Trong học tập và giảng dạy hình thức đa phương tiện nào thường được sử dụng vi sao

Trong học tập và giảng dạy hình thức đa phương tiện thường được sử dụng để giúp cho học sinh và sinh viên học tập hiệu quả hơn bằng cách bao gồm nhiều loại tài liệu khác nhau, chẳng hạn như video, âm thanh, hình ảnh và văn bản. Điều này có thể giúp học sinh và sinh viên học tập theo cách mà họ thích nhất và có thể hiểu được nội dung một cách tốt nhất. Ngoài ra, hình thức đa phương tiện cũng có thể giúp học sinh và sinh viên học tập một cách tích cực hơn bởi vì họ có thể lựa chọn cách học tập phù hợp với mình.

I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC

1.1. Một số khái niệm cơ bản

1.1.1. Phương tiện dạy học

Theo Từ điển tiếng Việt thì ”Phương tiện là cái dùng để làm một việc gì, để đạtmột mục đích nào đó” và ”Thiết bị là tổng thể nói chung những máy móc, dụng cụ,phụ tùng cần thiết cho một hoạt động nào đó” [Từ điển tiếng Việt]Cho đến nay, trong giáo dục nói chung và trường học nói riêng đã và đang sử dụng một số thuật ngữ khác nhau khi nói về phương tiện, thiết bị phục vụ cho quátrình dạy học như: cơ sở vật chất, phương tiện dạy học, thiết bị dạy học, thiết bị trườnghọc, dụng cụ học tập, giáo cụ trực quan, đồ dùng dạy học, tài liệu, học liệu v.v... Trong đó có thể hiểu:

- Cơ sở vật chất bao gồm phòng thí nghiệm, vườn trường, phòng học, bàn ghế,các thiết bị kĩ thuật phục vụ các hoạt động của nhà trường như máy tính, máy in, máyphotocopy, máy ảnh ...

- Phương tiện dạy học là toàn bộ những trang thiết bị, đồ dùng, dụng cụ được sửdụng phục vụ trực tiếp cho việc giảng dạy và học tập trong nhà trường. Ví dụ: hệ thống tăng âm, loa, micro; ti vi và các đầu đọc VIDEO, VCD, DVD; các loại máychiếu phim dương bản, máy chiếu qua đầu, máy chiếu đa phương tiện, máy vi tính; cácloại tranh, ảnh, tranh giáo khoa, bản đồ, bảng biểu; các loại mô hình, vật thật; các dụng cụ, thiết bị thí nghiệm; máy móc, thiết bị, dụng cụ dạy học thực hành v.v...

Đôi khi,người ta coi tất cả các phương tiện kể trên cũng thuộc về cơ sở vật chất của trường học. Có lẽ sử dụng khái niệm theo Từ điển Bách khoa Việt Nam là thích hợp hơn cả:”

Phương tiện dạy học [còn gọi là đồ dùng dạy học, thiết bị dạy học] là một vật thể hoặc một tập hợp các vật thể mà giáo viên sử dụng trong quá trình dạy học để nâng cao hiệu quả của quá trình này, giúp học sinh lĩnh hội khái niệm, định luật,... hìnhthành các tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, thái độ cần thiết” [Từ điển Bách khoa Việt Nam]. Xét theo nghĩa hẹp, giữa ”thiết bị” và ”phương tiện” có điểm giống và khác nhau, trong đó ”thiết bị” có nội hàm hẹp hơn và thường để chỉ có một phương tiện kĩ thuậtnào đó. Tuy nhiên, trong thực tế người ta thường sử dụng hai thuật ngữ này với cách hiểu như nhau.

1.1.2. Đa phương tiện

Đa phương tiện là một hệ thống kĩ thuật dùng để trình diễn các dữ liệu và thôngtin, sử dụng đồng thời các hình thức chữ viết, âm thanh, hình ảnh, động hình [qua hệ thống computer]; trong đó tạo khả năng tương tác giữa người sử dụng và hệ thống. Trên quan điểm công nghệ, dạy học với đa phương tiện là loại hình công nghệ kép, bao gồm công nghệ về tổ chức quá trình nhận thức và công nghệ về phương tiện kĩ thuật dạy học. Hai công nghệ thành phần này phải được kết hợp với nhau theo quan điểm hệ thống, nghĩa là chúng phải tạo thành một hệ toàn vẹn trong sự tương tác lẫnnhau.

