Tử vi chỉ nam song an đỗ văn lưu

Dưới đây là một số các kinh nghiệm TỬ VI được góp nhặt từ các bật tiền bối, được trình bày dưới hình thức Tử Vi Vấn Đáp.

Phần 1: Theo Cụ Song An ĐỖ VĂN LƯU

Câu 1: Tôi thấy sách nói: Kình Dương Tý Ngọ Mão Dậu phi yểu triết tấc nhi hình thương hoặc Kình Dương cư Ngọ là Mã Đầu Đới Kiếm trấn giữ biên cương nhưng rồi cũng chết bất đắc kỳ tử, mà nay lại thấy có người phát công danh, lại trường thọ, không chết ở hạn ấy nghĩa là sao? Trường hợp lá số Dương Nam Bính Dần, tháng 12, giờ Hợi ngày 5.

  • Trong mọi trường hợp phải để ý đến ngũ hành và cát tinh phù trợ, ở trường hợp này người ấy phát công danh to ở đại hạn cung Ngọ mà bản mệnh vững vàng vì: hạn đến tam hợp Thái Tuế, có Long, Phượng, Hổ, Cái, mệnh hỏa có Liêm Trinh hỏa đồnghành nhập hạn mà Mệnh Thân lại có Tam Hóa. Đại Hạn của Tử Phủ Vũ Tướng thì hỏi sao mà không phú quý , hành của Mệnh và hành sao nhập hạn khắc Kình Dương hành kim. Thiên Phủ ở Dần chiếu lên giải tính hung ác của Kình Đà.

Câu 2: Thế nào là vượng tướng hưu tù tuyệt?

  • Vượng, tướng, hưu, tù, tuyệt là 5 yếu tố thuộc về sinh trưởng thu tàn của ngũ hành. Nguyên tắc khi ta xét đến 1 hành, nếu có nguyên nhân nào làm cho hành ấy vượng, hành được sinh là tướng, hành sinh cho hành khác là hưu, hành bị hành khác khắc là tử, tuyệt.

Ví dụ năm nay là năm Tân Dậu thuộc hành mộc, thời mộc thì vượng hỏa được tướng [vì mộc sinh hỏa nên người mệnh hỏa sẽ tốt], bất lợi cho người mệnh Thủy hay Thổ vì thủy phải nuôi mộc vượng và thổ thì bị mộc khắc [tử]

  • Chi tiết hơn người ta xét đến khí của bốn mùa, như mùa xuân thì thuộc mộc, mùa hạ thì thuộc hỏa vượng, mùa đông thì thủy vượng còn mùa thu thì kim vượng.

Câu 3: sách xưa nói “sinh phùng bại địa phát dã hư hoa” là sao?

  • Ý muốn nói rằng cung Mệnh, hay cung Thân cư [đóng] tại nơi bại địa thì cuộc đời sẽ long đong vất vả, nếu có gặp được hạn tốt thì cũng chỉ phát như bông hoa bị vùi dập giông tố mà thôi – khi Mệnh lâm bại địa, cần phải có cát tinh đắc địa hội chiếu hay Tuần Triệt án ngữ, nếu đại hạn lâm vào bại địa thì cũng 1 thời khốn khó.

Câu 4: khi xem số Tử Vi làm thế nào để biết được người ấy bị lừa hoặc đi lừa người khác?

  • Tính chất cố hữu của Không, Kiếp là chỉ biết mình mà chẳng nghĩ đến người, tính điêu ngoa gian giảo, tham lam của 1 số chính tinh hãm địa như Tham Lang, Cự Môn, Vũ Khúc nếu đứng chung với thế Thiên Không đắc tả hữu thì thật là mẫu người lôi thôi, buôn đầy bán vơi, mua thật bán dối, của người bồ tát của mình . Nếu đứng chung với Thái Tuế là người lầm lạc, nên có tài mà bị đời lãng quên, nếu đứng chung với Tang Môn, Điếu Khách hay Trực Phù Thiếu Âm Long Đức thì là người hay bị người khác qua mặt, lường gạt, nếu ở hạn thì cũng luận như thế.

Câu 5: Có người nói Mã ở Hợi là cùng Đồ Mã, lại có sách xưa nói Mã ở Hợi là Ô Truy Mã. Như vậy có mâu thuẫn không? Thế nào gọi là Cùng Đồ Mã?

  • Gọi Thiên Mã ở Hợi là Ô Truy Mã là đúng vì Mã đó là Thủy Mã, rất tốt với người mệnh Thủy, đa tài mẫn cán, tháo vát và nghị lực rất mạnh. Còn gọi là Cùng Đồ Mã chỉ cũng không sai nhưng chỉ đúng có 1 phần thôi, chi khi nào có sao Tuyệt đồng cung với Thiên Mã ở Hợi chỉ sự tuyệt lộ cùng đường chạy nên gọi là cùng Đồ Mã, vì lấy cái lý sao tuyệt là sao cuối của bộ Trường Sinh, thuyệt lại là hành Thổ thì khắc Thiên Mã thuộc hành Thủy.

