Vai trò của cách mạng khoa học công nghệ

Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ

I. Cuộc cách mạng Khoa học- công nghệ

1. Nguồn gốc và đặc điểm:

* Nguồn gốc:

- Do đòi hỏi của cuộc sống và của sản xuất, nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng cao của con người.

- Do sự bùng nổ dân số, sự vơi cạn tài nguyên thiên nhiên, do nhu cầu của chiến tranh…

- Cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật lần thứ nhất là tiền đề thúc đẩy cách mạng khoa học - kỹ thuật lần II và cách mạng công nghệ bùng nổ.

* Đặc điểm:

- Khoa học - kỹ thuật trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, mọi phát minh kỹ thuật đều bắt nguồn từ nghiên cứu khoa học.

- Khoa học gắn liền với kỹ thuật, đi trước mở đường cho kỹ thuật. Đến lượt mình, kỹ thuật lại đi trước mở đường cho sản xuất.

- Khoa học tham gia trực tiếp vào sản xuất, là nguồn gốc chính của những tiến bộ kỹ thuật và công nghệ.

* Hai giai đoạn cách mạng khoa học – kĩ thuật:

- Giai đoạn 1: từ những năm 40 đến nửa đầu những năm 70 của thế kỉ XX.

- Giai đoạn 2: từ sau cuộc khủng hoảng năng lượng năm 1973 đến nay. Cách mạng công nghệ trở thành cốt lõi của cách mạng khoa học – kĩ thuật nên giai đoạn này còn được gọi làcách mạng khoa học – công nghệ.

2. Những thành tựu tiêu biểu [giảm tải]

3. Tác động

* Tích cực:

- Tăng năng suất lao động, mức sống và chất lượng cuộc sống của con người. Từ đó dẫn đến những thay đổi lớn về cơ cấu dân cư, chất lượng nguồn nhân lực, những đòi hỏi mới về giáo dục và đào tạo nghề nghiệp, sự hình thành một thị trường thế giới và xu thế toàn cầu hóa.

* Hạn chế:

- Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ cũng gây nên những hậu quả tiêu cực [chủ yếu do chính con người tạo nên] như:

+ Ô nhiễm môi trường, hiện tượng Trái Đất nóng dần lên;

+ Tai nạn lao động và giao thông, các loại dịch bệnh mới,...

+ Nhất là việc chế tạo những loại vũ khí hiện đại có sức công phá và hủy diệt khủng khiếp, có thể tiêu diệt nhiều lần sức sống trên hành tinh.

4. Mở rộng: Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ:

- Sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học - công nghệ đã đưa con người bước sang một nền văn minh mới, văn minh thông tin.

- Hệ quả của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ là làm xuất hiện xu thế toàn cầu hóa, đó là một xu thế khách quan, một thực tế không thể đảo ngược.

=> Thông qua quá trình hội nhập, Việt Nam cần học hỏi trình độ quản lí, các thành tựu khoa học - kĩ thuật tiên tiến đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

ND chính

- Những nét chính về nguồn gốc, đặc điểm, những thành tựu tiêu biểu và tác động củacuộc cách mạng khoa học - công nghệ.

- Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ.

Sơ đồ tư duyCuộc cách mạng khoa học - công nghệ

Loigiaihay.com

  • Xu thế toàn cầu hóa và ảnh hưởng của nó

    Tóm tắt mục II. Xu thế toàn cầu hóa và ảnh hưởng của nó. Một hệ quả quan trọng của cách mạng khoa học- công nghệ.

  • Hãy nêu đặc điểm và những thành tựu chính của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ trong nửa sau thế kỉ XX

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 69 SGK Lịch sử 12

  • Xu thế toàn cầu hóa được thể hiện trên những lĩnh vực nào?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 70 SGK Lịch sử 12

  • Hãy giải thích thế nào là khoa học đã trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp

    Giải bài tập Bài 1 trang 70 SGK Lịch sử 12

  • Vì sao nói: Toàn cầu hóa vừa là thời cơ, vừa là thách thức đối với các nước đang phát triển ?

    Giải bài tập Bài 2 trang 70 SGK Lịch sử 12

Vai trò và ý nghĩa của cách mạng khoa học công nghệ và những tác động đến kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [183.29 KB, 32 trang ]

phần i : Mở đầu
Đất nớc ta bớc vào thời kì quá độ lên CNXH khi mà nền sản xuất cha vận
động theo con đờng bình thờng của nó. Lịch sử đã để lại cho chúng ta một nền
sản xuất nghèo nàn và lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, lực lợng sản
xuất rất thấp kém. Nhng ngày nay khi độc lập dân tộc gắn kiền với CNXH là
một xu thế tất yếu của lịch sử, khi giai cấp công nhân đã nắm quyền lãnh đạo cách
mạng thì kết thúc cuộc cách mạng dân tộc dân chủ cũng là lúc bắt đầu cuộc cách
mạng XHCN. Cách mạnh XHCN ở nớc ta là một quá trình biến đổi cách mạng
toàn điện, sâu sắc và triệt để. đó là một quá trình vừa xoá bỏ cái cũ, vừa xây dựng
cái mới từ gốc đến ngọn. Phải tạo ra cả cơ sở kinh tế lẫn kiến trúc thợng tầng mới,
tạo ra của cải đời sồng vật chất mới lẫn đời sống tinh thần và văn hoá mới. Do đó,
trong quá trình đi lên CNXH chúng ta phải tiến hành công nghiệp hoá , hiện đại
hoá đất nớc.theo quan điểm của ban chấp hành trung ơng Đảng khoá VII đã khẳng
địnhCông nghiệp hoá-hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các
hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao
động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với
công nghệ, phơng tiện và phơng pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của
công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Quan điểm này đã gắn công nghiệp hoá với hiện đại hoá đồng thời đã xác định vai
trò khoa học-công nghệ là then chốt đẩy mạnh công nghiệp hoá. Trong điều kiện
giao lu kinh tế giữa các nớc cha đợc mở rộng, quá trình chuyển giao công nghệ
giữa các nớc cha phát triển mạnh mẽ phảitự lực cánh sinh thì đó chính là một
trình tự hợp lí để tiến hành công nghiệp hoá. Song hiện nay cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ đang tác động một cách sâu rộng trên phạm vi toàn thế giới
khoảng thời gian để phát minh mới ra đời thay thế phát minh cũ ngày càng đợc rút
ngắn lại, xu hớng chuyển giao công nghệ giữa các nớc ngày càng trở thành đòi hỏi
cấp bách, không chỉ đối với các nớc lạc hậu, mà ngay cả đói với các nớc phát
triển. Thực tế cho thấy có thể chuyển giao một cách có hiệu quả cho các nớc đi
1
sau khi mà các nớc đi sau đã có sự chuẩn bị kĩ càng để đón nhận. Vấn đề đặt ra là
các nớc đi sau trong đó có nớc ta cần phải làm ngững gì đẻ iếp nhận một cách có