1.2. Phân loại

Có nhiều cách phân loại khác nhau tùy thuộc vào tiêu chí, dấu hiệu phân loại khác nhau. Dưới đây xin giới thiệu một số cách phân loại phương tiện dạy học.

1.2.1. Theo tính chất của phương tiện dạy học

Theo tính chất, phương tiện dạy học được chia ra hai nhóm: phương tiện mang tin và phương tiện truyền tin.

- Nhóm phương tiện mang tin là nhóm mà tự bản thân mỗi phương tiện đều chưađựng một khối lượng tin nhất định. Đó là các loại như tài liệu in, băng đĩa âm thanh hoặc cả âm thanh và hình ảnh, tranh vẽ, phim ảnh, mô hình, vật thật v.v...

- Nhóm phương tiện truyền tin là nhóm phương tiện được dùng để truyền tin tớihọc sinh như hệ thống tăng âm, loa, micro; ti vi và các đầu đọc VIDEO, VCD, DVD; các loại máy chiếu phim dương bản, máy chiếu qua đầu, máy chiếu đa phương tiện,máy vi tính v.v...

1.2.2. Theo cách sử dụng phương tiện dạy học

Theo cách sử dụng, có thể chia phương tiện dạy học ra các loại:

- Phương tiện được dùng trực tiếp để dạy học, gồm hai loại nhỏ:

+ Phương tiện dạy học truyền thống: là những phương tiện đã được dùng từ xưatới nay trong dạy học như tranh vẽ, mô hình, vật thật,…

+ Phương tiện dạy học hiện đại: là những phương tiện dạy học mới được đưa vàonhà trường như camera số, máy chiếu đa phương tiện,…

- Phương tiện được dùng để chuẩn bị và điều khiển lớp học, gồm các loại như:

+ Phương tiện hỗ trợ: giá đặt phương tiện, thiết bị ánh sáng,...

+ Phương tiện ghi chép, in ấn,...

1.2.3. Theo mức độ chế tạo phương tiện dạy học

Cách chia này căn cứ theo một số tiêu chí về cấu tạo, vật liệu, giá thành, tuổi thọcủa thiết bị, chia ra hai loại:

- Chế tạo đơn giản: cấu tạo đơn giản, vật liệu chế tạo rẻ tiền, giá thành thấp,thường có tuổi thọ ngắn.

- Chế tạo phức tạp: đòi hỏi sự thiết kế, chế tạo công phu, vật liệu đắt tiền, cấu tạo phức tạp, giá thành cao, sử dụng tiện lợi và tuổi thọ cao v.v...

1.3. Vai trò của phương tiện trong quá trình dạy học

1.3.1. Vai trò chung

Khoa học và công nghệ ngày càng phát triển thì phương tiện dạy học cũng ngàycàng trở thành yếu tố quan trọng, có ảnh hưởng lớn tới chất lượng và hiệu quả của quá trình dạy học. Đặc biệt, trong các môn học thuộc ngành khoa học tự nhiên thì cónhững nội dung sẽ không thể thực hiện được nếu thiếu phương tiện dạy học. Trước đây, khi đề cập tới các thành tố của quá trình dạy học thường chỉ chú trọng tới 3 thành phần là mục đích, nội dung và phương pháp dạy học. Ngày nay, do sự phát triển về chất, quá trình dạy học được xác định gồm 6 thành tố là: mục đích [hẹp hơn làmục tiêu], nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học, hình thức tổ chức dạy học vàkiểm tra đánh giá. Các thành tố này có quan hệ tương tác hai chiều lẫn nhau [Hình1.1].Mục đích DHNội dung DHPhương phápDHPhương tiệnDHTổ chức DHKiểm tra - đánhgiá kết quả DHHình 1.1: Mối quan hệ giữa các thành tố của quá trình dạy họcTrong sơ đồ trên, nếu xét về phương diện nhận thức thì phương tiện dạy học vừalà cái để học sinh “trực quan sinh động”, vừa là phương tiện để giúp quá trình nhậnthức được hiệu quả.Nghiên cứu về vai trò của phương tiện dạy học, người ta còn dựa trên vai trò củacác giác quan trong quá trình nhận thức và đã chỉ ra rằng:- Kiến thức thu nhận được qua các giác quan theo tỉ lệ: 1% qua nếm, 1,5% quasờ; 3,5% qua ngửi, 11% qua nghe, 83% qua nhìn [Tô Xuân Giáp].