Câu 6: Thế nào gọi là cách tuyệt xứ phùng sinh?

  • Khi cung Mệnh an tại cung Tuyệt địa nhưng lại có chính tinh đắc địa sinh cho hành của bản mệnh ví như người đang hấp hối lại được thần dược cứu sống.

Câu 7: Khi lấy số Tử Vi nếu gặp tháng nhuần thì tính thế nào?

  • Có người tính từ 15 tháng sau coi như tháng trước và 16 tháng sau [của tháng nhuần] được coi như tháng sau. Nhưng do bởi lý nếu đã nhuần [giống nhau] tức là thời điểm không đổi mà thời điểm đã không đổi thì 2 tháng nhuận đều tính giống nhau. Ví dụ sinh ngày 20 tháng 5 nhuần ta vẫn cứ tính như ngày 20 tháng 5 thường mà thôi.

Câu 8: Người muốn giỏi Tử Vi cần phải làm sao?

  • Muốn đoán Tử Vi giỏi cần phải có 4 điều kiện sau:
    • Trí nhớ: Tử Vi là 1 môn Toán Học phức tạp nên cần phải có trí nhớ.
    • Suy luận: phải thuộc tính chất để suy luận tính chế hóa thiện, hung của các sao, đặc biệt sự chế hóa xung khắc, yếu tố tiêu trưởng của âm dương ngũ hành.
    • Trực giác: cần phải có trực giác bén nhậy để giúp ích cho sự suy luận.
    • Kinh nghiệm: cuối cùng là phải thực hành nhiều đối chiếu phần thực nghiệm với lý thuyết và suy luận ra những nguyên tắc về giải đoán cho phong phú.

Câu 9: Thế nào gọi là hạn Trúc La?

  • Hạn Trúc La là hạn Sát Phá Liêm Tham ở cung Mão, cung Mão thuộc hành mộc quẻ Chấn là tượng trưng cho sấm sét, nên gọi là Mộc áp lôi kinh. Nếu có các sao Kình, Hư, Tuế, Khách nữa thì chết, số Hạng Võ sinh năm Đinh Mão, tháng 8, ngày 12 giờ Mão có cách này.

Câu 10: Ảnh hưởng của Tuần, Triệt là như thế nào?

  • Khi đoán số Tử Vi, đến cung nào có Tuần, Triệt trấn đóng, án ngữ bản cung thì nên thận trọng vì tính chất phức tạp của Tuần, Triệt.
    • Triệt: cón gọi là Triệt lộ không vong, hay gọi tắt là Triệt không, thuộc hành kim, đới thủy, cò nghĩa là chém đứt lìa xa.
    • Tuần: còn gọi là Tuần trung không vong, thuộc hỏa đới mộc gọi tắt là tuần không. Có nghĩa là bao lại, bao vây, không cho phát huy khả năng.

Do tính chất hoàn không nên Tuần Không, Triệt Không hợp chiếu với Thiên Không, Địa Không gọi là Tứ Không sẽ làm mất hết hiệu lực của các tinh đẩu nằm trong phạm vi của nó, nhưn gkho6ng có nghĩa là ngược lại, nghĩa là Tuần, Triệt chỉ có tính chất làm mất cái tốt hoặc tiêu tan sự hung ác của các ác sát tinh chứ không thể biến đổi thành xấu hay biến xấu thành tốt được..

Vị trí đắc địa của Tuần Triệt là ở cung Kim và cung Hỏa khi “Triệt đáo Kim cung, Tuần lâm Hỏa địa” hai hành kim va chạm sẽ gây nên tiếng vang, hai hành Hỏa hợp lại sẽ bùng to lớn mãnh liệt, nên người mệnh vô chính diệu có bản mệnh đồng hành với Tuần, Triệt cư ở Ngọ hay Dậu [thế cung Ngọ là Ly chính hỏa, cung Dậu là Đoài chính kim] thì được nổi tiếng lẫy lừng và phú quý.

Các đặc tính của Tuần, Triệt trên lá số sách xưa có ghi câu phú như sau:

“Tam phương xung sát hanh nhất triệt nhi khả bằng, tứ chính giao phủ kị nhất tuần không chi trực phá”.

Có nghĩa là khi bản cung và các cung hợp phương gặp ác sát chi tinh, các hung tinh thủ chiếu, nhưng chỉ cần 1 sao triệt cũng đủ làm cho bình yên, khi bản cung được các tinh hội chiếu nhưng nếu chỉ gặp 1 sao Tuần hay Triệt thì cũng đủ để phá mất ý nghĩa tốt đẹp đi.

