Vị nữ anh hùng dân tộc đầu tiên trong lịch sử Việt Nam là ai

.

Cập nhật lúc: 06:15, 08/03/2020 (GMT+7)

(LĐ online) - Lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt có những điều thật kỳ lạ. Một trong những điều kỳ lạ và thú vị ấy là những bậc anh hùng đầu tiên của dân tộc nổi dậy chống lại ngoại bang xâm lược lại là những người phụ nữ, đó là Hai Bà Trưng, Bà Triệu. 

“Lạc tướng quên đâu lời tuyết hận

Non hồng quét sạch bụi trần ai

Cờ tang điểm tướng nghiêm hàng trận

Gót ngọc gieo hoa ngát mấy trời

Ải bắc quân thù kinh vó ngựa

Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi

Chàng ơi điện ngọc bơ vơ quá

Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ soi”.

Đó là nhưng câu thơ trong bài Trưng Nữ vương của nữ sỹ Ngân Giang viết về những bậc anh thư đầu tiên của nước Việt. 

Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng không chỉ diễn ra ở vùng đất của nước Việt mà đã lan sang tận các vùng phía Nam dãy Ngũ Lĩnh: 

“Đô kỳ đóng cõi Mê Linh

Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta”

(Đại Nam Quốc sử diễn ca)

Vị nữ anh hùng dân tộc đầu tiên trong lịch sử Việt Nam là ai
 

Mấy nghìn năm sau cuộc khởi nghĩa vĩ đại này, đầu thế kỷ thứ XVII, có hai danh thần nước Việt là Nguyễn Thực và Ngô Thì Nhậm đi sứ nhà Thanh còn nhìn thấy đền thờ Hai Bà Trưng trên đất Trung Quốc. Gần hai nghìn năm sau, ngày 9/7/1971, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai trong dịp tiếp đã nói với cố vấn Henry Kissenger của Hoa Kỳ: “Họ (Việt Nam - NV) là một dân tộc vĩ đại, anh hùng và đáng khâm phục. Hai nghìn năm trước, Trung quốc đã xâm lược họ, và Trung quốc đã bị đánh bại. Lại bị đánh bại bởi hai người đàn bà, hai nữ tướng". Không những vậy, tháng 7/1964, sau khi thăm Hà Nội dự hội nghị 3 nước Việt Nam, Trung Quốc và Lào, Thủ tướng Chu Ân Lai đã đến đặt vòng hoa tưởng niệm tại đền thờ Hai Bà Trưng. Không chỉ Chu Ân Lai, lãnh tụ Trung Quốc Mao Trạch Đông cũng hết lời ca ngợi Hai Bà Trưng là những người anh hùng vĩ đại.

Gần hai nghìn năm sau, phát biểu tại Hội nghị Thượng đỉnh kinh doanh APEC tại Đà Nẵng năm 2017, Tổng thống Mỹ Donald Trump ca ngợi: “Việt Nam là một đất nước mạnh mẽ. Từ những năm 40 sau công nguyên, Hai Bà Trưng đã khơi dậy tinh thần dân tộc của những người dân đất nước này. Đó là lần đầu tiên dân tộc Việt Nam đứng lên vì nền độc lập và niềm tự hào dân tộc của các bạn”.

Dù chính quyền do Hai Bà Trưng dựng nên chỉ được đúng 3 năm, nhưng đó là 3 năm quý giá của người Việt, 3 năm thật sự tự do và độc lập để đặt nền móng, để nuôi dưỡng tinh thần bất khuất và khát vọng về nền độc lập trường tồn của dân tộc Việt Nam.

Hai trăm năm sau, vào năm 248, có một bậc anh thư của nước Việt lại đứng lên lãnh đạo Nhân dân chống lại ách đô hộ của người phương Bắc, đó là Bà Triệu - Triệu Thị Trinh.

“Ru con con ngủ ngon lành

Để mẹ gánh nước rửa bành ông voi

Muốn coi lên núi mà coi

Coi bà quản tượng cưỡi voi bành vàng”

(Ca dao - khuyết danh)

Khi nước Việt Nam bị nhà Ngô đô hộ là khi ở Trung Quốc, thiên hạ chia 3 nước là Ngụy - Thục - Ngô. Nước Việt Nam khi ấy nằm dưới sự đô hộ của nhà Ngô. Để cung đốn cho cuộc chiến tranh với các nước Thục và Ngụy, nhà Ngô đã bóc lột dân ta thậm tệ. Khi được vua Ngô cử sang làm thứ sử nước ta, Chu Phù và đồng bọn đã ngang ngược hoành hành bắt dân ta cống nạp, phu phen tạp dịch lao khổ. Bởi sự đô hộ tàn ác này nên từ đó về sau, người Việt chúng ta gọi “giặc Ngô” để chỉ quân xâm lược các triều đại từ Trung Quốc xuống. Năm Đinh Mùi 1427, sau khi chiến thắng giặc Minh xâm lược, Nguyễn Trãi đã viết khúc ca khải hoàn với tên gọi “Bình Ngô đại cáo”, chứ không là “bình Minh đại cáo”. Sự ác độc của giặc Ngô còn được người Việt đưa vào cả trong kho tàng ca dao, tục ngữ của mình: “Giặc bên Ngô không bằng bà cô bên chồng”. 