hiệu quả nhất những thành tựu mà các nớc đi trớc đã đạt đợc. Bài học thành công
trong quá trình công nghiệp hoá của các nớc NIC đã chỉ ra rằng: việc xây dựng
một cơ cấu kinh tế theo hớng mở cửa với bên ngoài ngằm tiếp nhận một cách có
chọn lọc những thành tựu của các nớc đi trớc kết hợp với việc đẩy mạnh cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đó chính là con đờng ngắn nhất, có hiệu
quả nhất quyết định sự thành công của quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá.

2
chơng I: cở sở lý luận
1. Nội dung khoa học công nghệ
Hiện nay cuộc cách mạng khoa học- công nghệ có nhiều nội dung phong
phú, trong đó có thể chỉ ra những nội dung nổi bật sau:
- Cách mạng về phơng pháp sản xuất: đó là tự động hoá. Ngoài phạm vi tự
động nh trớc đây, hiện nay tự động hoá còn bao gồm cả việc sử dụng rộng rãi ngời
máy thay thế con ngời trong quá trình vận hành sản xuất.
- Cách mạng về năng lợng: bên cạnh những năng lợng truyền thống mà con
ngời sử dụng trớc kia nh nhiệt điện, thuỷ điện thì ngày nay con ngời càng tạo ra
nhiều năng lợng mới và sử dụng chúng rộng rãi trong sản xuất nh năng lợng
nguyên tử, năng lợng mặt trời.
- Cách mạng về vật liệu mới : ngày nay ngoài việc sử dụng các vật liệu tự
nhiên, con ngời ngày càng tạo ra nhiều vật liệu tự nhiên, con ngời ngày càng tạo ra
nhiều vật liệu nhân tạo mới thay thế có hiệu quả cho các vật tự nhiên khi mà các
vật liệu tự nhiên đang có xu hớng ngày càng cạn dần .
- Cách mạng về công nghệ sinh học, các thành tựu của cuộc cách mạng này
đang đợc áp dụng rông rãi trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, y tế, hoá chất,
bảo vệ môi trờng sinh thái.
- Cách mạng về điện tử và tin học : đây là lĩnh vực hiện nay loài ngời đang
đặc biệt quan tâm trong đó phải kể đến lĩnh vực máy tính điện tử.
Nh vậy, khoa học công nghệ ngày nay bao gồm một phạm vi rộng, nó
không chỉ là các phơng tiện, thiết bị do con ngời sáng tạo ra mà còn là các bí

quyết biến các nguồn lực có sẵn thành sản phẩm. Với ý nghĩ đó khi mói tới công
nghệ thì sẽ cũng bao hàm cả kỹ thuật. đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khoa
học, kĩ thuật luôn nắn bó chặt chẽ với nhau : khoa học là tiền đề trực tiếp của công
nghệ và công nghệ lại là kết quả của khoa học.
3
2. Vai trò của khoa học công nghệ
Trong thời đại ngày nay, có lẽ không còn ai không nhận thức đợc rằng khoa
học và công nghệ có vai trò rất quan trọng về nhiều mặt đối với sự phát triển.
Khoa học và công nghệ là cái không thể thiếu đợc trông đời sống kinh tế văn
hoá của một quốc gia. Vai trò này của khoa học và công nghệ càng trở lên đặc biệt
quan trọng đối với nớc ta đang trên con đờng rút ngắn giai đoạn phát triển để sớm
trở thành một xã hội hiện đại. Ngay từ khi bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới đất
nớc, Đảng ta đã xác định khoa học và công nghệ là cái giữ vai trò quan trọng trong
sự phát triển lực lợng sản xuất và nâng cao trình độ quản lý, bản đảm chất lợng và
tốc độ phát triển của nền kinh tế. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc vì mục
tiêu dân giàu nớc mạnh xã hội công bằng, văn minh, khoa học và công nghệ phải
trở thành quốc sánh hàng đầu.
Nớc ta đang bớc vào một thời kỳ phát triển mới- thời kỳ đẩy mạnh CNH-
HĐH. Nghị quyết Trung ơng hai của Ban chấp hành Trung ơng Đảng khoá VIII đã
xác định rõ :CNH- HĐH đất nớc phải bằng và dựa vào khoa học và công nghệ
khoa học và công nghệ phải trở thành nền tảng và động lực cho CNH- HĐH.
Chỉ bằng con đờng CNH- HĐH, phát triển khoa học và công nghệ mới có thể đa
nớc ta từ nghèo nàn lạc hậu trở thành một nớc giàu mạnh văn minh. Việc đa khoa
học và công nghệ, trớc hết là phổ cập những tri thức khoa học và công nghê cần
thiết vào sản xuất và đời sống xã hội là một nhu cầu cấp thiết của xã hội ta hiện
nay. Nghị quyết trung ơng II cũng đã nhấn mạnh phải thật sự coi Sự phát triển
khoa học và công nghệ là sự nghiệp cách mạng của toàn dân, phát huy cao độ khả
năng sáng tạo của quần chúng. Bởi lẽ dù chúng ta có tiến hành cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ, có đa trang thiết bị kỹ thuật tân tiến nhất, những quy trình
công nghệ hiện đại nhất vào nớc ta thì cũng không có gì để có thể bảo đảm đẩy