Không vong định yếu đắc dụng, nhược phùng bại địa chuyên khán phù tri chi điêu đại hữu kỳ công. Tuần Triệt cũng có chỗ đắc dụng khi năm đóng vị trí thì lại thật là cần thiết vô cùng. Khi Mện ở cung Bại Địa hay Tuyệt Địa thì Tuần Triệt ở đây lại phù trì cho các sao hãm địa lại trở nên vượng, bản mệnh Tử mong manh lại gặp trở nên vững vàng. Trường hợp này đặc biệt hơn, còn ký tại các cung khác Tuần Triệt được ví như bộ thắng của chiếc xe vậy.

Về ảnh hưởng của Tuần, Triệt cụ Việt Viêm Tử có phổ biến thành định lý:

Dương hành tam thất, Âm qui nhị bát: tức là người Dương chịu ảnh hưởng cung dương 7 phần, người Âm chịu ảnh hưởng cung Âm 8 phần.

Nhưng theo thiển nghĩ và kinh nghiệm áp dụng thì tháy rằng đối với Dương nam, Âm nữ là những tuổi thuận lý âm dương thì chịu ảnh hưởng theo chiều thuận cho nên định lý Dương hành tam thất phải được dùng cho Dương nam Âm nữ.

Ví dụ người Dương nam Canh Dần, có Tuần Triệt cư Ngọ, Mùi nên khởi theo chiều thuận thì đến cung Ngọ sẽ gặp Tuần, Triệt đương đầu tức là nếu cung Mệnh đóng tại cung dương [Ngọ] và nếu Mệnh đóng ở cung Mùi thì Tuần, Triệt nằm sau lưng nên chỉ vuốt đuôi mà thôi.

Đối với Âm nam Dương nữ là những tuổi nghịch âm dương nên chịu ảnh hưởng theo chiều nghịc cho nên định lý âm qui nhị bát phải được áp dụng cho Âm nam Dương nữ.

Ví dụ người Dương Nữ tuổi Canh Dần thì Tuần Triệt cư tại Ngọ Mùi, nhưng vì là dương nữ cho nên ảnh hưởng theo chiều nghịch vậy ở cung Mùi nếu cung Mệnh gặp Tuần hay Triệt thì gặp Tuần Triệt đương đầu, mà cung Ngọ thì Tuần Triệt lại chỉ là vuốt đuôi thôi.

Tam thập niên tiền quan Triệt, tam thập niên hậu khán Tuần.

Tức là sao Triệt ảnh hưởng mạnh vào năm tuôi chưa lập thân [30 năm đầu], sao Tuần ảnh hưởng mạnh vào tuổi từ khi lập thân đến hết cuộc đời. Sở dĩ ngày xưa các cụ dùng chữ tam thập niên tiền và tam thập niên hậu vì các cụ quan niệm là tuổi lập thân từ 30 trở ra, và cho 60 là hết vì nhân sinh thất thập cổ lai hi, đời người trung bình 60 năm thôi, còn 70 năm là ngoại lệ.

Câu 11: Tại sao Triệt lại chỉ ảnh hưởng vào tiền vận [30 năm đầu], còn Tuần lại ảnh hưởng suốt cuộc đời?

Triệt lộ không vong được tính căn cứ vào hàng thiên can của năm sinh, trở lại nguồn gốc vạn vận theo Hà Đồ Lạc Thư của Kinh Dịch thì từ cửa hư không tức thái cực sinh trời, rồi mới tới đất tức là thiên nhất sinh thủy, địa lục thành chi…cho nên hàng cung chính là cái cội rễ của con người. Xét theo cuộc đời, thời gian thì hàng can phải là phần trước, có nửa đời trước thì mới có nửa đời sau, cái sau sinh ra bởi cái trước.

Tuần Trung không vong được tính theo can chi của năm sinh nằm trong giáp nào tức là gồm cả thiên can và địa chi, thuộc giáp nào trong lục thập hoa giáp mà can chi là 2 yếu tố căn bản để tạo nên tuổi của con người nên Tuần sẽ ảnh hưởng suốt cuộc đời con người.

Câu 12: Người có Tuần hay Triệt tại Mệnh hay cung Thân thì sao?

Người có Tuần Triệt án ngữ tại Mệnh thì cuộc đời vất vả, làm việc gì cũng phải hai ba lần thì mới thành công, khi tại Mệnh thì thiếu niên cực khổ, còn ở Thân thì vất vả nhiều, chung thân thì bất như ý.

Nếu Mệnh Tuần, Thân Triệt hay ngược lài thì cung Mệnh hay cung Thân lại rất cần vô chính diệu thì mới mong mát mặt với đời. Đặc biệt khi Mệnh hoặc Thân có Tuần hay Triệt đến đại hạn lại gặp Tuần hay Triệt thì mọi sự lại hanh thông.

