Vì sao đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển bền vững

1. Đầu tư phát triển là gì?

Đầu tư phát triển là một hoạt động có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia, bởi lẽ đầu tư cho phát triển là hoạt động đầu tư trực tiếp nhằm tạo ra những năng lực mới trong sản xuất kinh doanh, tạo ra những tài sản mới cho nền kinh tế. Hiểu một cách đơn giản, đầu tư phát triển là việc dùng vốn có của hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra những giá trị mới.

Theo đó, các hình thức đầu tư của Quỹ đầu tư phát triển địa phương theo quy định mới bao gồm:

[1] Đầu tư thành lập tổ chức kinh tế.

[2] Đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế,

[3] Dầu tư theo hình thức hợp đồng [hợp đồng đầu tư theo phương thức đối tác công ty – PPP và hợp đồng hợp tác kinh doanh – BCC] hoặc thực hiện dự án đầu tư.

[4] Các hình thức đầu tư khác theo quy định của pháp luật về đầu tư.

– Đặc điểm của đầu tư phát triển:

Xem thêm: Chính sách giáo dục là gì? Đặc điểm và vai trò của chính sách giáo dục

Đầu tư phát triển có quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển thường rất lớn. Vốn đầu tư lớn nằm khê đọng lâu trong suốt quá trình thực hiện đầu tư.

Đầu tư phát triển có thời kì đầu tư kéo dài: thời kì đầu tư tính từ khi khởi công thực hiện dự án đến khi dự án hoàn thành và đi vào hoạt động.

– Đầu tư phát triển có thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài: thời gian vận hành các kết quả đầu tư tính từ khi đưa công trình vào hoạt động cho đến khi hết thời hạn sử dụng và đào thải công trình.

– Trong suốt quá trình vận hành đầu tư phát triển, các thành quả đầu tư chịu sự tác động của cả 2 mặt, cả tích cực và tiêu cực, các yếu tố tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội.

– Quá trình thực hiện đầu tư cũng như thời kì vận hành các kết quả đầu tư chịu ảnh hưởng lớn của các nhân tố về tự nhiên, kinh tế, xã hội vùng.

–Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao: do quy mô vốn đầu tư lớn, thời kì đầu tư kéo dài và thời gian vận hành các kết quả đầu tư cũng kéo dài…nên mức độ rủi ro của hoạt động đầu tư phát triển thường cao.

Bằng sự hiểu biết về giáo dục làm sáng tỏ luận điểm sau: “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [136.02 KB, 11 trang ]

BÀI THỰC HÀNH
Họ và tên: Nguyễn Văn Hoàng
Cấp bậc: Trung úy CN
Chức vụ; Học viên
Đơn vị: Lớp CVT2
Chủ đề: Bằng sự hiểu biết về giáo dục làm sáng tỏ luận điểm sau: “Đầu tư
cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển”
BÀI LÀM
Giáo dục là một hiện tượng xã hội nảy sinh, phát triển và tồn tại mãi mãi
cùng với xã hội loài người. Đó chính là hiện tượng thế hệ đi trước truyền đạt lại
cho thế hệ đi sau những kinh nghiệm xã hội đã tích lũy được trong lịch sử phát
triển của loài người, chuẩn bị cho họ bước vào cuộc sống lao động sản xuất và các
hoạt động xã hội khác. Nhờ lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội đó mà nhân cách
của mỗi người được hình thành và phát triển hoàn thiện hơn, sức mạnh thể chất tinh
thần của họ ngày càng được tăng lên. Chính vì vậy giáo dục được xem như là chức
năng tất yếu và vĩnh hằng của xã hội, là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội
về mọi mặt.
Các bậc vĩ nhân trong hoạt động và lãnh đạo cách mạng của mình đã xác
định vai trò vị trí giáo dục là nhân tố thiết yếu mở đường cho sự nhận thức và cải
tạo thế giới đồng thời cũng là vấn đề có ý nghĩa sống còn của cuộc cách mạng.
Khổng Tử cho rằng nhân cách con người được hình thành không chỉ thuần túy bởi
điều kiện môi trường sống mà còn do điều kiện giáo dục quyết định, với mỗi người
các đức tính như nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng cần phải được học tập, rèn luyện thì
mới phát triển đúng hướng và mới có thể vận dụng vào trong cuộc sống. Đối với
một dân tộc, theo ông giáo dục là nhân tố không thể thiếu được, một dân tộc dốt
không thể mạnh được. Khổng Tử đã nhận ra rằng: “Giáo dục, phát triển trí đức là
chìa khóa để phát triển kinh tế, đồng thời phát triển kinh tế là cơ sở cho phát triển
giáo dục và dân trí”. Và Khổng Tử cũng cho rằng giáo dục có ảnh hưởng trực tiếp
đến việc thực thi lẽ công bằng, đến tôn ti trật tự, đến thái độ của mỗi người đối với
cuộc sống cộng đồng. Ông thấy được giáo dục không chỉ có vai trò quan trọng
trong việc hình thành nhân cách của mỗi cá nhân mà còn quyết định đến vận mệnh