- Tỉ lệ kiến thức nhớ được sau khi học: 20% qua những gì mà ta nghe được; 30% qua những gì mà ta nhìn được; 50% qua những gì mà ta nghe và nhìn được; 80% qua những gì mà ta nói được; 90% qua những gì mà ta nói và làm được [Tô Xuân Giáp].- Cũng theo Tô Xuân Giáp, ở Ấn độ, người ta cũng tổng kết: tôi nghe – tôi quên;tôi nhìn – tôi nhớ; tôi làm – tôi hiểu. Những số liệu trên cho thấy, để quá trình nhận thức đạt hiệu quả cao cần phải thông qua quá trình nghe – nhìn và thực hành. Muốn vậy, phải có phương tiện [thiết bị,công cụ] để tác động và hỗ trợ.

1.3.2. Vai trò đối với giáo viên

- Hỗ trợ hiệu quả cho giáo viên trong quá trình tổ chức các hoạt động nhận thứccho người học bởi đảm bảo quá trình dạy học được sinh động, thuận tiện, chính xác.

- Rút ngắn thời gian giảng dạy mà vẫn bảo đảm người học lĩnh hội đủ nội dunghọc tập một cách vững chắc.

- Giảm nhẹ cường độ lao động của giáo viên, do đó nâng cao hiệu quả dạy học.

1.3.3. Vai trò đối với người học

- Kích thích hứng thú học tập cho người học, tạo điều kiện thuận lợi cho quátrình lĩnh hội kiến thức của người học.

- Giúp người học tăng cường trí nhớ, làm cho việc học tập được lâu bền.

- Là phương tiện giúp người học hình thành và rèn luyện các kĩ năng, kĩ xảo cảthao tác trí tuệ lẫn thao tác vật chất. Cung cấp thêm kiến thức, kinh nghiệm trực tiếp liên quan đến thực tiễn xã hội và môi trường sống.

1.4. Yêu cầu đối với phương tiện dạy học

Để thực hiện tốt vai trò của mình, phương tiện phải đáp ứng được một số yêucầu dưới đây:

- Phù hợp với nội dung chương trình, giáo trình, phương pháp dạy học mới vàkhả năng lĩnh hội của người học;
- Đảm bảo tính nhân trắc học;
- Dễ sử dụng, đảm bảo độ tin cậy cao, chắc chắn, có độ bền cao;
- Kích thước, màu sắc phù hợp;
- Đảm bảo an toàn trong vận chuyển, bảo quản, sử dụng;
- Đảm bảo tính kinh tế;
- Có tài liệu hướng dẫn cụ thể.

1.5. Sử dụng phương tiện dạy học theo hướng tích cực hóa người học

1.51. Nguyên tắc sử dụng phương tiện dạy học

a] Đảm bảo an toàn:

Đây là một nguyên tắc quan trọng khi sử dụng thiết bị dạy học. Các thiết bị dạy học được sử dụng phải an toàn với các giác quan của học sinh,đặc biệt khi sử dụng các thiết bị nghe nhìn. Do vậy, trong quá trình sử dụng, giáo viêncần chú ý một số vấn đề an toàn như: an toàn điện, an toàn cho thị giác, an toàn cho thính giác …

b] Đảm bảo nguyên tắc 3Đ: đúng lúc, đúng chỗ và đủ cường độ.