Câu 13: Thế nào được gọi là lá số vô chính diệu?

Một lá số được gọi là vô chính diệu thì cung Mệnh không có chính tinh chiếm đóng [tọa thủ] hoặc có chính tinh nhưng không được hưởng nghĩa là chính tinh thủ mệnh không sinh hay đồng hành với bản mệnh. Thí dụ người tuổi Canh Tý là thổ mệnh, mệnh cư ở Hợi, có Thiên Đồng thủ mệnh [Thiên Đồng là Nam Đẩu Tinh, thuộc Dương Thủy] như thể là khắc với chính tinh vì mệnh thổ khắc thủy nên không hưởng mà không hưởng thì được coi như vô chính diệu.

Khi gặp lá số không có chính tinh thì phải biết sao nào đồng hành với bản mệnh ở thế tam hợp làm nòng cốt hoặc ở cung đối xứng với điều kiện hành của thế tam hợp cung Mệnh phải khắc thắng được hành của thế tam hợp cung xung chiếu, ví dụ Mệnh cư ở cung Thân vô chính diệu thì phải tìm chính tinh đồng hành ở 2 cung tam hợp là Tý và Thìn là tam hợp Thân Tý Thìn [thủy cục] sẽ khắc được Dần ở cung đối diện trong thế tam hợp Dần Ngọ Tuất [hỏa cục]. Ngược lại, nếu cung Mệnh vô chính diệu đóng tại cung Dần thì các sao ở cung Thân sẽ không hưởng được, trái lại còn nguy hại nũa là khác nếu như có nhiều sao xấu ở cung Thân…

Câu 14: Lá số vô chính diệu thế nào thì tốt?

Gồm có các trường hợp sau:

-Mệnh vô chính diệu đắc tam không thì phú quý khả dĩ, tức là phải là mệnh hỏa, được 1 không thủ mệnh và 2 không chiếu [các sao không gồm có Tuần không, Triệt không, Thiên Không, Địa Không] trường hợp này được công thành danh toại

-Nhật nguyệt chiếu hư không chi địa: Mệnh vô chính diệu có hung tinh đắc địa đồng hành bản mệnh như Kình Dương, Đà La, Linh Tinh, Hỏa Tinh, Thiên Khốc, Thiên Hư, Tang Môn, Bạch Hổ…nhưng phải mệnh kim hay hỏa mới hợp, trường hợp này phải xa lánh Tuần, Triệt.

-Trung tinh đắc cách hội chiếu Khôi, Việt, Xương, Khúc, Thai, Tọa, Tam Hóa…nhưng cũng phải không gặp Tuần Triệt cản thì mới được phúc lộc. Còn kỳ dư tất cả các trường hợp khác đều là mộng ảo, hoàng lương, phi yểu, tắc bần..tất cả chỉ là phá cách, không tốt.

Nhưng bất cứ trường hợp nào thì người có lá số vô chính diệu vẫn là người thông minh, khôn ngoan và có đặc tính, trước 1 vấn đề cần giải quyết dứt khoát thì thường hay đắn đo, do dự.

Câu 15: Khi đoán hạn cần phải để ý đến yếu tố nào?

Khi giải đoán đến đại hạn hay tiểu hạn thì phải lưu ý đến những điểm sau:

-Phân biệt Nam Đẩu Tinh hay Bắc Đẩu Tinh để tìm ảnh hưởng vào nửa sau hay nửa trước của hạn, nếu gặp Tuần, Triệt thì ngược lại.

-Mệnh phải được cung nhập hạn sinh hay đồng hành với bản mệnh.

-Chính tinh nhập hạn đồng hành hay sinh cho bản mệnh.

-Trường hợp cung hạn khắc bản mệnh thì cần phải có chính tinh sinh mệnh là cách tuyệt xứ phùng sinh.

-Xem hung tinh có đồng hành với bản mệnh hay với can của năm sinh không? Hung tinh không hại người đồng hành với nó, hay hành nó sinh. Thí dụ Hỏa Tinh, Linh Tinh không hại người mạng Hỏa, hay Thổ mà chỉ hại người Thủy, Kim, Mộc.

Nếu được mệnh mà không được can hay ngược lại thì cũng lôi thôi, thí dụ tuổi Bính Dần đến hạn ngặp Hỏa, Linh thì không việc gì vì Bính thuộc hỏa mà Bính Dần là Lư Trung Hỏa cũng thuộc hỏa..

-Người có cung nhập hạn khắc Mệnh, lại gặp Kình, Hình, Không, Kiếp thì sẽ chết trong hạn đó.

-Người mệnh Mộc hay có Giáp, Ất tội kị hạn gặp Kình, Hình.

