Ví dụ về hợp tác song phương và đa phương

Ví dụ về hợp tác song phương và đa phương
Thứ trưởng Ngoại giao Đặng Hoàng Giang. (Ảnh: TTXVN)

Ngày 1/12, tại trụ sở Bộ Ngoại giao, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Đặng Hoàng Giang cùng Đại sứ Liên minh châu Âu (EU) Giorgio Aliberti và Đại sứ các nước Pháp, Thụy Điển, Ba Lan và Séc đã có cuộc trao đổi về hợp tác song phương và một số vấn đề đa phương giữa Việt Nam và EU.

Hai bên bày tỏ vui mừng trước quan hệ đối tác hợp tác toàn diện ngày càng phát triển tốt đẹp và cam kết sẽ thúc đẩy hợp tác trên nhiều lĩnh vực, trong đó có việc phấn đấu phê chuẩn Hiệp định bảo hộ đầu tư (EVIPA), tháo gỡ vướng mắc về thẻ vàng đối với thủy sản Việt Nam và ứng phó với dịch COVID-19 trong bối cảnh biến thể mới diễn biến phức tạp.

Về Hội nghị lần thứ 10 kiểm điểm Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT) dự kiến sẽ diễn ra trong tháng 1/2022 tại New York (Mỹ), hai bên đã trao đổi các ưu tiên của mình; nhất trí cho rằng, đây là cơ hội để các quốc gia thành viên khẳng định mạnh mẽ cam kết chính trị của mình, đánh giá tình hình thực hiện Hiệp ước NPT và đề xuất phương hướng, tạo xung lực mới cho việc triển khai Hiệp ước trong thời gian tới.

[Luxembourg sẵn sàng mở rộng hợp tác nhiều mặt với Việt Nam]

Thứ trưởng Đặng Hoàng Giang khẳng định, chính sách nhất quán của Việt Nam là ủng hộ việc chống phổ biến vũ khí hạt nhân, tiến tới giải trừ hoàn toàn và triệt để loại vũ khí này, đồng thời khẳng định quyền nghiên cứu, phát triển, sử dụng các thành tựu công nghệ vì mục đích hòa bình.

Việt Nam là thành viên của nhiều điều ước quốc tế quan trọng về không phổ biến vũ khí hạt nhân, trong đó có NPT và ủng hộ các sáng kiến, nỗ lực chung nhằm thúc đẩy giải trừ vũ khí hạt nhân, phấn đấu vì hòa bình quốc tế.

Về lĩnh vực biến đổi khí hậu, phía EU đánh giá cao sự tham gia tích cực và có trách nhiệm của Việt Nam tại Hội nghị biến đổi khí hậu COP 26 tại Glasgow (Anh) vừa qua; bày tỏ sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ Việt Nam về mọi mặt nhằm thực hiện các cam kết khí hậu trong thời gian tới.

Hai bên cũng nhất trí tiếp tục các trao đổi, đối thoại để tăng cường hiểu biết lẫn nhau trên những vấn đề cùng quan tâm khác trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, thiện chí và hợp tác trong những cơ chế hiện có./.

(TTXVN/Vietnam+)

Từ khóa liên quan số lượng

Câu hỏi question date

Ngày hỏi:27/09/2017

 Giao dịch thương mại quốc tế  Điều kiện thương mại quốc tế

Quan hệ đa phương là gì? Xin chào Ban biên tập Thư Ký Luật. Tôi tên là Khánh Linh, đang sống và làm việc tại Tp.HCM. Tôi đang cần tìm hiểu các quy định liên quan đến quan hệ đa phương. Cho tôi hỏi: Quan hệ đa phương là gì? Tại Việt Nam hợp tác đa phương thể hiện rõ ở những văn bản nào? Mong nhận được câu trả lời từ Ban biên tập Thư Ký Luật. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban biên tập Thư Ký Luật.       

Nội dung này được Ban biên tập Thư Ký Luật tư vấn như sau:

  • Ví dụ về hợp tác song phương và đa phương
  • Chào bạn.

    Trong xu thế toàn cầu hóa, quan hệ ngoại giao là một nghệ thuật tiến hành trong việc đàm phán, dàn xếp, thương lượng giữa những người đại diện cho một nhóm hay một quốc gia.

