện ở SGK, trang 112-113).


Ngồi hai nhân vật chính là Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga, nhân vật của truyện cịn khá
đơng đảo, được phân thành hai phía đối lập: chính nghĩa và phi nghĩa. Ở phía chính nghĩa, ngồi hai
nhân vật chính là Vân Tiên, Nguyệt Nga, cùng với những nho sĩ như Hớn Minh, Tử Trực, cịn có
đơng đảo những người lao động như ơng Ngư, ông Quán, tiểu đồng, bà lão dệt vải. Đối lập với họ
là những kẻ phi nghĩa, bất nhân như Trịnh Hâm, Bùi Kiệm, cha con Võ Công, Thái sư, bọn cướp.
Trong truyện cũng xuất hiện những nhân vật siêu nhiên như Phật Bà Quan Âm, Sơn thần đứng về
phía chính nghĩa, cứu giúp những người bị hoạn nạn. Truyện đề cao đạo lí trung hiếu tiết nghĩa, ca
ngợi tinh thần vĩ nghĩa, mang đậm tính nhân dân, thể hiện ước mơ về chính nghĩa chiến thắng, cái
ác bị trừng trị theo quan niệm dân gian. Truyện Lục Vân Tiên rất được ưa chuộng trong cư dân Nam
Bộ, được sử dụng phổ biến vào sinh hoạt văn hố dân gian dưói các hình thức như: kể thơ, "nói
thơ...


Đoạn trích Lục Vân Tiện cứu Kiều Nguyệt Nga nằm ở phần đầu của truyện. Trên đường lên kinh
dự thi, Lục Vân Tiên ghé về nhà thăm cha mẹ, giữa đường gặp bọn cướp hồnh hành, một mình
chàng tả xung hữu đột đánh tan bọn cướp, cứu được Kiều Nguyệt Nga.


2.Lục Vân Tiên là một nhân vật lí tưởng theo quan niệm thẩm mĩ trong văn học truyền thống và
cũng là quan niệm của dân gian. Chàng thanh niên mới tuổi vừa đôi tám, tài kiêm văn võ, hăm hở
vào đời, muốn lập công danh sự nghiệp, gặp tình huống bất bằng này là một thử thách đầu tiên,
cũng là một cơ hội hành động để chàng thể hiện tinh thần của người quân tử giữa đường thấy sự bất
bằng chẳng tha.




(2)

Tiên, tác giả đã so sánh vói hình ảnh dũng tướng Triệu Tử Long phá vòng vây ở Đương Dang trong
truyện Tam quốc diễn nghĩa rất nổi tiếng của Trung Quốc.,


Trong cảnh đánh cướp, hình ảnh của Lục Vân Tiên được khắc hoạ nổi bật ở sức mạnh, uy dũng
của người anh hùng, thì ở cảnh tiếp theo, nhân vật lại được tô đậm ở vẻ đẹp của tinh thần trọng
nghĩa, vĩ nghĩa, ở lòng nhân ái. Động cơ đánh cướp của Vân Tiên là vì thương xót nhân dân phải
bồng bế nhau chạy loạn: Kêu rằng: Bớ đảng hung đồ - Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân. Đánh
xong lũ cướp, điều mà Vân Tiên quan tâm là tiếng than khóc ở trong xe. Chàng hỏi: Ai than khóc
ở trong xe nầy?. Trong câu hỏi ấy thể hiện một sự quan tâm sẵn sàng giúp đỡ. Thấy hai cơ gái cịn
chưa hết bàng hồng, Vân Tiên tìm cách an ủi để họ yên lòng: Ta đã trừ dòng lâu la. Khi nghe họ
nói muốn được lạy tạ ơn, Vân Tiên đã khước từ. Chàng không muốn nhận cái lạy tạ ơn ciủa hai cơ
gái, từ chối lịi mời ghé thăm nhà của Nguyệt Nga để cha nàng đền ơn (ở đoạn sau chàng từ chối
nhận chiếc trâm vàng của Nguyệt Nga). Đối với Vân Tiên, làm việc nghĩa là một bổn phận, một lẽ
tự nhiên, như chàng đã nói: Làm ơn há dễ trơng ngưịi trả ơn. Chàng nói thế và hành động đúng
như thế khơng chỉ ở đoạn này mà cịn trong tồn truyện. Đây là con ngưịi mà quan niệm và hành
động thống nhất hồn tồn, tất cả tốt lên vẻ đẹp nghĩa khí, hào hiệp, một hình ảnh lí tưởng trong
quan niệm thẩm mĩ của nhân dân.