-Người có mệnh hỏa, hay có hàng can Bính, Đinh tối kị hạn gặp Hóa Kị.

-Người mệnh kim hay có hàng can Canh, Tân tối kị hạn gặp Hỏa Tinh hay Linh Tinh.

Ba hành trên nếu gặp sao kị khắc nhập hạn thì sẽ gặp tai nạn, thương tổn lôi thôi.

Câu 16: Muốn xem nguyệt hạn thì phải làm sao?

Khi đoán đến nguyệt hạn tức là đoán đến chi tiết phải để ý đến nguyên tắc sau:

Cách cuộc của mệnh thân chi phối đại hạn, gia tăng hay xung phá. Cách cuộc của đại hạn chi phối tiểu hạn, cách cuộc của tiểu hạn chi phối nguyệt hạn.

Đặc biệt phải lưu ý đến can chi ngũ hành của nguyệt hạn, phối hợp với can chi và ngũ hành của bản mệnh và các sao cùng nhập hãm ra sao mà linh động chế hóa.

Có nhiều cách tính nguyệt hạn, nhưng cách thông dụng nhất là khởi từ cung tiểu hạn là cung của tháng giêng [tháng 1] tính thuận đến tháng sinh rồi từ đó là giờ Tý tính nghịch đến giờ sinh và dừng lại cung nào thì đó là tháng 1, cứ thế theo chiều thuận mỗi cung 1 tháng cho đến tháng 12.

Cách tính can chi của tháng như sau:

Giáp, Kỷ, Bính tác chủ

Ất, Canh, Mậu vi đấu

Bính, Tân, Canh Dần khởi

Đinh, Nhâm Nhâm Dần cầu

Mậu, Quý tiên khởi Giáp

Cung Dần nguyệt thuận lưu

Nghĩa là năm thuộc can Giáp hay can Kỷ, như năm Kỷ Mùi hay Giáp Thân thì tháng giêng là tháng Bính Dần rồi tháng hai là Đinh Mão,…năm thuộc can Ất, Canh thì tháng giêng là Mậu Dần, năm thuộc can Bính, Tân thì tháng giêng là Canh Dần, năm thuộc can Đinh, Nhâm thì tháng giêng là Nhâm Dần, năm thuộc can Mậu, Quý thì tháng giêng là Giáp Dần.

Nghĩa là bất cứ năm nào tháng giêng cũng là tháng Dần, còn hàng can thì thay đổi tùy theo hàng can của năm đó. Rồi cứ thế theo can chi mà luận xuống. Thí dụ năm nay là năm Tân Dậu, vậy tháng 1 là tháng Canh Dần, tháng 2 là Tân Mão, tháng 3 là Nhâm Thìn, tháng 4 là Quý Tị..tháng 10 là Kỷ Hợi, tháng 11 là Canh Tý, tháng 12 là Tân Sửu.

Khi giải đoán thì xem can chi nguyệt hạn có xung phá với can chi bản mệnh không? Nếu ngũ hành của nguyệt hạn lại khắc hay sinh cho ngũ hành bản mệnh thì tốt, rồi xem đến các sao trong cung nguyệt hạn có hợp bộ, phò tá cho tiểu hạn không? Hay bị xung phá. Ví dụ tiểu hạn có Lộc Tồn đến nguyệt hạn gặp Phá Quân, Đại Hao hay Thiên Không, Địa Kiếp, Địa Không là bị phá vậy, cứ căn bản mà chế hóa cho tinh tường thì ra được đáp số.

Câu 17: khi đoán tiểu hạn hằng năm, làm thế nào để biết sự việc sẽ xảy ra cho chính đương số hay cho đối tượng liên hệ như cha mẹ, anh em, vợ con…?

Trước hết, khi tiểu hạn nhập cung nào thì cung ấy phải được lưu ý nhiều. Cung xung chiếu được kể là quan trọng thứ nhì, nếu hành cung tiểu hạn khắc thắng được hành cung xung chiếu thì sự việc xảy ra tốt hay hung dữ tùy theo sao, đến 80% là đối tượng thuộc cung đối chiếu với cung tiểu hạn [ví dụ cung tiểu hạn là Tài thì đối cung sẽ là cung Phúc, hay cung tiểu hạn là cung Tật Ách thì đối cung là Phụ Mẫu].

Ví dụ người Canh Dần, Dương nam, Mệnh lập tại Dần, lưu hạn năm Mùi ở cung Dậu là cung Ách, khắc cung Phụ Mẫu ở Mão, vậy những việc quan trọng sẽ xảy ra cho Phụ Mẫu vào năm Mùi hay năm nay Tân Dậu, lưu tiểu hạn ở cung Tử Tức tại cung Hợi, xung chiếu khắc cung Điền ở Tị, vậy sự việc liên quan đến điền trạch nhiều hơn [ví dụ đổi chổ ở] rồi đến năm 1982 là năm Nhâm Tuất, tiểu hạn đến cung Thê xung chiếu khắc cung Quan Lộc nên việc liên quan đến công danh…

Xin được nhắc lại khi đoán hạn phải lưu ý:

-Nếu là đại hạn thì phải lưu ý đến hành tam hợp trước rồi đến cung nhập hạn, rồi đến sao.