    Hiện nay, quan hệ đa phương là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong pháp luật Việt Nam và các văn kiện quốc tế. Mặc dù chưa có quy định cụ thể, nhưng chúng ta có thể hiểu quan hệ đa phương là hình thức ngoại giao giữa nhiều quốc gia, nhằm mục đích giải quyết những vấn đề chung như chiến tranh, hoà bình, hợp tác và đấu tranh để cùng tồn tại và phát triển. Các quốc gia có thể thiết lập quan hệ đa phương thông qua việc ký kết, thừa nhận các điều ước, công ước, hiệp định... quốc tế.

    Ví dụ điển hình cho quan hệ đa phương là sự ra đời của WTO - Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organization), được thành lập và hoạt động từ 01/01/1995 với mục tiêu thiết lập và duy trì một nền thương mại toàn cầu tự do, thuận lợi và minh bạch.

    Tại Việt Nam, định hướng chính sách "đa dạng hóa, đa phương hóa", trên thực tế, đã được thực hiện từ giai đoạn đầu thời kỳ đổi mới, có xuất phát điểm từ chính sách kinh tế đối ngoại. Tháng 5-1988, Bộ Chính trị khóa VI đã ra Nghị quyết số 13-NQ/TW về Nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới. Theo đó, quan hệ đối ngoại của Việt Nam bắt đầu được đẩy mạnh theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa. Về lĩnh vực, hoạt động ngoại giao từ quan hệ chính trị là chủ yếu sang quan hệ chính trị - kinh tế. Về đối tác, bên cạnh các nước xã hội chủ nghĩa, Việt Nam mở ra quan hệ với các nước Đông Nam Á, các nước phương Tây. Định hướng "đa dạng hóa, đa phương hóa" chính thức được đưa vào văn kiện Đại hội VIII (6-1996) và từ đó được tiếp tục khẳng định trong các văn kiện của Đảng.

    Tính đến nay có rất nhiều điều ước quốc tế đa phương mà Việt Nam là thành viên, trên nhiều lĩnh vực (chính trị, thương mại, nhân quyền...) có thể kể đến như:

    - Công ước quốc tế các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá 1966

    - Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị 1966

    - Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em 1989

    - Công ước Berne năm 1971 về việc bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật

    - Công ước Viên về mua bán hàng hóa quốc tế năm 1980 (CISG)

    ...

    Trên đây là nội dung liên quan đến quan hệ đa phương. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này vui lòng tham khảo thêm tại các văn bản có liên quan.

    Trân trọng!


Tin tức liên quan:

Việt Nam và Liên hợp quốc: Một ví dụ điển hình về hợp tác phát triển

(ĐCSVN) - Năm 2017, đánh dấu 40 năm ngày Việt Nam gia nhập Liên hợp quốc. Đây là sự kiện có ý nghĩa lịch sử của nền ngoại giao Việt Nam, mở ra một chương mới trong chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại của Việt Nam.

Ví dụ về hợp tác song phương và đa phương

Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc và Tổng Thư Ký Liên hợp quốc Antonio Guterres tại cuộc hội đàm ngày 31/5/2017.

(Ảnh: WordPress)

Việt Nam chính thức gia nhập Liên hợp quốc (LHQ) ngày 20/9/1977. Kể từ đó, quan hệ của Việt Nam với LHQ ngày càng phát triển. Ngay sau khi tham gia LHQ, Việt Nam đã tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ của các nước thành viên Liên hợp quốc để Đại hội đồng LHQ khóa 32 (1977) thông qua Nghị quyết 32/2 kêu gọi các nước, các tổ chức quốc tế viện trợ, giúp đỡ Việt Nam tái thiết sau chiến tranh. Mặt khác, chúng ta cũng tranh thủ được sự giúp đỡ về nguồn vốn, chất xám, kỹ thuật của LHQ phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế–xã hội của đất nước. LHQ trở thành một diễn đàn để Việt Nam triển khai các yêu cầu của chính sách đối ngoại.

Vị thế và vai trò của Việt Nam tại LHQ ngày càng được nâng cao. Việt Nam cũng đã chủ động và tích cực phối hợp với các nước Không Liên kết và đang phát triển để đấu tranh và bảo vệ các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương LHQ như nguyên tắc về bình đẳng chủ quyền, không can thiệp công việc nội bộ các nước, không sử dụng hay đe dọa sử dụng vũ lực... đồng thời và bảo vệ lợi ích của các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Ngày nay, khi Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới, việc đẩy mạnh mối quan hệ này và nâng cao hơn nữa hiệu quả của việc sử dụng nguồn hỗ trợ của LHQ nhằm phục vụ trực tiếp cho các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội.