- Nguyên tắc sử dụng phương tiện dạy học “Đúng lúc”4Sử dụng đúng lúc phương tiện dạy học là việc trình bày phương tiện vào lúc cần thiết, lúc học sinh cần được quan sát, gợi nhớ kiến thức, hình thành kĩ năng trongtrạng thái tâm, sinh lí thuận lợi nhất [trước đó, GV đã dẫn dắt, gợi mở, nêu vấn đềchuẩn bị].Việc sử dụng phương tiện dạy học đạt hiệu quả cao nếu được giáo viên đưađúng thời điểm nội dung và phương pháp dạy học cần đến. Cần đưa phương tiện theotrình tự bài giảng, tránh trưng bày đồng loạt trên bàn, giá, tủ trong một tiết học cũngnhư biến lớp học thành một phòng trưng bày.
- Nguyên tắc sử dụng phương tiện dạy học “Đúng chỗ”Sử dụng phương tiện dạy học đúng chỗ là tìm vị trí để giới thiệu phương tiệntrên lớp học hợp lí nhất, giúp cho học sinh có thể sử dụng nhiều giác quan nhất để tiếpxúc với phương tiện một cách đồng đều ở mọi vị trí trong lớp học. Vị trí trình bày phương tiện phải đảm bảo các yêu cầu chung cũng như riêngcủa nó về chiếu sáng, thông gió và các yêu cầu kĩ thuật đặc biệt khác. Các phương tiện phải được giới thiệu ở những vị trí đảm bảo tuyệt đối an toàn cho giáo viên và học sinh trong và ngoài giờ dạy. Đồng thời phải bố trí sao cho không làm ảnh hưởng tới quá trình làm việc, học tập của các lớp khác. Phải bố trí chỗ để phương tiện dạy học tại lớp sau khi dùng để không làm phân tán tư tưởng của học sinh khi tiếp tục nghe giảng.
- Nguyên tắc sử dụng phương tiện dạy học “Đủ cường độ”.Từng loại phương tiện có mức độ sử dụng tại lớp khác nhau. Nếu kéo dài việctrình diễn hoặc dùng lặp lại một loại phương tiện quá nhiều lần trong một buổi giảng,hiệu quả của chúng sẽ giảm sút. Theo số liệu của các nhà sinh lí học, nếu như mộtdạng hoạt động được tiếp tục trên 15 phút thì khả năng làm việc sẽ giảm sút rất nhanh. Nên sử dụng phương tiện nghe nhìn không quá 3 đến 4 lần trong một tuần và kéo dài không quá 20 - 25 phút trong một tiết học.

c] Đảm bảo tính hiệu quả

Bảo đảm tính hệ thống, đồng bộ và trọn vẹn về nội dung dạy học [sử dụng kết hợp nhiều loại phương tiện dạy học một cách có hệ thống, đồng bộ và trọn vẹn; các phương tiện dạy học không mâu thuẫn, loại trừ nhau. Phù hợp với đối tượng học sinh; với nhân trắc và tiêu chuẩn Việt Nam.Bảo đảm sự tương tác trong hệ thống dạy học"Nói hay chưa phải là dạy, chỉ xem chưa phải là học”. Nói đến tương tác là nói đến sự “hợp tác”, “cộng tác”, tác động qua lại giữa giáo viên, học sinh với các thành tố của quá trình dạy học. Phương tiện dạy học dù có hiện đại đến đâu thì bản thân nó cũng không thể thaythế được vai trò của giáo viên mà trước hết là phương pháp dạy học của họ. Ngược lại,5phương pháp dạy học của giáo viên cũng lại chịu sự qui định của điều kiện, phương tiện dạy học cụ thể. Vì vậy, giữa các yếu tố nội dung, phương tiện, phương pháp dạyhọc có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau và với chủ thể học tập [người học]. Mối quan hệ đó chính là sự “tương tác” chủ yếu giữa các yếu tố của hệ thống dạy học. Sự tương tác đa chiều này tạo nên hiệu quả, chất lượng của quá trình dạy học.

1.5.2. Cách sử dụng một số loại hình phương tiện dạy học

a] Tranh giáo khoa

Tranh giáo khoa là loại thiết bị đơn giản, gọn nhẹ, dễ sử dụng. Nó được thiết kế theo những ý tưởng sư phạm và được thẩm định chặt chẽ. Hình vẽ được thiết kế cẩn thận, đẹp. Mầu sắc hài hòa và thể hiện được những yếu tố cần nhấn mạnh. Để sử dụng có hiệu quả tranh vẽ, cần chú ý tới một số yếu tố sau đây: Sử dụng theo hướng coi tranh giáo khoa là “nguồn” thông tin: theo cách này, thay vì dùng tranh giáo khoa để minh họa cho lời giảng của mình, giáo viên dùng nó như một nội dung học tập và được thiết kế dưới dạng một hoạt động dạy học. Khi đó,người học sẽ được quan sát, được hướng dẫn quan sát và biết rõ cần trả lời câu hỏi gìsau khi quan sát. Tùy thuộc vào đặc điểm của người học mà giáo viên có thể yêu cầungười học ở các mức độ tìm tòi khác nhau như mô tả, liệt kê, so sánh, phân tích, tìmtòi từng phần, sáng tạo với sự trợ giúp hợp lí từ phía giáo viên.Động hóa các tranh tĩnh: tranh giáo khoa thường là tranh tĩnh và chứa đầy đủthông tin về đối tượng học tập. Trong quá trình mô tả [người dạy, người học] thườngtrình bày sự “động” trong các đối tượng tĩnh.