-Nếu là tiểu hạn hay nguyệt hạn phải lưu ý đến can chi và ngũ hành của năm hay tháng muốn xem rồi đến hành cung hạn, rồi đến sao cung hạn.

Dù bất cứ trường hợp nào cũng phải để ý đến hành của sao nhập hạn với hành của bản mệnh, xem sinh khắc thế nào ròi đến vị trí miếu địa, hãm địa cũa sao rồi cũng đi tìm xem hợp bộ hay xung phá, rồi căn cứ vào tính chất của sao để cho ra lời giải đáp…

Câu 18: Sao Thiên Mã có những tính chất gì?

Hành của Thiên Mã sẽ tùy theo cung Thiên Mã ở cung nào sẽ mang hành ở cung đó, ví dụ Mã ở Thân là Kim Mã. Dù ở bất cứ vị trí nào nếu Thiên Mã đồng hành hay sinh hành bản mệnh cũng rất tốt đa tài mẫn cán, cát cách tốt đẹp của Thiên Mã gồm có:

-Thiên Mã đồng cung với Lộc Tồn chủ phúc lộc

-Thiên Mã, Phượng Cát: cứu giải mọi tai nạn

-Mã Ngộ Khốc Khách: uy danh oai vệ

-Mã Ngộ Lưu Hà: cứu giải tai nạn

-Mã Ngộ Trường Sinh: thanh vân đắc lộ chủ về sự thăng tiến công danh.

Thiên Mã rất kị gặp các sao sau:

-Tuần, Triệt

-Kình, Đà

-Thiên Hình,

-Địa Không, Địa Kiếp.

Nếu gặp chỉ gây cản trở công việc nên bản mệnh không vững thì thương tổn, tai nạn thương tật tay chân…

Riêng trường hợp Thiên Mã chỉ gặp 1 sao Tuần thì bên cạnh sau cái rủi có cái may, vì Tuần chỉ như cái cầu ngăn cản để cho Thiên Mã phục rồi nhảy sang cung khác chứ không bị trảm như Triệt, Kình, Hình, Đà.

Mã còn là phương tiện di chuyển mà ngày nay ta coi là chiếc xe, như thế hành của Thiên Mã hay chiếc xe cũng nói lên ý nghĩa sau:

-Hành của Thiên Mã đồng hành với bản mệnh, ví dụ Tuổi Canh Tý thổ mệnh sử dụng xe màu vàng vì màu vàng thuộc thổ sẽ cảm thấy thoải mái với phương tiện di chuyển của mình.

-Hành của Thiên Mã sinh hành của bản mệnh, ví dụ tuổi Canh Tý thổ mệnh sử dụng xe màu đỏ vì màu đỏ thuộc hỏa sinh thổ, gây ích lợi cho bản mệnh.

-Hành của Thiên Mã khắc hành của bản mệnh, ví dụ sử dụng xe màu xanh thì mộc khắc thổ, bất lợi cho bản mệnh, có khi tai nạn.

-Hành của Thiên Mã được bản mệnh sinh, ví dụ nếu xe màu trắng thì thổ sẽ sinh cho kim [màu trắng], vất vả vì xe cộ, có thể sửa chữa, hư hỏng..nhọc sức với nó.

-Hành của bản mệnh khắc hành của Thiên Mã, ví dụ nếu bạn đi xe màu đen thì thổ sẽ khắc màu đen của thủy, dễ hư hỏng, dễ gặp tai nạn nhưng bản thân thì không việc gì.

Câu 19: Muốn biết tổng quát đặc tính 1 người qua chính tinh thì căn cứ vào đâu?

-Bộ Tử Phủ Vũ Tướng, Cơ Nguyệt Đồng Lương thì bản tính hiền và hiếu thảo

-Bộ Nhật Nguyệt thì thông minh mà tình cảm lai láng

-Bộ Sát Phá Tham thì nóng nảy mà dâm dục, các lục sát tinh thì tính khí hỉ nộ bất thường, lúc vui lúc giận không định trước được.

Câu 20: Những sao nào có lợi cho việc hôn nhân?

Khi tọa thủ hoặc hội chiếu vào cung phu thê thì các sao ngăn trở làm cho gia đạo bất hòa gồm có:

-Hóa Kị: Chủ về cái lưỡi, khích bác chê bai.