mạnh đợc CNH- HĐH. Nếu không có đợc những con ngời am hiểu và sử dụng
chúng. Do đó, xã hội hoá tri thức khoa học và công nghệ là một trong những nhu
cầu thiết thực và cấp bách nhất để đẩy mạnh sự nghiệp CNH- HĐH đất nớc.
Phát triển công nghiệp hoá hiện đại hoá là quá trình phát triển và nâng cao
trình độ công nghiệp. Việc nâng cao trình độ công nghệ đợc thực hiện trong quá
4
trình điện khí hoá, cơ giới hoá, tự động hoá, tin học hoá, hoá học hoá và sinh học
hoá. Trong các ngành lĩnh vực kinh tế quốc dân, các thành phần kinh tế, các vùng
kinh tế của đát nớc trong đó cần u tiên đa ngành công nghệ hiện đại thích hợp vào
các ngành, các lĩnh vực, các thành phần kinh tế, các vùng lãnh thổ mũi nhọn trọng
điểm, đạt hiệu quả kinh tế cao, tích luỹ nhanh và lớn. Có nh vậy mới tạo khả năng
thu hút và thúc đẩy CNH- HĐH các ngành, các lĩnh vực và các thành phần kinh tế.
5
chơngII: cơ sở thực tiễn
1.Sự cần thiết phải phát triển KH- CN
Cách mạng KH- CN đã và đang diễn ra mạnh mẽ ở các nớc phát triển, tức
là ở những nớc đã trải qua thời kì cách mạng công nghệ, đã xác lập đợc nền sản
xuất cơ khí hoá đã có nền KH và CN tiên tiến. Tuy nhiên, nó không chỉ hạn chế
trong ranh giới của các nớc phát triển mà ảnh hởng của nó đang lan ra tất cả các n-
ớc trên thế giới . Có thể nói cách mạng KH- CN là một hiện tợng toàn cầu, hiện t-
ợng quốc tế sớm hay muộn nó sẽ đến với tất cả dân tộc và các quốc gia trên trái
đất
Là một hiện tợng toàn cầu, cuộc mạng KH- CN mang trong bản thân nó
những qui luật chung, phổ biến, chúng tác động vào tất cả các loại hình cách mạng
KH- KT. Nhng mặt khác, mỗi nớc tiến hành cuộc cách mạng này trong những
điều kiện riêng của đất nớc mình cho nên cách mạng KH- KT ở những nớc khác
nhau cũng mang những màu sắc, những đặc điểm khác nhau. Do đó, khi xem xét
cuộc cách mạng KH- KT ở nớc ta cần phải đặt nó trong bối cảnh chung của cách
mạng KH- KT trên thê giới.
Sau khi giành đợc độc lập về chính trị, nớc ta có nguyện vọng sử dụng

những thành tựu của cuộc cách mạng KT- CN hiện đại, muốn tiến hành cuộc cách
mạng đó để phát triển kinh tế, văn hoá, khoa học và kỹ thuật để đa đất nớc ta khỏi
tình trạng nghèo nàn và lạc hậu. Nguyện vọng đó là hoàn toàn chính đáng. Tuy
nhiên, việc tiến hành cách mạng KH- CN ở nớc ta gặp phải những khó khăn lớn,
do nhiều nguyên nhân
Trớc hết, nớc ta còn ở tình trạng lạc hậu về mặt kinh tế, khoa học và công
nghệ. Nông nghiệp và công nghiệp cha hết hợp thành một cơ cấu thống nhất, sự
mất cân đối trong các ngành kinh tế quốc dân trở nên trầm trọng
Về mặt văn hoá, khoa học và công nghệ thì số đông dân c nớc ta vẫn ở tình
trạng mù chữ, thiếu lực lợng lao động có trình độ chuyên môn cao, thiếu cán bộ
văn hoá và kỹ thuật. Thêm vào đó, sự tăng dân số quá nhanh đã gây ra những khó
6
khăn cho việc bảo đảm lơng thực, giải quyết công ăn việc làm cho những ngời lao
động
Ngoài những khó khăn trong nớc, nớc ta còn phải chịu những di sản nặng nề
do sự nô dịch của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân để kại, đồng thời các
cờng đế quốc lại đang thực hiện chính sách kìm hãm sự phát triển khoa học và kỹ
thuật nhằm duy trì tình trạng bất bình đẳng của họ trong sự phân công lao động
quốc tế
Nếu nớc ta sau khi đã đợc giải phóng khỏi sự nô dịch của chủ nghĩa đế
quốc, lại chọn con đờng phát triển t bản chủ nghĩa hoặc đứng giữa ngã ba đờng
trong việc lựa chọn phơng hơng phát triển xã hội dù chúng ta có sự cố gắng nh thế
nào đi nữa trong việc sử dụng những thành tựu KH- CN hiện đại thì chúng ta cũng
không thoát khỏi địa vị phụ thuộc vào các nớc đế quốc về mặt KH- CN và do đó
phụ thuộc về mặt kinh tế, không thể khắc phục đợc những mâu thuẫn xã hội do
tiến bộ khoa học và kỹ thuật gây ra, không thể tiến hành thành công cuộc cách
mạng KH- CN
Do đó, điều kiện kiên quyết để tiến hành cách mạng KH- CN ở nớc ta là phải
tiến hành cải tạo xã hội sâu sắc, chống chủ nghĩa đế quốc, chống chủ nghĩa thực
dân mới và các thế lực phản động để đi lên CNXH.