3.Nếu Vân Tiên là hình mẫu của vẻ đẹp nghĩa hiệp thì Nguyệt Nga là một hình mẫu của vẻ đẹp
đoan trang, trọng ân nghĩa, thuỷ chung.


Đối vói Vân Tiên, nàng tự xưng - một cách khiêm nhường: chút tôi, tiện thiếp, đồng thời gọi
Vân Tiên là quân tử một cách trân trọng: Trước xe .quân tử tạm ngồi - Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ
thưa. Mọi lời lẽ, cử chỉ của Nguyệt Nga đều toát lên vẻ đoan trang, sự khiêm nhường, trọng lễ
nghĩa.


Nổi bật ở Nguyệt Nga là lòng biết ơn, sự coi trọng ân nghĩa. Vói nàng, ơn nghĩa của Vân Tiên
là cái ơn trọng, khơng chỉ là ơn cứu mạng, mà cịn cứu cả cuộc địi trong trắng của nàng. Vì thế,
nàng rất áy náy, băn khoăn tìm cách trả ơn, dù hiểu rằng có đền đáp mấy cũng là chưa đủ. Trước


hết, nàng muốn bày tỏ lòng biết ơn bằng cách lạy tạ, rồi tha thiết mòi Vân Tiên ghé qua nhà để cha
nàng được đền ơn, cuối cùng nàng muốn tặng chiếc trâm để tỏ lòng tri ân. Tất cả những đề nghị đó,
đều khơng được Vân Tiên chấp thuận. Chính điều đó càng làm cho Nguyệt Nga cảm động và nàng
đã tự nguyện gắn bó địi mình vói Vân Tiên, vẽ bức hình chàng và ln mang theo bên mình, dám
liều mình để vượt qua mọi thế lực ngăn cản để giữ trọn lịng thuỷ chung với chàng. Nguyệt Nga là
hình ảnh mẫu mực về vẻ đẹp của con người trọng ân nghĩa, thuỷ chung, tiết hạnh, chinh phục được
tình cảm yêu mến của nhân dân.



(3)

đẽ, theo lí tưởng thẩm mĩ của tác giả, củng là của dân gian. Đoạn trích thể hiện tinh thần đề cao đạo
lí, chính nghĩa, thơng qua những hình tượng đẹp, có sức hấp dẫn với đông đảo công chúng.


I- LUYỆN TẬP
Bài tập


1.Qua cách miêu tả chị em Thuý Kiều trong đoạn trích Chị em Thuý Kiều (trích Truyện Kiều
-Nguyễn Du), anh/chị hiểu thế nào là bút pháp ước lệ?


4.Nhận xét về cách sử dụng từ láy của Nguyễn Du ở đoạn thơ tả cảnh lễ hội và cảnh chị em
Thuý Kiều trở về trong đoạn trích Cảnh ngày xuân.


1.Qua đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, hãy nhận xét về bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn
Du.


2.Phân tích hành động đánh bọn cướp, cứu dán lành của Lục Vân Tiên để làm rõ quan niệm về
người anh hùng của Nguyễn Đình Chiểu:


Hãy chứng minh nhận định: Nhớ câu kiến nghĩa bất vi,


Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.



3.Qua đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga, Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng hai
nhân vật lí tưởng, tiêu biểu cho quan niệm đạo lí và quan niệm thẩm mĩ của nhân dân.


Gợi ý


1.Bút pháp ước lệ rất phổ biến trong văn học trung đại. Qua đoạn thơ tả chị em Thuý Kiều, có
thể nêu lên hai đặc điểm chính của bút pháp ước lệ:


- Khơng miêu tả trực tiếp, cụ thể, mà chỉ gọi tả về thần thái, đặc điểm của đối tượng, để người
đọc tự hình dung, tưởng tượng về đối tượng miêu tả. Vì thế, bút pháp ước lệ thường sử dụng thủ
pháp so sánh, ẩn dụ, tượng trưng trong miêu tả chứ không dùng cách tả thực.


- Sử dụng những hình mẫu, khn mẫu đã có trong từ chương sách vở để miêu tả, diễn đạt.
Chẳng hạn, cái đẹp của con người được đối sánh vói vẻ đẹp của thiên nhiên, coi thiên nhiên là mẫu
mực của cái đẹp.