-Cự Môn: chủ về cái mồm

-Thiên Không: cuộc hôn nhân bất thành

-Thiên Hình: gay go và hay gặp trở ngại bất ngờ

-Thiên Khốc, Thiên Hư, Tang Môn, Bạch Hổ: chỉ cần gặp 1 trong 4 sao này cũng đã thấy có sự khó khăn.

-Ngoài ra, còn phải kể đến các sao như Thất Sát, Phá Quân, Cô Thần, Quả Tú, Tuần, Triệt nhất là cung Thê có Thiên Mã gặp Tuần, Triệt là số bị vợ bỏ.

Câu 21: Tại sao có lá số Mã ngộ Khốc Khách mà lại nghèo? Công danh thất bại?

-Mã là ngựa, Khốc Khách là tiếng nhạc ngựa đeo, khi ngựa chạy thì nhạc rung mà phát ra tiếng, nhưng ngựa có no thì mới chạy được, vì như xe của ta ngày nay phải có nhiên liệu thì mới chạy, muốn có nhiên liệu cho xe ta phải có tiền, một chiếc xe hết xăng mà trong túi ta lại không có lấy 1 xu thì chiếc xe lúc ấy trở thành vô dụng.

Bởi vậy, muốn được Mã ngộ Khốc Khách cho đúng cách thì tam hợp với Khốc Khách Mã phải có Lộc Tồn, tùy theo ở Mệnh hay ở hạn mà sẽ được hưởng lâu dài hay ngắn hạn.

Mã ngộ Khốc Khách, Mã không có Lộc Tồn là tiếng rên của ngựa chết đói.

Câu 22: Muốn biết về tình hình bệnh tật của một người thì căn cứ vào yếu tố nào?

Trước hết nên căn cứ vào mục các sao biểu tượng cho các phần trong cơ thể.

-Sao đó tùy ở cung Mệnh, cung hạn, cung Tật Ách, phối hợp với các sao lục sát tinh Kình Dương, Đà La, Linh Tinh, Hỏa Tinh, Địa Không, Địa Kiếp…mà luận.

Ví dụ 1 người ở cung tật ách có Kình Dương ngộ Riêu Y, Cô Quả, Đào Hồng, Kình Dương là chủ bộ phận sinh dục, Cô Quả chỉ 1 mình, Đào Riêu chỉ sự dâm dục…như thế là người ấy sẽ mắc tật dâm dục kín. Nếu cung Mệnh không có những sao cứu giải như nguyệt đức, sao lý trí mạnh như Thiên Hình, Thái Tuế.

-Bộ Sát Phá Tham và bộ Lục Sát Tinh, Thiên Hình thì hay gây ra các tai nạn về ngoại thương.

-Bộ Nhật Nguyệt gặp Hình, Kị, Đà, Kình, Hỏa, Linh gây các bệnh thuộc về mắt và hệ tim mạch, thần kinh, hầu hết những người có Nhật, Nguyệt thủ mệnh thì ngoài các đặc tính tốt lành nhưng bao giờ cũng bị yếu, thần kinh nhạy bén, hay dễ căng thẳng…

-Bộ Cự, Kị, Thái Tuế thì hay gây vạ miệng

-Bộ Tử Phủ Vũ Tướng và Cơ Nguyệt Đồng Lương thì hay gây bệnh nội thương.

-Hỏa Linh gặp hao hay Mệnh có Hao giáp Hỏa Linh thì bị nghiện [thường là ma túy].

Câu 23: Tại sao hầu hết các sách và kinh nghiệm cho thấy hạn Đào Hồng Hỉ thì đắc tài danh, có tình duyên, lợi cho thi cử mà khi người già hạn gặp Đào Hồng thì lại nguy đến tính mạng?

-Nhớ lại cách xếp đặt của các tinh đẩu: Đào Hoa luôn luôn cư ở tứ chính tức là 4 cung Tý, Ngọ, Mão, Dậu và phối hợp với Thiên Không, Lưu Hà, Kiếp Sát gọi là Thiên Hà Địa Sát..

Ví dụ, người tuổi Canh Tý thì Đào Hoa ở Dậu, Thiên Không ở Sửu, Kiếp Sát ở Tị [tức thế tam hợp Tị-Dậu-Sửu] cũng đủ làm mưa làm gió. Ở 1 số tuổi lại gặp cả Lưu Hà, người còn trẻ thì các sao còn vượng với bản thân, Đào Hồng chính là trợ tinh cho các sao tốt nên công thành danh toại. Những người già, sức tàn lực kiệt, ví như bông hoa đào tàn úa lung lay trước gió, thần lưỡi hái là Kiếp Sát chỉ ra tay nhẹ cũng đủ hồn qui tiên cảnh.

Lấy trường hợp điển hình:

Cụ Phan Thanh Giản, sinh năm Bính Thìn [1770] chết năm Ất Mão, lưu hạn năm Mão ở cung Dậu có Đào Hoa ở chính cung, có Thiên Không, Kiếp Sát ở Tị.