Sau 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, khoa học và công nghệ nớc ta bớc
đầu có sự chuyển biến tích cực. Tuy nhiên cho đến nay, nền khoa học và kỹ thuật
nớc ta vẫn đang trong tình trạng lạc hậu, chậm phát triển cha đáp ứng đợc yêu cầu
của đất nớc
Về trình độ kỹ thuật- công nghệ, so với các nớc tiên tiến nhất trên thế giới,
chúng ta lạc hậu từ 50 đến 100 năm, so với các nớc tiên tiến ở mức trung bình ta
lạc hậu từ 1 đến 2 thế hệ
Với thực trạng đó, việc tiến hành cuộc cách mạng khoa học công nghệ ở
nớc ta không chỉ đợc coi là tất yếu khách quan, mà còn là một đòi hỏi bức xúc để
đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc.
Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là đến năm 2020 về cơ bản nớc
ta trở thành nớc công nghiệp. Khác với các nớc đi đàu, công nghiệp hoá nớc ta đòi
7
hỏi phải thực hiện rút ngắn. chỉ có nh thế, chúng ta mới có thể sớm rút ngắn đợc
khoảng cách và tiến tới đuổi kịp các nớc phát triển. Công nghiệp hoá phải gắn liền
với hiện đại hoá
Cùng với đó, yêu cầu đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trờng cũng đòi hỏi
chúng ta phải phát triển khoa học và công nghệ. Để chuyển sang nền kinh tế thị tr-
ờng hiện đại từ điểm xuất phát thấp, nớc ta không thể đi theo các bớc tuần tự nh
các nớc đi trớc đã làm, mà phải phát triển theo kiểu nhảy vọt,rút ngắn. Đây
vừa là cơ hội để tận dụng lợi thế của nớc phát triển sau, vừa là thách thức đòi hỏi
phải vợt qua. Muốn phát triển nhanh kinh tế thị trờng theo cách thức nh vậy, nhất
thiết phải đẩy mạnh phát triển khoa học- công nghệ.
Đẩy mạnh phát triển khoa học và công nghệ đối với nớc ta không chỉ bắt
nguồn từ đòi hỏi bức xúc của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và
quá trình phát triển kinh tế thị trờng, mà còn bắt nguồn từ yêu cầu phát triển đất n-
ớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Phát triển theo định hớng xã hội chủ nghĩa, về
bản chất, là một kiểu định hớng tổ chức nền kinh tế- xã hội vừa dựa trên nguyên
tắc và quy luật của kinh tế thị trờng, vừa dựa trên nguyên tắc và mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội. Định hớng này không chỉ đòi hỏi nền kinh tế tăng trởng ở mức cao

mà còn đòi hỏi phải xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.ở đó,
phát triển con ngời và phát triển xã hội bền vững đợc coi là trung tâm. Đâu là con
đờng phát triển chacó tiền lệ. Muốn đạt tới đó, chúng ta phải có nỗ lực và sáng tạo
rất cao, phải biết vận dụng những thành tựu mới nhất của nhân loại, tránh những
sai lầm mà các nớc khác đã vấp phải. Nếu không đủ trình độ trí tuệ, không đủ
năng lực nội sinh thì khó có thể thành công. Do vậy, đẩy mạnh phát triển khoa học
và kỹ thuật càng trở nên rất quan trọng và bức thiết.
2.Về hớng tác động của KH- CN
a. Tập trung nỗ lực tiến hành cải tạo, đồng bộ, hoá và hiện đại hoá có chọn
lọc các cơ sở sản xuất hiện có
Tuy cơ sở vật chất- kỹ thuật có của nớc ta còn nhỏ bé, trình độ công nghệ,
kỹ thuật vào loại lạc hậu, hệ số sử dụng thiết bị và công suất còn thấp. Bởi vậy,
8
nguồn dự trữ còn khá lớn và dới nhiều góc độ, đây thật sự đang là nguồn vốn quý
của đất nớc và phải bắt đầu từ đây để đi lên
b. Chủ động sử dụng có chọn lọc một số hớng công nghệ tiên tiến phù hợp
với thế mạnh của đất nớc nhằm chuẩn bị điều kiện phát triển các ngành có
hàm lợng công nghệ cao
ở nớc ta, cùng với việc tập trung nỗ lực KH- CN khai thác có hiệu quả cơ sở
vật chất- kỹ thuật hiện có, cũng cần phải chăm lo, dành một số phần tiềm lực d lớn
cho việc thử nghiệm, lựa chọn một sồ hớng công nghệ cao phù hợp để một mặt, hỗ
trợ cho việc giải quyết có hiệu quả hơn, mặt khác thúc đẩy việc hình thành một số
lĩnh vực sản xuất công nghệ cao với quy mô phù hợp để tạo ta các sản phẩm thay
thế nhập và tạo chỗ đứng trên thị trờng quốc tế.
Trong số những hớng công nghệ cao, cần quan tâm đầy đủ tới khâu tin học
hoá một số lĩnh vực hoạt động kinh tế xã hội. Cần có quyết tâm trong việc đầu t
phát triển một số lĩnh vực sản xuất gắn với các hơng u tiên của chơng trình tổng
hợp tiến bộ KH- CN. Đó là dịp tốt để VN tham gia vào phân công lao động quốc
tế về một số sản phẩm có hàm lợng khoa học cao
c. Thúc đẩy việc nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ của các xí nghiệp