Việt Nam chính thức gia nhập LHQ năm 1977, song một số tổ chức quốc tế đã viện trợ cho Việt Nam từ năm 1975. Trong giai đoạn này, Việt Nam vừa phải giải quyết những hậu quả nặng nề của chiến tranh, vừa phải tổ chức lại nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu và từng bước khôi phục sản xuất. LHQ đã tích cực giúp Việt Nam giải quyết những khó khăn nhiều mặt với tổng viện trợ đạt hơn 500 triệu USD. Các tổ chức tài trợ chính bao gồm: Chương trình Phát triển LHQ (UNDP), Chương trình Lương thực thế giới (WFP), Quỹ Nhi đồng LHQ (UNICEF), Quỹ Dân số LHQ (UNFPA), Cao Ủy LHQ về Người tị nạn (UNHCR), và Tổ chức Y tế thế giới (WHO). Các tổ chức này đã hỗ trợ đáng kể cho đầu tư của Chính phủ Việt Nam về các hạng mục phát triển xã hội, tập trung trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, chăm sóc, bảo vệ bà mẹ và trẻ em, dân số và kế hoạch hóa gia đình.

Hợp tác với LHQ đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho nâng cao trình độ công nghệ và thúc đẩy tiến bộ về khoa học-kỹ thuật ở Việt Nam, phục hồi và xây dựng mới một số cơ sở sản xuất, tăng cường năng lực phát triển. Đồng thời trong bối cảnh bao vây cấm vận, hợp tác với LHQ tạo điều kiện để Việt Nam tiếp cận được nguồn viện trợ của nhiều nước phương Tây.

Giai đoạn 1986-1996 là giai đoạn Việt Nam thực hiện đường lối đổi mới, theo đó nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là tiến hành đổi mới chính sách kinh tế, chính sách xã hội. Cho tới cuối những năm 1980, LHQ chiếm tới gần 60% tổng số viện trợ cho Việt Nam ngoài nguồn từ các nước xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn này, viện trợ không hoàn lại của LHQ cho Việt Nam đạt trên 630 triệu USD. Từ đầu những năm 1990, nhiều nước trong Tổ chức hợp tác và phát triển (OECD), các tổ chức tài chính quốc tế và khu vực nối lại viện trợ cho Việt Nam nhưng LHQ vẫn chiếm 30% viện trợ kỹ thuật từ bên ngoài.

Trong giai đoạn này, một số tổ chức đã nâng mức hỗ trợ như Quỹ Phát triển nông nghiệp (IFAD), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa LHQ (UNESCO), Tổ chức Phát triển Công nghiệp LHQ (UNIDO). Một số tổ chức khác cũng bắt đầu có hoạt động viện trợ trực tiếp như Chương trình kiểm soát Ma túy LHQ (UNDCP), Chương trình Môi trường LHQ (UNEP), Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) và thêm nhiều nước song phương cũng như các tổ chức tài chính tiền tệ như Ngân hàng thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) tham gia trong các loại hình dự án hỗn hợp đa-song phương.

Các dự án hợp tác là nguồn hỗ trợ đáng kể cho Chính phủ Việt Nam trong việc xây dựng chính sách phát triển, nâng cao năng lực quản lý của các cơ quan và trình độ cán bộ trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới; đồng thời LHQ tiếp tục có những đóng góp có giá trị đối với việc nâng cao trình độ kỹ thuật sản xuất, phát triển nguồn nhân lực khoa học-kỹ thuật, và giải quyết các vấn đề xã hội khác của Việt Nam.

Trong giai đoạn 1997-2000, LHQ dành ưu tiên cho các lĩnh vực xóa đói giảm nghèo và các chính sách xã hội; cải cách và quản lý phát triển; quản lý môi trường và tài nguyên thiên nhiên; điều phối viện trợ...