Để đàn áp cuộc khởi nghĩa của người Việt Nam dưới sự lãnh đạo của thủ lĩnh Triệu Thị Trinh, nhà Ngô đã cử sang Việt Nam nhiều viên tướng đầy mưu mô xảo quyệt, một trong số đó là Lục Dận. Lục Dận là cháu đại đô đốc nhà Đông Ngô Lục Tốn. Lục Tốn chính là người đã đốt cháy nhiều vạn trại binh của Lưu Bị trong trận Di Lăng nổi tiếng làm cho Lưu Bị thua trận, bệnh và mất. Khi sang Việt Nam, Lục Dận đã thua rất nhiều trận nên trong quân Ngô phao tin đồn nhảm rằng Triệu Thị Trinh “vú dài 3 thước chấm đất, mỗi lần ra tận phải quấn vú lên”. Hình ảnh của thủ lĩnh người Việt đã được vẽ nên xấu xí như vậy nhưng rồi quân Ngô vẫn thất bại. Lục Dận đã bày ra một âm mưu quỷ quyệt là ra lệnh quân sỹ khi ra trước trận tiền đều cởi bỏ quần áo. Trong một lần giao chiến, quân Ngô đã cởi bỏ áo quần. Bà Triệu vì vậy mắc cỡ quay đầu voi chạy và quân ta tan rã. Người nữ anh hùng 22 tuổi ấy đã hy sinh giữa trận tiền. Xương thịt của bà đã hòa vào núi sông cây cỏ nước Việt trời Nam. Cho dù thất bại, những thế hệ người Việt Nam suốt hàng nghìn năm qua vẫn vẫn luôn ghi nhớ lời tuyên bố của bà lúc sinh tiền khi có người khuyên nên đi lấy chồng: "Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá trường kình ở biển Đông, lấy lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ, chứ đâu chịu khom lưng làm tì thiếp cho người".

Vị nữ anh hùng dân tộc đầu tiên trong lịch sử Việt Nam là ai
Triệu Trinh Nương (226-248)

Mười bảy thế kỷ sau, một thi nhân nổi tiếng là Tản Đà - Nguyễn Khắc Hiếu đã làm bài thơ “Vịnh Bà Triệu”: 

“Mê Linh khuất bóng, gái còn ai?

Bà Triệu nhà ta cũng đáng tài

Vùng vẫy non sông ba thước vú

Xông pha tên đạn một đầu voi

Duyên trần chẳng chút tơ vương mối

Nợ nước riêng mình gánh nặng vai

Thua được cũng cho Ngô biết mặt

Lam Sơn còn có gái tài trai”.

Đại thi hào người Nga Macxim Gorki đã viết: “Đời vắng mẹ hiền, không phụ nữ - Anh hùng, thi sĩ hỏi còn đâu?”. Một dân tộc có nhiều anh hùng trong kháng chiến là một dân tộc chịu nhiều đau khổ. Dân tộc Việt Nam không chỉ nhiều anh hùng trong kháng chiến mà còn có nhiều nữ anh hùng. Lịch sử đã thử thách dân tộc Việt quá nhiều phen khắc nghiệt. Trong những lần sinh tử ấy, đã có những bậc anh thư đứng lên “nợ nước riêng mình gánh nặng vai”, đó chính là Hai Bà Trưng, Bà Triệu - những vị anh hùng đầu tiên của dân tộc. 

VŨ TRUNG KIÊN

(Baonghean.vn) - Dù thời xưa, phận đàn bà 'ba chìm bảy nổi' nhưng sử sách vẫn lưu danh nhiều người phụ nữ vượt lên 'nữ nhi thường tình' để gánh vác quốc gia đại sự. Nhân ngày 8 tháng 3, Báo Nghệ An điểm lại những nữ anh hùng ghi dấu ấn sâu đậm trong lịch sử Việt Nam.

1. Trưng Trắc, Trưng Nhị

Vị nữ anh hùng dân tộc đầu tiên trong lịch sử Việt Nam là ai
 Khởi nghĩa Hai Bà Trưng. 