nhỏ, của khu vực tiểu thủ công nghệp cả ở thành thị và nông thôn.
Kinh nghiệm thực tiễn chỉ ra rằng để có thể thực hiện có hiệu quả chiếm l-
ợc này, việc nhanh chóng khắc phục sự lạc hậu về công nghệ, sự yêú kém về năng
lực quản lý, sự thiếu hụt về lực lợng lao động có kỹ thuật là yêu cầu bức bách phải
giải quyết .Bởi vậy việc giành một phần nỗ lực đủ mạnh hớng vào việc giải quyết
các nhu cầu khoa học và công nghệ phục vụ phát triển công nghiệp nông thôn có
tầm quan trọng đặc biệt
Những phân tích nêu trên đã tới gợi ý quan trọng là chiến lợc phát triển
khoa học và kỹ thuật không thể không quan tâm đến việc nâng cao trình độ kỹ
thuật và công nghệ ,cải tiến .. và nên coi đây là một hớng có ý nghĩa chiến lợc cả
trớc mắt và lâu dài .
9
d.Kết hợp hữu cơ việc tập trung nỗ lực giải quyết các vấn đề trớc mắt và tiếp
tục tăng cờng tiềm lực khoa học và kỹ thuật nhằm đáp ứng những yêu cầu mới
của giai đoạn phát triển tiếp theo
3. Vai trò của KH- CN đối với một số lĩnh vực
a. Với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn và phát triển
nông thôn
Gần 20 năm qua sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã đạt đợc
những thành tựu to lớn góp phần quan trọng ổn định và phát triển kinh tế xã hội đa
nớc ta bớc sang giai đoạn mới đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất n-
ớc.Tuy nhiên cho đến nay với gần 80% dân số của cả nớc sống ở nông thôn, trong
đó tỷ lệ đói nghèo vẫn còn trên 22%, có nơi nh ở một số huyện miền núi còn trên
42%[theo chuân ngheò mơí]. Mặt khác cũng do nền kinh tế nớc ta mới bớc đầu
chuyển từ nền sản xuất theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế
thị trờng định hớng XHCN nên năng suất, chất lợng và sức cạnh tranh của nông
sản, hàng hoá còn rất thấp so với nhiều nớc trong khu vực và thế giới. Điều đó làm
cho thu nhập và tích luỹ của đại bộ phận dân c nông thôn còn bấp bênh, sức mua
có khả năng thanh toán về t liệu sản xuất và t liệu tiêu dùng đều rất hạn chế, gây
ảnh hởng lớn đến sự chuyển dịch cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế, đồng thời gây

cản trở việc, phát triển công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn nông thôn
So với các giải pháp khác, thì giải pháp về khoa học và công nghệ yêu cầu
vốn đầu t không quá lớn mà đem lại hiệu quả cao. Theo đánh giá chung, trong
nông nghiệp ớc tính 1/3 giá trị tăng của sản xuất lơng thực thời gian vừa qua là do
ngời dân tiếp thu, ứng dụng các tiến bộ khoa học và kỹ thuật mới vào sản xuất
Tuy nhiên, tiềm lực về KH- CN của nớc ta cha đợc phát huy đầy đủ cho sự
nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nhiều vấn đề bức xúc của sản xuất
nông nghiệp và kinh tế nông thôn đặt ra đối với các lực lợng KH- CN đến nay cha
giải quyết đợc, trong đó đáng lu ý hơn cả là :
- Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn là nội dung quan
trọng trong quá trình thực hiên CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, mà sự chuyển
đổi đó phụ thuộc vào việc tổ chức áp dụng thành tựu KH- CN vào sản xuất và các
10
chính sách thúc đẩy phát triển sản xuất. Chỉ trên cơ sở có đủ giống tốt và các tiến
bộ kỹ thuật khác, kết hợp với việc phát triển các quan hệ thị trờng đúng hớng mới
có thể chuyển cơ cấu sản xuất nông nghiệp từ thuần nông, độc canh sang đa dạng
hoá cây trồng. Hiện nay việc chuyển đổi kinh tế nông thôn từ nông nghiệp sang
công nghiệp, dịch vụ mới chỉ xuất hiện ở một số ven vùng có cơ sở hạ tầng kỹ
thuật, có trình độ dân trí cao, có khả năng tiếp thu các tiến bộ kỹ thuật
-Giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng nông, lâm, thuỷ sản hàng năm tuy chiếm
gần 40% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nớc, nhng nhìn chung, năng suất,
chất lợng và sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá còn thấp so với các nớc trong
khu vực và trên thế giới, khiến cho các sản phẩm làm ra tiêu thụ khó khăn, ảnh h-
ởng bất lợi đến thu nhập của ngời sản xuất. KH-CN cha có sự tác động cần thiết và
hiệu quả bản đảm tính ổn định, bền vững của nông sản hàng hoá khi gặp phải rủi
ro của thiên tai và thị trờng
- Phát triển công nghệ chế biến là nhiệm vụ hàng đầu trong quá trình thực
hiện CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn, nhng phát triển công nghiệp, chế biến
nh thế nào lại là vấn đề bức xúc đang đòi hỏi nghiên cứu và làm rõ
- Gần đây, Nhà nớc tiếp tục tăng cờng đầu t xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật

cho nông nghiệp, nông thôn. Hiện có rất nhiều vấn đề về kỹ thuật để bảo đảm hiệu
quả vốn đầu t của nhà nớc cha đợc giải quyết tốt. Do đó, nông nghiệp, nông thôn
đang rất cần có sự tác động của lực lợng KH- CN
Tình hình trên khẳng định vai trò của KH- CN trong quá trình thực hiện
CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn ở nớc ta hiện nay và đó cũng chính là những
yêu cầu bức xúc đặt ra đối với các nhà khoa học vì sự phát triển của nông nghiệp,
nông thôn. Tuy nhiên, để huy động đợc các lực lợng KH- CN phục vụ nông
nghiệp, nông thôn, chú ý các vấn đề về tổ chức bộ máy, cơ chế vận hành và các
chính sách tác động, trong đó cốt lõi là giải quyết hợp lý lợi ích cho ngời làm
nghiên cứu, triển khai các thành tựu của KH- CN.
Việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật, công nghệ, áp dụng các tiến bộ kỹ
thuật phục vụ kinh tế nông nghiệp và nông thôn là một việc làm hiệu quả, đã
khẳng định vai trò, động lực chủ đạo phát triển kinh tế nông nghiệp và chuyển đổi
11
cơ cấu kinh tế nông thôn, cần tổ chức, vận động thành phong trào rộng lớn đa KH-
CN về phục vụ CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn nhằm tạo ra bớc chuyển
biến rõ rệt về năng suất chất lợng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nông sản hàng
hoá, chủ động hội nhập cới khu vực và quốc tế, góp phần chuyển đổi nhanh cơ cấu
kinh tế nông nghiệp, nông thôn thực hiện đa dạng hoá cây trồng vật nuôi để có cơ
sở lựa chọn, nhân giống các sản phẩm có u thế ở từng vùng, từng địa phơng, phát
triển công nghiệp, công nghệ chế biến, ứng dụng các công nghệ sau thu hoạch
nhằm hạn chế tổn thất, duy trì chất lợng nông sản, khai thác các tiềm năng cha
phát huy hết, tăng cờng luận cứ khoa học để bảo đảm hiệu quả đầu t cho khu vực
nông nghiệp và nông thôn.
b. Mối quan hệ giữa KH- CN với sản xuất vật chất
Khoa học có nguồn gốc, bản chất, chức năng sứ mạng từ đời sống thực tiễn
của xã hội, con ngời. Nó không phải là bản thân công cụ lao động và sức lao động,
nhng cũng không nằm ngoài thành tố quan trọng nhất là lực lợng sản xuất. Nó
không thay thế, nhng nó có thể làm thay đổi mạnh mẽ, nhanh chóng tính năng
hiệu lực của công cụ lao động, sức lao động và do đó, phơng thức con ngời tác