Trong giai đoạn hợp tác 2001-2005, LHQ có ba ưu tiên chính là thúc đẩy hơn nữa cải cách, xóa đói giảm nghèo và phát triển bền vững. Theo đề nghị của Chính phủ Việt Nam, LHQ chuyển mạnh hướng hỗ trợ kỹ thuật sang hỗ trợ các biện pháp cải cách về chính sách và thể chế kinh tế, doanh nghiệp nhà nước, hành chính công, luật pháp, lập kế hoạch đầu tư công, phát triển hệ thống ngân hàng, đồng thời mở rộng sang các lĩnh vực khác như phòng chống HIV/AIDS và các bệnh hiểm nghèo; hỗ trợ thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, thực hiện quyền bình đẳng nam nữ, tổ chức hàng năm Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ v.v.. Những ưu tiên chính trong giai đoạn này là thúc đẩy cải cách, tư vấn trong việc xây dựng mới hoặc sửa đổi nhiều bộ luật quan trọng, xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ thực hiện Chương trình 135, lồng ghép với việc thực hiện Các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDGs), hỗ trợ trong các nỗ lực bảo vệ thiên nhiên, nâng cao nhận thức của người dân về môi trường, xây dựng chiến lược và chính sách, nâng cao năng lực quản lý tài nguyên thiên nhiên, quản lý môi trường và đa dạng sinh học. Trong giai đoạn 2006-2011, viện trợ của LHQ cho Việt Nam đạt trên 400 triệu USD.

Trong giai đoạn 2007-2011, thực hiện chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, làm bạn với tất cả các nước, Việt Nam đã tranh thủ diễn đàn Liên hợp quốc làm cơ sở để tăng cường quan hệ với các tổ chức trong hệ thống Liên hợp quốc, mở rộng quan hệ song phương và đa phương với các nước và tổ chức quốc tế. Hoạt động nổi bật nhất trong giai đoạn này là Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo An (HĐBA) LHQ nhiệm kỳ 2008-2009. Đây là lần đầu tiên Việt Nam tham gia vào cơ quan quan trọng nhất của Liên hợp quốc về hòa bình, an ninh quốc tế trong bối cảnh HĐBA phải xử lý khối lượng công việc đồ sộ do xuất hiện nhiều vấn đề an ninh phức tạp, thêm vào đó là những thách thức an ninh toàn cầu mới và tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu.

Việt Nam tích cực thương lượng và trở thành thành viên chính thức của Công ước Cấm Vũ khí Hoá học (CWC) năm 1998, tham gia đàm phán và là một trong những nước đầu tiên ký Hiệp ước Cấm thử hạt nhân toàn diện (CTBT) năm 1996, tham gia và trở thành thành viên của Hội nghị Giải trừ quân bị (CD) năm 1996; tham gia vào quá trình chuẩn bị cho các Hội nghị lớn như Hội nghị Kiểm điểm NPT 2000, 2005 và 2010; Hội nghị về chống buôn bán bất hợp pháp vũ khí nhỏ năm 2001, 2003...

Việt Nam cũng tham gia đầy đủ và thực chất vào các cơ chế hoạch định chính sách của LHQ, như phục vụ việc Việt Nam giữ chức Phó Chủ tịch ĐHĐ LHQ năm 1997, tham gia Hội đồng Kinh tế Xã hội của Liên hợp quốc (ECOSOC) (1998-2000).

Việt Nam không chỉ thực hiện tốt nhiệm vụ thu hút viện trợ của các tổ chức phát triển LHQ mà còn chủ động xây dựng các hình thức hợp tác và tham gia vào các tổ chức này. Mô hình hợp tác 3 bên (ban đầu giữa Việt Nam, FAO, Xê-nê-gan về trồng lúa) đã được mở rộng và áp dụng rộng rãi, được coi là hình mẫu cho hợp tác Nam - Nam. Việt Nam cũng chủ động tham gia sâu hơn vào hệ thống LHQ thông qua việc là thành viên Hội đồng chấp hành UNDP/UNFPA (nhiệm kỳ 2000 - 2002), ECOSOC (1998 - 2000)… Trong giai đoạn này, Việt Nam đã tích cực phối hợp với các tổ chức phát triển LHQ thực hiện thí điểm sáng kiến “Một Liên hợp quốc”, được cộng đồng các nhà tài trợ đánh giá cao.