Xuất thân là con cháu dòng họ vua Hùng đất Mê Linh, vốn con nhà lạc tướng, nhưng mẹ hai bà là bà Man Thiện cũng kiêm cả nông tang. Từ nghề trồng dâu, nuôi tằm của gia đình mà hai chị em được mẹ lấy tên là Trứng Chắc, Trứng Nhị (lép), để chúng ta quen gọi ngày nay Trưng Trắc, Trưng Nhị.

Lớn lên theo dòng đời giữa vận nước rối ren, bị nhà Đông Hán đô hộ, Hai bà chẳng cam chịu ở trói mình trong chốn khuê môn, món võ siêng tập, tay kiếm siêng luyện, hai bà trở thành bậc quần thoa được người trong vùng ngưỡng mộ theo về.

Cuộc hôn nhân liên minh chính trị giữa Thi Sách và Trưng Trắc sau đó được tiến hành. Nhưng rồi, đấng phu quân đất Chu Diên (thuộc Hưng Yên nay) của bà chị cả đã bị đoạt mệnh trong tay tên Thái thú Tô Định, “Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên”, hai chị em nổi dậy khởi nghĩa. 

Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng nhanh chóng được nhân dân khắp nơi hưởng ứng, hào kiệt quanh vùng theo về, trở thành một cuộc khởi nghĩa đặc biệt khi trong hàng ngũ tướng lĩnh lãnh đạo đa phần là những nữ tướng vang danh, nào Lê Chân, Thiều Hoa, Xuân Nương…:

Cuộc khởi nghĩa thành công năm Canh Tý (40). Nhưng, nền nhất thống, thái bình “ngắn chẳng tày gang”. Qua ba năm đất nước được hưởng cảnh yên ổn, dân vui thú làm ăn, nhà Đông Hán sai Mã Viện sang Nam đàn áp. “Người ấy (chỉ Mã Viện – người dẫn) đánh nhau mấy hai bà ấy ở chỗ hồ Lãng Bạc (bây giờ là hồ Tây bên thành Hà Nội); hai chị em thua, cùng lui về; đến xã Hát môn, huyện Phúc Lộc (bây giờ là Phúc Thọ, ở tỉnh Sơn Tây), bực chí, nhảy xuống cửa sông Hát giang, tự vẫn” , việc ấy xảy ra năm Nhâm Dần (42). 

2. Nữ anh hùng Triệu Thị Trinh


Vị nữ anh hùng dân tộc đầu tiên trong lịch sử Việt Nam là ai
 Bà Triệu khởi nghĩa.

Theo dã sử, bà Triệu sinh ngày 2 tháng 10 năm Bính Ngọ (226) tại vùng núi Quan Yên (núi Nưa), thuộc huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa nay. Dân gian còn kể lại rằng, từ nhỏ cô gái họ Triệu đã tỏ ra là người quyết đoán, chính trực, luôn thể hiện sự căm phẫn trước những cảnh đàn áp, bóc lột dã man của bọn thống trị phương Bắc đối với dân ta.

Đó cũng là lý do vì sao bà nuôi chí lớn “thay trời hành đạo”, không bó mình nơi phòng khuê mà siêng năng luyện tập võ nghệ, bắn cung, cưỡi ngựa giỏi không kém bất cứ trang nam nhi tuấn kiệt nào. Khi có người đề cập đến chuyện chồng con, cô gái trẻ đã khảng khái bày tỏ nguyện vọng của mình: “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ. Há lại khom lưng chịu làm tì thiếp cho người ta”.

Năm Mậu Thìn (248), bà Triệu phất cờ khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa từ vùng núi Nưa lan rộng ra khắp quận Cửu Chân rồi quận Giao Chỉ. Đánh đến đâu nghĩa quân thắng như chẻ tre đến đó. Nhà Ngô lo sợ phải điều 8.000 quân do An Nam hiệu uý, Thứ sử Giao Châu Lục Dận (cháu danh tướng Lục Tốn của nhà Đông Ngô) chỉ huy sang đàn áp cuộc khởi nghĩa.

Đối mặt với khí thế ngút trời của nghĩa quân cùng bà tướng trẻ “mặc áo ngắn màu vàng, chân đi giày mũi cong, ngồi đầu voi mà chiến đấu” (theo Giao Chỉ chí) uy nghi lẫm liệt, quân Ngô trở nên khiếp sợ, bạc nhược. Giặc Ngô khâm phục bà Triệu và gọi bà là Nhuỵ kiều tướng quân (vị nữ tướng yêu kiều), rồi Lệ hải bà vương (vua bà vùng biển mỹ lệ).

3. Nữ Đô đốc Bùi Thị Xuân


Vị nữ anh hùng dân tộc đầu tiên trong lịch sử Việt Nam là ai
 Đô đốc Bùi Thị Xuân hiên ngang ngay cả khi đối mặt với cái chết.