động đến giới tự nhiên theo chiều hớng ngày càng tăng cờng sức mạnh, vai trò và
tự do của con ngời trớc thiên nhiên. Tuy nhiên, với tính cách là sản phẩm, giá trị
đã đợc sáng tạo ra, đã có sẵn, thì khoa học không còn là kết quả, mà lại dóng vai
trò nh một trong những nguyên nhân, động lực bên trong, trực tiếp thúc đẩy mạnh
nhất sự phát triển lực lợng sản xuất
Trong điều kiện thông tin hoá , toàn cầu hoá của đời sống xã hội và
kinh tế thế giới ngày nay, nhiều thành tựu của cuộc cách mạng KH- CN có thể đợc
chuyển giao tiếp nhận tơng đối nhanh chóng, dễ dàng, tạo ra cơ hội khách quan
thuận lợi cho sự phát triển đột biến, nhảy vọt và bứt phá về kinh tế ở những dân
tộc, quốc gia, hay khu vực nhất định trong những thời điểm, thời kỳ hay giai đoạn
nhất định. Nhng để tranh thủ tân dụng và phát huy đợc hết tiềm năng của cơ hội
bên ngoài này thì điều kiện tất yếu và tối thiểu là ở bên trong phải chuẩn bị xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và bồi dỡng nhân tố con ngời lao động ở một nức độ
tơng ứng, thích đáng. Kinh nghiệm thế giới về việc giải quyết mối quan hệ con
12

Cách mạng khoa học – công nghệ và tác động của nó đến con người và xã hội Việt Nam*

10/04/2020

PGS.TSKH. LƯƠNG ĐÌNH HẢI,

Viện Nghiên cứu Con người, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

Cách mạng khoa học - công nghệ [CMKHCN] hiện nay là một trong những đặc điểm căn bản của thế giới từ những năm 1950 đến nay. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 [cách mạng công nghiệp lần thứ tư], được đề cập với tần suất khá cao trong hơn một năm gần đây[1], về thực chất, là sản phẩm của cuộc CMKHCN, diễn ra từ giữa thế kỉ XX cho đến nay. CMKHCN đang ngày càng phát triển mạnh mẽ, sâu rộng trên toàn thế giới, thể hiện trên nhiều khía cạnh khác nhau. Nền tảng khoa học của cuộc cách mạng này trước hết là những phát minh vĩ đại trong lĩnh vực vật lí và hóa học cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, tạo ra cơ học lượng tử và các khoa học hiện đại sau này. CMKHCN hiện đại là sự hòa nhập, kết hợp thành một quá trình duy nhất các quá trình cách mạng trong khoa học, trong kĩ thuật, trong công nghệ và tác động mạnh mẽ đến công nghiệp, trong đó quá trình cách mạng trong khoa học đi trước, giữ vai trò dẫn đường và quyết định các quá trình kĩ thuật, công nghệ, công nghiệp và do đó cũng có vai trò dẫn đường và quyết định định hướng, quy mô, tốc độ phát triển sản xuất. Nghiên cứu khoa học được công nghiệp hóa, tri thức khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, sản xuất trở thành nơi thực hiện thực tiễn các tri thức khoa học. Tri thức khoa học trở thành cơ sở lí luận cho sản xuất, quản lí và phát triển xã hội ở các cấp độ vi mô lẫn vĩ mô và cả ở quy mô toàn cầu. Chính nhờ đó tốc độ phát triển của công nghiệp, của sản xuất và xã hội ngày càng phát triển với quy mô và nhịp độ nhanh hơn.

Trong CMKHCN hiện nay, các phát minh kĩ thuật, công nghệ và cả các ngành công nghiệp hiện đại đã được sinh ra từ các phòng nghiên cứu, thí nghiệm[2]. Việc rút ngắn khoảng cách về mặt thời gian giữa khoa học, kĩ thuật, công nghệ và việc thực hiện thực tiễn chúng trong sản xuất là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của cuộc CMKHCN hiện nay, và là một trong các tính quy luật của tiến bộ khoa học, kĩ thuật và công nghệ trong thời đại ngày nay[3]. CMKHCN tạo ra sự tích hợp không chỉ trong khoa học mà còn trong cả kĩ thuật, công nghệ và sản xuất. Nếu trước đây khoa học đứng bên ngoài, bên cạnh kĩ thuật và công nghệ, đứng cách xa sản xuất thì ngày nay chúng hòa lẫn, thâm nhập vào nhau trở thành một khối thống nhất. Nhiều công nghệ sản xuất mới gắn liền các phát minh trong các khoa học cơ bản, các phát kiến công nghệ trong các phòng nghiên cứu, thí nghiệm.