Trong giai đoạn hợp tác 2012-2016, trong khuôn khổ Sáng kiến Thống nhất Hành động – Một LHQ, Chính phủ Việt Nam và LHQ đang tích cực phối hợp triển khai Kế hoạch chung tiếp theo của LHQ giai đoạn 2012-2016, phù hợp với dự thảo Kế hoạch Phát triển kinh tế xã hội (SEDP) và Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội (SEDS) của Việt Nam. Kế hoạch chung này ưu tiên 3 lĩnh vực trọng tâm chính là: chất lượng tăng trưởng, bảo trợ xã hội và tiếp cận các dịch vụ xã hội; tăng cường tiếng nói và nâng cao quản trị công. Một cấu phần quan trọng của Sáng kiến Thống nhất Hành động – Một LHQ là Một Ngôi nhà chung, được cụ thể hóa bằng việc xây dựng Ngôi nhà Xanh chung LHQ tại Hà Nội. Đây là Ngôi nhà chung LHQ đầu tiên thân thiện với môi trường, được khánh thành nhân dịp Tổng Thư ký LHQ Ban Ki-Moon vào thăm Việt Nam tháng 5/2015. Là một trong tám nước thí điểm triển khai Sáng kiến Thống nhất hành động trên thế giới, nhìn chung, sáng kiến này đã đóng góp vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động, tăng cường gắn kết hệ thống của các tổ chức LHQ tại Việt Nam.

Kể từ 01/01/2014, Việt Nam chính thức trở thành thành viên Hội đồng Nhân quyền (nhiệm kỳ 2014-2016). Tháng 6/2014, Việt Nam lần đầu tiên cử lực lượng tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của LHQ. Hiện nay, Việt Nam đang tích cực vận động ứng cử vào HĐBA nhiệm kỳ 2020-2021.

Sự hợp tác giữa Việt Nam và LHQ là một ví dụ điển hình về hợp tác phát triển giữa các nước thành viên LHQ cũng như về vai trò của LHQ trong việc thúc đẩy hợp tác quốc tế nhằm giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội, văn hóa và nhân đạo. Tuy tổng số tiền viện trợ của LHQ dành cho Việt Nam trong hơn 30 năm qua chỉ hơn 2 tỉ USD nhưng đã có ý nghĩa hết sức to lớn vì LHQ tập trung hỗ trợ nhiều lĩnh vực thiết yếu về phát triển kinh tế, xây dựng thể chế, pháp luật, giải quyết nhiều vấn đề xã hội cấp bách. LHQ cũng đã hỗ trợ Việt Nam trong những giai đoạn khó khăn nhất sau chiến tranh trong điều kiện bị bao vây, cấm vận. Sự hợp tác này đã đạt được những kết quả tốt và có tác dụng tích cực, đáp ứng được yêu cầu của Việt Nam về phát triển kinh tế-xã hội trong từng giai đoạn. Những kết quả này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho những nỗ lực chung của Việt Nam và LHQ trong việc khắc phục những mặt còn tồn tại, mở rộng và nâng cao hơn nữa hiệu quả hợp tác hai bên, hỗ trợ tích cực cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa Việt Nam và góp phần nâng cao vai trò của LHQ trong thời kỳ mới.

Chương trình hợp tác giai đoạn 2017-2021 giữa Việt Nam và Liên hợp quốc trong khuôn khổ Sáng kiến Một LHQ đã cơ bản được xây dựng xong và đã trình Chính phủ Việt Nam chờ chính thức thông qua. Chương trình này tập trung vào mục tiêu hỗ trợ Chính phủ Việt Nam thực hiện Kế hoạch Phát triển Kinh tế-Xã hội giai đoạn 2016-2020 và các Mục tiêu Phát triển bền vững (SDGs). Chương trình bao gồm bốn lĩnh vực ưu tiên: Đầu tư vào Con người; Đảm bảo thích ứng với Biến đổi Khí hậu và phát triển môi trường bền vững; Thúc đẩy sự Thịnh vượng và Quan hệ Đối tác; Tăng cường Công lý, Hòa Bình và Quản trị toàn diện. Tổng ngân sách của Chương trình này dự kiến là 423.348.650 USD, trong đó 96.254.080 USD từ ngân sách thường xuyên; 68.135.684 USD từ các nguồn tài trợ khác và 258.958.886 USD cần phải tiếp tục huy động./.

Mạnh Hùng