Điều này dẫn tới nhiều nội dung ngườihọc khó hình dung về hoạt động của đối tượng được phản ánh. Để cho sinh động và dễhiểu hơn, có một giải pháp là tách những đối tượng “động” ra khỏi tranh vẽ tĩnh bằngcách cắt những miếng bìa thay thế cho các đối tượng “động” và có thể thao tác đượcvới nó trong quá trình mô tả hay trình bày đối tượng kỹ thuật. Ví dụ: tranh vẽ về hệthống đánh lửa dùng ắc qui có 2 chi tiết chuyển động quay tròn khi hoạt động [cam ngắt điện, thanh quét trong bộ chia điện] và một chi tiết chuyển động đóng mở [tiếp điểm]. Theo giải pháp này, 3 chi tiết đó không được vẽ vào tranh mà được thay thế bằng các miếng bìa cứng và được gán vào phần tĩnh của tranh bởi các nam châm. Khi GV hay người học mô tả “cam ngắt điện quay dẫn tới tiếp điểm mở, vừa lúc đó thanhquét quay tới gần cực bên của bộ chia điện...”thì có thể tương tác trực tiếp với nhữngđối tượng đó cho phù hợp với sự mô tả.Tăng cường đàm thoại: hướng dẫn người học tìm hiểu cấu tạo hoặc nguyên lí làm việc của thiết bị được vẽ trong tranh bằng các câu hỏi gợi mở. Ví dụ khi dạy về cấu tạo chung của động cơ, giáo viên có thể hướng dẫn người học tìm hiểu cấu tạođộng cơ trong giáo trình và đặt các câu hỏi như: tại sao bánh răng trục cam lại lớn gấpđôi bánh răng trục khuỷu; tại sao động cơ điezen không có hệ thống đánh lửa v.v...6Kết hợp với hình vẽ trên bảng: trong trường hợp cần thiết có thể vẽ các hìnhđơn giản trên bảng để minh họa hoặc giải thích hình vẽ [có cấu tạo phức tạp, nhỏ]trong tranh hoặc yêu cầu người học so sánh, phân tích….

b] Mô hình

Khắc phục được hạn chế của tranh giáo khoa, mô hình thể hiện được yếu tốđộng và không gian ba chiều của đối tượng học tập. Sử dụng mô hình sẽ rất hiệu quả khi giới thiệu về cấu tạo, cấu trúc, mối quan hệ giữa các bộ phận, chi tiết và đặc biệt lànguyên lý làm việc của đối tượng thực mà mô hình thay thế cho nó. Tuy nhiên, nếu môhình quá đơn giản hoặc kích thước không đủ lớn thì việc sử dụng sẽ kém hiệu quả khisố người học trong lớp quá lớn [học tại hội trường, giảng đường lớn].Khi sử dụng mô hình, ngoài việc cần coi mô hình là nguồn thông tin để ngườihọc tìm hiểu, giáo viên cần chú ý tới việc thao tác với mô hình, hệ thống các câu hỏitương ứng với những thao tác đó, hướng dẫn người học quan sát, nêu rõ yêu cầu ngườihọc phải thực hiện sau khi quan sát.

c] Vật thật

Đây là loại thiết bị khá sinh động và có tính thực tiễn cao. Vật thật thường đượcsử dụng trong các bài dạy về cấu tạo của đối tượng, thực hành trên đối tượng [thiết bị máy móc, vật nuôi, cây trồng,...].

Tuy nhiên, vật thật thường có mầu sắc không nổi bật,khó hoặc không thể hiện được những nội dung bên trong, khó bảo quản và điều khiển theo ý muốn [nhất là đối với các sinh vật]. Bên cạnh đó, vật thật thường bao gồm cả những yếu tố không được đề cập trong nội dung học tập. Do vậy, giáo viên cần định hướng người học quan sát, tìm hiểu về đối tượng một cách rõ ràng và phù hợp với nội dung học tập hạn chế giải thích những yếu tố không thuộc nội dung học tập hiện tại.

Chủ Đề