Cách mạng khoa học - công nghệ làm xuất hiện những ngành khoa học mới, tạo ra cách mạng công nghiệp 3.0 và 4.0 với nhiều ngành công nghiệp mới và làm chúng phát triển nhanh chóng, có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ nền công nghiệp và đời sống xã hội. Nó cũng làm biến mất nhiều ngành công nghiệp đã được tạo ra trước đây, đã từng thống trị, chi phối nền sản xuất. Cùng với việc sử dụng các công nghệ tổ hợp đa thành phần trong cùng một chu trình sản xuất thay cho phương thức công nghệ một thành phần, nó đang tạo ra bước ngoặt trong sự phát triển các lực lượng sản xuất, tạo ra hai cuộc cách mạng công nghiệp, và do vậy, nó đang cải biến toàn bộ nền sản xuất xã hội nói chung.

Cách mạng khoa học - công nghệ diễn ra với quy mô ngày càng lớn hơn, sâu rộng hơn, tốc độ nhanh hơn, dường như đồng thời trên quy mô toàn cầu, đến mức không thể kịp nhận đoán “hình dạng” của ngày mai. Nó thể hiện đồng thời, đồng loạt, cộng hưởng, đột biến, bất ngờ, ảnh hưởng dữ dội, quy mô lớn và sâu rộng so với các giai đoạn lịch sử trước đây trong sự phát triển của khoa học, kĩ thuật và công nghệ.

Thông tin và tri thức khoa học trở thành yếu tố đặc biệt quan trọng của sản xuất và đời sống xã hội, ngày càng có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của các lực lượng sản xuất, tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, trở thành động lực của sự phát triển của cả sản xuất, con người và xã hội. Cách mạng khoa học - công nghệ đã tạo ra môi trường xã hội đặc biệt. Đó là môi trường thông tin, trong đó lao động thể lực được thay thế bằng lao động trí tuệ với những phẩm chất và năng lực tinh thần, đòi hỏi tính chất sáng tạo, độc đáo, cá nhân hóa. Thông tin, tri thức khoa học trở thành điều kiện, môi trường, nhân tố cấu thành và nội dung thiết yếu của quá trình sản xuất, là nguồn tạo ra của cải vô tận, là nguồn lực đặc biệt của sự phát triển con người và xã hội.

Cách mạng mạng khoa học - công nghệ tạo tiền đề cho nền sản xuất xã hội ở giai đoạn cách mạng công nghiệp 3.0 vượt qua trình độ sản xuất đại trà, đặc trưng của nền sản xuất cũ trước đây, theo nghĩa là sản xuất đại trà không còn có thể thống trị, phổ quát. Nền sản xuất giai đoạn cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ hướng theo các nhu cầu cá nhân - cá thể, đơn nhất, đặc thù. Nó đang làm chuyển dịch dần nền sản xuất xã hội ở quy mô toàn cầu vận hành theo những nguyên tắc mới: phi tiêu chuẩn hóa, phi chuyên môn hóa, phi đồng thời hóa, phi tập trung hóa, phi tối đa hóa và phi trung tâm hóa [A. Toffler, 1992: Burlaxki F.M., 2009].

Xuất hiện từ giữa thế kỉ XX, cho đến nay cuộc CMKHCN trải qua hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất kéo dài từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất cho đến những năm 1970. Giai đoạn này vẫn thường được gọi là cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật, giai đoạn từ những năm 1980 đến nay được gọi là cách mạng khoa học và công nghệ. Hiện nay ở một số nước, ở một số học giả[4], thuật ngữ cách mạng khoa học - kĩ thuật vẫn được dùng để hàm chứa cả giai đoạn hai của cuộc CMKHCN đã phân tích ở trên. Vì thế, họ không sử dụng thuật ngữ cách mạng khoa học và công nghệ hay cách mạng khoa học - công nghệ, mà sử dụng thuật ngữ cách mạng khoa học - kĩ thuật để chỉ những diễn biến cách mạng trong các lĩnh vực khoa học, kĩ thuật và công nghệ từ giữa thế kỉ XX đến nay. Ở nước ta, thuật ngữ cách mạng khoa học và kĩ thuật được sử dụng từ năm 1960 đến năm 1976, từ năm 1976 đến năm 1991 thì sử dụng khái niệm cách mạng khoa học - kĩ thuật, từ năm 1991 đến nay sử dụng khái niệm cách mạng khoa học và công nghệ. Chúng tôi cho rằng nên thống nhất sử dụng khái niệm cách mạng khoa học - công nghệ bởi nó tạo ra cả hai cuộc cách mạng công nghiệp 3.0 và cách mạng công nghiệp 4.0, khi nó bao hàm các quá trình cách mạng trong cả khoa học, kĩ thuật, công nghệ và công nghiệp không tách rời nhau.

Cách mạng khoa học - công nghệ là một trong những đặc điểm nổi bật của thế giới đương đại. Các biến đổi của đời sống xã hội và con người đều gắn liền với CMKHCN. Tốc độ phát triển con người và phát triển kinh tế, xã hội của các quốc gia, cũng như của các khu vực và thế giới, phụ thuộc ngày càng nhiều vào sự phát triển của CMKHCN. Nó chi phối ngày càng nhiều, ngày càng mạnh các biến đổi của đời sống xã hội và của con người [tuổi thọ, bệnh tật, sức khỏe, làm đẹp,…] trong mỗi quốc gia cũng như trên phạm vi toàn cầu. Sức mạnh quân sự, quy mô và tốc độ của các cuộc chiến tranh, sức mạnh tấn công và phòng thủ của các quốc gia phụ thuộc ngày càng lớn vào CMKHCN. Cuộc cách mạng đó quyết định các chiều hướng phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học, quan hệ quốc tế, giáo dục đào tạo, y tế và việc làm,… ở quy mô toàn cầu cũng như trong từng quốc gia riêng lẻ.