Bùi Thị Xuân (? – 1802) quê ở thôn Xuân Hào, tổng Phú Phong, huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn, nay là thôn Phú Xuân, xã Bình Phú, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Bà là nữ tướng danh tiếng thời Tây Sơn, vợ danh tướng Trần Quang Diệu, cháu Thái sư Bùi Đắc Tuyên. 

Là phận gái thân bồ liễu nhưng ở bà không chỉ hội tụ đủ yếu tố cần thiết của người phụ nữ thời phong kiến với luân lý “tam tòng, tứ đức” mà những phẩm chất trí, dũng, liệt… của trang nam nhi tuấn kiệt cũng hiện diện nơi bà, đưa bà trở thành một trong những nữ danh tướng huyền thoại thời Tây Sơn, thậm chí là cả sử Việt cổ kim.

Thuở nhỏ thay vì làm bạn với đường kim, mũi chỉ thêu thùa, với cây đàn tỳ bà thánh thót, cô Xuân đi… học võ với thầy Đô thống Ngô Mạnh ở Thuần Truyền. Trong các môn sinh nam nữ, khả năng võ nghệ của Bùi Thị Xuân nổi bật, học đâu hiểu đó, đặc biệt giỏi môn song kiếm, do đó bà được sư phụ cho làm chức trưởng môn. Theo tương truyền, ngoài giỏi võ, Bùi Thị Xuân còn là người có nhan sắc, khéo tay, biết cả chữ thánh hiền, viết chữ rất đẹp. 

Nhờ giỏi võ mà tương truyền có lần bà cùng Trần Quang Diệu giết cả hổ dữ tấn công và cũng từ lần tương ngộ đó hai người nên vợ nên chồng, lại đồng chí hướng phò vua giúp nước, hai vợ chồng đầu quân theo khởi nghĩa Tây Sơn. Từ đây tài năng võ nghệ đã đưa Bùi Thị Xuân trở thành một nữ võ tướng tiêu biểu dưới triều vua Quang Trung. 

Cùng với chồng là tướng quân Trần Quang Diệu và các tướng lĩnh khác, Bùi Thị Xuân tham gia phong trào nông dân Tây Sơn, góp công đánh bại 29 vạn quân xâm lược Thanh năm 1789 (Kỷ Dậu) cùng vua Quang Trung, rồi chiến tranh đối đầu với Nguyễn Ánh. Tài nghệ binh bị, giỏi sử dụng quân, can đảm dũng lược trong chiến đấu, bà góp công lớn cho sự tạo dựng vương triều Tây Sơn, được Quang Trung phong là Đô đốc.

4. Nữ tướng Nguyễn Thị Định

Vị nữ anh hùng dân tộc đầu tiên trong lịch sử Việt Nam là ai
Nữ tướng Nguyễn Thị Định.

Nữ tướng Nguyễn Thị Định sinh ngày 15/3/1920, là con út trong 10 anh em tại một gia đình nông dân ở xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Lớn lên, cô út Định trở thành một thiếu nữ xinh đẹp, được gia đình nhắm gả cho một nơi giàu có. Nhưng được giác ngộ cách mạng từ năm 16 tuổi, bà quyết chọn ông Bích - một trong số các đồng chí cùng hoạt động với anh mình.

Sau cách mạng, Nguyễn Thị Định được bầu vào Tỉnh ủy Bến Tre. Từ đó, bà cùng các cán bộ lãnh đạo ở địa phương tổ chức cuộc kháng chiến của nhân dân Bến Tre. Sau khi Hiệp định Genève được ký kết Năm 1954, bà quyết định ở lại miền Nam chiến đấu.

Đầu năm 1960, bà một trong những người lãnh đạo Đồng khởi Bến Tre và là người chỉ đạo trực tiếp cuộc Đồng khởi đợt I (17/1/1960) với nòng cốt là các chị em phụ nữ. Cuộc đồng khởi thắng lợi, mở đầu cho phong trào Đồng khởi trong tỉnh và toàn miền Nam sau này.

Tên tuổi Nguyễn Thị Định, mà đồng đội và nhân dân thường gọi là chị Ba Định, gắn liền với cuộc đồng khởi như sóng triều vang dậy, lan khắp miền Nam. Sau này, Bác Hồ gọi đội quân của Nguyễn Thị Định là “đội quân tóc dài”.

Trong những năm sau đó, chị Ba Định được giao những trọng trách mới. Và bà đã khẳng định tài năng của mình trong vai trò nữ tướng. Bà đã chỉ huy các đơn vị văn công, tuyên huấn, du kích các cơ quan, đoàn thể tham gia đánh địch, đẩy trận càn Giônxơn City - trận càn lớn nhất của Mỹ ngụy vào tháng 2/1967.