HS làm rõ những đặc điểm trên của bút pháp ước lệ qua việc miêu tả Thuý Vân, Thuý Kiều ở
đoạn thơ. Chẳng hạn, vẻ đẹp của Thuý Vân được gợi tả bằng những hình ảnh tượng trưng tà thiên
nhiên, như: khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang, hoa cười, ngọc thốt, mây (thua nước tóc), tuyết
{nhường màu da). Cịn vẻ đẹp đơi mắt Thuý Kiều thì được hình dung gọi tả bằng hai hình ảnh: làn
thu thuỷ, nét xuân sơn. Tài năng của Thuỹ Kiều cũng là "pha nghề thi hoạ, đủ mùi ca ngâm, theo
mẫu mực toàn diện của người xưa: cầm, kì, thi, hoạ.



(4)

(HS tìm và ghi lại các từ láy, cả tính từ và động từ, chú ý sự khác biệt của các từ láy khi miêu tả
cảnh lễ hội và cảnh chị em Thuý BCiều ra về).


Các từ láy tính từ, động từ ở đoạn miêu tả cảnh lễ hội đều thể hiện sự tấp nập, đông đúc của
cảnh và tâm trạng náo nức, phấn chấn của những người đi lễ hội: nô nức, sắm sửa, dập dìu, ngổn
ngang. Cịn những từ láy ở đoạn miêu tả cảnh chị em Thuý Kiều trở về thì lại diễn tả sự chậm rãi
của mọi hoạt động, cả thiên nhiên và con ngưòi, cùng với tâm trạng bâng khuâng, lưu luyến của


người đi lễ hội trở về: tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao, nho nhỏ.


3.Tả cảnh ngụ tình là một thủ pháp quen thuộc trong văn chương, nhất là trong văn học trung
đại. Nguyễn Du cũng vận dụng khá phổ biến và rất thành công bút pháp này trong Truyện Kiều mà
đoặn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích là một ví dụ mẫu mực.


HS tham khảo mục Củng cố và mở rộng kiến thức ở trên để làm rõ đặc sắc trong bút pháp tả
cảnh ngụ tình của Nguyễn Du. cần chú ý, mỗi cảnh đều được tác giả chọn lọc rất kĩ để vừa có chức
năng tái hiện khung cảnh khơng gian quanh lầu Ngưng Bích vừa thể hiện tình cảnh và tâm trạng của
nhân vật (nỗi buồn và tình cảnh cơ đơn ở sáu câu thơ đầu, nỗi buồn và tình cảnh bơ vơ, tâm trạng lo
âu ngày một tăng tiến thể hiện ở tám câu thơ cuối).


4.Cần giải thích ý nghĩa của hai câu thơ thể hiện quan niệm về người anh hùng của tác giả.
Kiến nghĩa bất vi nghĩa là thấy việc nghĩa mà khộng làm, như thế khơng phải ngưịi anh hùng.
Câu này vốn có nguồn gốc từ quan niệm của nhà nho: Kiến nghĩa bất vi, vô dũng dã (nghĩa là:
thấy việc nghĩa mà khơng làm thì khơng phải là kẻ có dũng khí). Nguyễn Đình Chiểu đã đem đến
cho câu châm ngôn ấy một ý nghĩa khái quát hơn, coi làm việc nghĩa là phẩm chất của người anh
hùng. Cách nói phủ định: Làm người thế ấy cũng phi anh hùng tạo sự nhấn mạnh, khẳng định làm
việc nghĩa là phẩm chất nhất thiết phải có của người anh hùng.


Quan niệm về người anh hùng như trên đã được minh chứng trong hành động đánh cướp, cứu
dân của Lục Vân Tiên ở phần đầu đoạn thơ trích, cần làm rõ phẩm chất anh hùng của nhân vật qua
việc phân tích các khía cạnh của sự việc ấy, mục đích hành động đánh cướp của Lục Vân Tiên như:
tương quan lực lượng giữa Vân Tiên một mình, tay khơng với bọn cướp đơng đảo, hung hăng đầy
đủ vũ khí. Quyết định hành động rất mau lẹ, dứt khoát của Lục Vân Tiên khi chứng kiến cảnh dân
lành bị bọn cướp làm hại; dũng khí, sức mạnh của Vân Tiên trong trận đánh, sự thất bậi mau chóng
của bọn cướp...


5.Hai nhân vật Vân Tiên và Nguyệt Nga đều được xây dựng theo bút pháp lí tưởng hố, nhưng
các nhân vật ấy khơng khơ cứng, xa lạ vói người đọc, vì đều thể hiện tập trung quan niệm đạo lí và


quan niệm thẩm mĩ của nhân dân, cũng chính là quan niệm của Nguyễn Đình Chiểu.



(5)