Cách mạng khoa học - công nghệ cũng tác động ngày càng mạnh mẽ đến những vấn đề toàn cầu. Một mặt, nó là công cụ, phương tiện hữu hiệu để có thể giải quyết những vấn đề toàn cầu đã và đang xuất hiện ngày một thêm căng thẳng đối với nhân loại. Mặt khác, nó cũng lại làm tăng thêm mức độ căng thẳng của một số vấn đề toàn cầu, thậm chí theo một số học giả, có thể làm xuất hiện những vấn đề toàn cầu mới. Những hậu quả tiêu cực do việc sử dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại [cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường, khủng hoảng sinh thái, vũ khí hủy diệt hàng loạt,…] đe dọa sự tồn vong và tương lai của mỗi con người và nhân loại nói chung.

Cách mạng khoa học - công nghệ đóng vai trò đặc biệt trong việc rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển giữa các quốc gia trên thế giới, nhưng đồng thời nó lại trở thành một trong những thách thức khó vượt qua được đối với các nước đang phát triển bởi những nước phát triển có tiềm lực khoa học và công nghệ mạnh, có thể đi vào tương lai với tốc độ nhanh hơn nhiều so với các nước có tiềm lực khoa học và công nghệ yếu kém hơn. Bằng cách đó nó gây ảnh hưởng khác nhau đến sự phát triển con người trong các quốc gia đang phát triển và các quốc gia phát triển.

Cách mạng khoa học - công nghệ, một mặt tác động trực tiếp vào đời sống xã hội và con người. Bằng cách gián tiếp hơn, nhưng lại mạnh mẽ hơn, nhanh chóng và sâu rộng hơn, nó tác động đến con người và xã hội thông qua cách mạng công nghiệp. Thông qua công nghệ, thông qua các sản phẩm trực tiếp của cách mạng công nghiệp thì những phát minh khoa học, kĩ thuật và công nghệ mới đi vào sản xuất và đời sống con người. Khoa học thực sự trở thành động lực của sự phát triển sản xuất và xã hội, nó tạo nên các sản phẩm và công nghệ mới, thúc đẩy sản xuất, con người, xã hội phát triển nhanh chóng.

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba và cách mạng công nghiệp lần thứ tư là sản phẩm trực tiếp của cách mạng khoa học - công nghệ hiện nay. Cách mạng công nghiệp là kết quả của sự phát triển rất nhanh chóng của khoa học, kĩ thuật và công nghệ. Trong cách mạng công nghiệp hiện nay những sản phẩm mới, công nghệ mới được tạo ra với tốc độ nhanh, mang tính cách mạng và được áp dụng ngay vào sản xuất, đời sống con người và xã hội, nhanh chóng tạo nên những thay đổi to tớn, những biến đổi cách mạng trong các lĩnh vực đó. Nền tảng kiến thức của cách mạng công nghiệp hiện đại chính là cách mạng trong khoa học và công nghệ.

Lịch sử nhân loại đã trải qua bốn cuộc cách mạng công nghiệp. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất bắt đầu từ khi có đầu máy hơi nước của Jame Watt vào giữa thế kỉ XVIII, kéo dài cho đến giữa thế kỉ XIX với nền tảng công nghệ là các phát minh cơ bản như máy hơi nước và công nghệ cơ khí như: máy kéo sợi, máy dệt, các lò luyện thép, tàu thủy, tàu hỏa chạy bằng hơi nước, sử dụng than đá. Nó diễn ra chỉ ở một số nước Tây Âu như Anh, Pháp, Ý, Hà Lan. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai từ giữa thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX dựa trên nền tảng của các phát minh về động cơ đốt trong, sử dụng dầu mỏ, động cơ diezen, ô tô, máy bay, máy phát điện và động cơ điện, sóng điện từ. Nền tảng công nghệ là các công nghệ điện từ. Nó diễn ra chủ yếu ở các nước Châu Âu và Bắc Mĩ, cụ thể là Tây Âu, Hoa Kì, Liên Xô và Nhật Bản.

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba diễn ra mạnh mẽ từ cuối những năm 1950 với các phát minh cơ bản trong nhiều lĩnh vực như máy vi tính, robot, các vật liệu siêu bền, siêu dẫn, siêu cứng, polime, năng lượng nguyên tử, vệ tinh nhân tạo, tàu du hành vũ trụ, máy bay siêu thanh và hàng loạt các công nghệ mới như công nghệ vi sinh, công nghệ gen, công nghệ thông tin, công nghệ số. Nền tảng công nghệ rộng lớn hơn cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và thứ hai, nhưng căn bản và chủ yếu là công nghệ điện từ, công nghệ sinh học, công nghệ số. Nó tạo ra được những bước nhảy vọt về năng suất lao động, về quy mô và tốc độ phát triển sản xuất, làm biến đổi mạnh mẽ nhất đời sống con người và xã hội.

Đến cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba, các lực lượng sản xuất của xã hội có những bước phát triển nhảy vọt, khoảng cách thời gian từ phát minh khoa học đến ứng dụng vào thực tiễn ngày càng được rút ngắn, vòng đời các công nghệ và do đó, vòng đời các sản phẩm cũng được rút ngắn. Khối lượng thông tin và kiến thức tăng theo cấp số nhân. Nhiều ngành công nghiệp truyền thống bị xóa bỏ dần dần nhưng các ngành công nghiệp mới lại xuất hiện nhanh chóng hơn, và được ra đời không phải trực tiếp từ sản xuất mà là từ các phòng thí nghiệm, các lí thuyết khoa học. Công nghệ laze, công nghệ nano, công nghệ số,... là những ví dụ điển hình. Với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba con người tiếp tục được giải phóng khỏi các chức năng thực hiện, gồm vận chuyển, năng lượng, công nghệ. Việc giải phóng con người khỏi chức năng quản lí có những bước tiến đột phá thực sự, do nó tạo ra các loại rô bốt, các dây chuyền sản xuất tự động hóa

In bài viết
Gửi Email
Các tin đã đưa ngày:

Video liên quan

Chủ Đề