Lá số Ngọc Hân công chúa sinh năm Canh Dần 1770, chết năm 1803 Quý Hợi, lưu tiểu hạn năm Hợi ở cung Mùi có Đào Hoa, Thiên Không ở Mão, Kiếp Sát ở Hợi.

Câu 24: Tại sao ở trên đời thấy có nhiều cảnh con người lại phải chết đang lúc công danh, tiền bạc, tình duyên lên, danh tiếng lẫy lừng?

-Trong Tử Vi có câu:

Hung Tinh đắc địa phát dã như lôi, Cát tinh nhập miếu trầm trầm sự nghiệp.

Bản tính của các cát tinh cư nơi miếu địa đều chủ phúc, lộc nhưng sự nghiệp cứ từng bước phát dần dần, còn tính chất của các hung tinh, Sát Phá Liêm Tham và bộ lục sát Kình, Đà, Hỏa, Linh, Không, Kiếp nếu đắc địa thì sẽ phát rất nhanh, nhưng tính chất của hung tinh là bạo phát cho nên thực tế hầu hết giới nhà binh, những người được thăng tiến quá nhanh, các cấp chỉ huy quá trẻ đều được…lên bàn thờ sớm [điều này cũng giống như trong đạo lý của ngũ hành Dịch Lý thôi, Tài vượng thì sinh Quỷ/ Ngọc Anh]

Câu 25: Theo như kinh nghiệm cụ Thiên Lương cho biết, người nào đến hạn Thái Tuế thì nếu đang tai nạn cũng được khỏi đều được công thành danh toại. Nhất là những người có mệnh ở thế tam hợp Thái Tuế, thì cũng có danh với đời nhưng tôi thấy có người dang ở hạn Thái Tuế mà lại chết là vì sao?

-Có người đáo vận tam hợp tuổi [tam hợp Thái Tuế] mà vẫn chết vì gặp quá nhiều sao hung ác, lại khắc hành của bản mệnh nên phải chết, nhưng theo qui luật người ấy chưa hưởng hết hạn Thái Tuế mà phải chết nên dường như sự bù trừ vô hình đã dành cho họ được lưu danh với hậu thế, hầu hết cái chết của những người đang ở vào thời kì đại hạn nằm trong tam hợp tuổi đều có cái chết đặc biệt mà người đương thời và thời sau đều biết đến và nhớ tiếc…

Ví dụ, Đức Khổng Tử tuổi Canh Tuất chết vào đại hạn cung Ngọ hay Hạng Võ tuổi Đinh Mão chết ở đại hạn cung Mão.

Câu 26: Muối chọn nghề cho hợp với lá số Tử Vi thì cần dựa trên yếu tố nào?

-Căn cứ vào tính chất và cách nhập bộ hay phá cách của các sao nhập mệnh, nhập hạn [đổi nghề trong hạn ấy].

Câu 27: Muốn xem số phái nữ khi nào bị tai nạn về “trinh tiết” thì căn cứ thế nào?

-Trước hết bất cứ là lá số phụ nữ nào khi cung quan lộc hay cung Thân có tuần hay triệt, bất luận về yếu sao, chắc chắn sẽ không còn là con gái trước khi về nhà chồng.

-Các lá số phụ nữ có các sao thuộc về dâm tinh thủ mệnh như Tham Lang, Thai, Đào, Riêu, Cự, Kị, Xương, Khúc, Cái, Mộc thì trong trường hợp này không coi là 1 tai họa, mà còn được coi là tự nhiên, một nhu cầu hay 1 sở thích, không đặt vấn đề luân lý, đạo đức.

-Trường hợp được coi là tai họa khi ở mệnh hay hạn có các sao Thai, Phục gặp Kiếp, Không chỉ sự bạo hành, cưỡng bức. Kinh nghiệm cho thấy hầu hết các lá số bị tai nạn tập thể do hải tặc Thái Lan đếu thấy có sao Hồng gặp HÌnh Riêu Không Kiếp.

-Cự Môn và Hóa Kị hay Tham Lang Hóa Kị chủ sự tình ngang trái mà sự thiệt thòi về phần phái nữ.

-Thai, Hình, Tang, Hổ: chỉ sự hiếp dâm đi liền với án mạng, nghĩa là người con gái sau khi bị bạo hành sẽ bị giết chết…ý nghĩa của sao Thai khi đi chung với các sao dâm dục khác còn mang ý nghĩa có thai của phụ nữ.

Hết Phần 1

Phần 2 sẽ cung cấp trong các lớp dạy Tử Vi trung cấp tại trung Tâm Tổ Đường Phong Thủy ĐỖ ĐÌNH TRUẬT.

Chủ Đề