và tương lai của cả một dân tộc, vì vậy Khổng Tử đã chủ trương đề cao giáo dục
đào tạo con người.
Lê Thánh Tông [1442 - 1497] vị minh quân triều Lê qua danh thần Thân
Nhân Trung [1418 - 1499] đã cho khắc vào bia Quốc Tử Giám cương lĩnh của đất
nước: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Nguyên khí mạnh thì thế nước cường.
Nguyên khí suy thì thế nước tàn.”
Vua Quang Trung [1753 - 1792] người anh hùng áo vải đất Tây Sơn sau khi
đánh bại cuộc xâm lược của quân Thanh, lên ngôi Hoàng đế, qua danh sĩ Ngô Thời
Nhậm [1746 - 1803] nhà chính trị ngoại giao tài năng đã ra tuyên ngôn: “Xây dựng đất
nước phải lấy việc khuyến học làm đầu. Tìm lẽ trị bình lấy tuyển nhân tài làm gốc”.
Còn đối với V.I.Lênin Khi bước vào xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước Nga
Xô-Viết, ông đã từng nói “giáo dục đó là nhiệm vụ mà chúng ta đặt lên hàng đầu và
chúng ta phải chuẩn bị cho quần chúng xây dựng xã hội chủ nghĩa”. Ðây là một
mệnh đề có tính chiến lược thể hiện tư tưởng quan điểm, tầm quan trọng của giáo
dục. Chỉ có đầu tư cho giáo dục thì đất nước đó mới thực sự phát triển.
Giáo dục và đào tạo là một vấn đề hết sức quan trọng trong đời sống chính trị
của mỗi nước, là biểu hiện trình độ phát triển của mỗi nước. Hồ Chí Minh đã biết
làm giàu vốn văn hóa của mình bằng cách học hỏi, tiếp thu tư tưởng văn hóa
phương Đông và phương Tây. Người dẫn lời của V.I.Lênin: “Chỉ có những người
cách mạng chân chính mới thu hái được những điều hiểu biết quý báu của các đời
trước để lại”. Vì vậy, ở Việt Nam ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công
Hồ Chí Minh coi "Dốt" là một trong ba thứ giặc cực kỳ nguy hiểm của dân tộc cần
phải tiêu trừ ngay. Dốt là một thứ giặc vô hình cản trở cách mạng hết sức tai hại.
Bởi vì "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu", "dốt thì dại, dại thì hèn". Theo Hồ Chí
Minh: "một chế độ mới ra đời, điều cần thiết đầu tiên là nhanh chóng xóa bỏ nền
giáo dục nô lệ, Thực dân Pháp muốn làm cho dân ta ngu để trị"
Hồ Chí Minh đã xác định vị trí, vai trò của giáo dục và đào tạo là bước đầu
tiên của sự sống còn cho một quốc gia. Ngay sau khi hơn một tháng đọc "Tuyên
ngôn Ðộc lập" Người đã nói: "Nay chúng ta giành quyền độc lập. Một trong những
công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí" vì "Nước nhà

cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài". Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Bây
giờ xây dựng kinh tế, không có cán bộ không làm được. Không có giáo dục, không
có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế, văn hóa. Trong việc đào tạo cán bộ,
giáo dục là bước đầu"
Hồ Chí Minh quan niệm: "Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích
trăm năm thì phải trồng người" [câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân Hội nghị
cán bộ giáo dục toàn quốc ngày 13.09.1958].
Đầu thế kỉ XXI, nền giáo dục của loài người có những bước tiến lớn với
nhiều thành tựu mọi mặt. Hầu hết các quốc gia nhận thức sự cần thiết và cấp bách
phải đầu tư cho giáo dục. Đầu tư cho giáo dục được coi là đầu tư có lãi lớn nhất cho
tương lai của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng, mỗi gia đình, dòng tộc và mỗi cá nhân.
Hiện nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển ngày càng nhanh.
Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản
xuất. Trong bối cảnh đó, giáo dục đã trở thành nhân tố quyết định đối với sự phát
triển kinh tế xã hội. Các nước trên thế giới kể cả những nước đang phát triển đều
coi giáo dục là nhân tố hàng đầu quyết định sự phát triển nhanh và bền vững của
mỗi quốc gia.
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và coi trọng công tác giáo dục và đào
tạo. Ngay từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, phát triển giáo dục và đào tạo
cùng với khoa học công nghệ được xác định là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo
dục là đầu tư cho phát triển. Luật giáo dục 2005 của nước ta đã khẳng định: “Phát
triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài” [điều 9]. Tại điều 13 nhấn mạnh: “Đầu tư giáo dục là đầu tư phát
triển, Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục. Khuyến khích bảo hộ các quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước đầu tư cho giáo dục, trong
đó ngân sách Nhà nước giữ vai trò chủ yếu trong tổng nguồn lực đầu tư cho giáo
dục”.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, giáo dục và xã hội có một mối quan hệ
ràng buộc, tất yếu, hữu cơ mang tính quy luật. Chính sự phát triển của mối quan hệ
đó làm cho xã hội và giáo dục đều phát triển. Đặc biệt trong thời đại ngày nay giáo

dục được xem không chỉ là sản phẩm của xã hội mà đã trở thành nhân tố tích cực -
động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội loài người.
 Vai trò của giáo dục đối với kinh tế – sản xuất
Xã hội loài người muốn tồn tại và phát triển thì phải có việc thế hệ đi trước
truyền lại những kinh nghiệm lịch sử - xã hội cho thế hệ đi sau để họ tham gia vào
đời sống xã hội, phát triển sản xuất, thoả mãn ngày càng cao nhu cầu của con
người. Công việc đó do giáo dục đảm nhận. Bất kỳ một nước nào muốn phát triển
kinh tế, sản xúât thì phải có đủ nhân lực và nhân lực phải có chất lượng cao. Nhân
lực là lực lượng lao động của xã hội, là đội ngũ những người lao động đang làm
việc trong tất cả các ngành nghề, các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội… đảm bảo
cho xã hội vận động và phát triển đúng quy luật.
Chức năng kinh tế - sản xúât của giáo dục thể hiện tập trung nhất thông qua
việc đào tạo nhân lực. Cụ thể là giáo dục đào tạo những người lao động có trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ và phẩm chất nhân cách cao, giáo dục tạo ra sức lao động
mới một cách khéo léo, tinh xảo, hiệu quả để vừa thay thế sức lao động cũ bị mất
đi, vừa tạo ra sức lao động mới cao hơn, góp phần tăng năng suất lao động, đẩy
mạnh sán xuất phát triển kinh tế – xã hội. Chính giáo dục đã tái sản xuất sức lao
động xã hội, tạo ra lực lượng trực tiếp sản xuất và quản lý xã hội với trình độ, năng
lực cao. Gíao dục giúp cho mọi thành viên trong xã hội các cơ hội được mở mang
trí tuệ, trau dồi nhân cách, phát triển các sức mạnh tinh thần và thể chất để vươn lên
làm chủ trong lao động, trong cuộc sống cộng đồng.... Khi mọi thành viên của xã
hội đều được tiếp nhận một nền giáo dục đúng đắn thì xã hội thực sự được tái sản
xuất sức lao động với chất lượng cao hơn. Người lao động , do kết quả đào tạo của
nhà trường sẽ được phát triển hài hòa các năng lực chung và riêng và do đó xã hội
sẽ được tăng thêm sức lao động mới thay thế sức lao động cũ bị mất đi. Sức lao
động mới có chất lượng hơn sẽ đem lại năng suất lao động nhiều hơn.
Đặc biệt trong xã hội hiện đại, khi trình độ phát triển của nền kinh tế là do
trình độ của con người được giáo dục và đào tạo ra quyết định thì vai trò của giáo
dục càng được khẳng định. Trong nền kinh tế thị trường, nguồn nhân lực còn được
gọi là nguồn vốn nhân lực [cùng với nguồn vốn tài nguyên, nguồn vốn sản xúât và

nguồn vốn khoa học – công nghệ] với tư cách là một nhân tố tăng trưởng kinh tế.
Trong các nguồn vốn thì vốn nhân lực được coi quan trọng nhất bởi lẽ nó không
đơn thuần là một nguồn vốn mà nó còn giữ vai trò chủ thể đối với các nguồn vốn
khác, nó quyết định khả năng khai thác và hiệu quả sử dụng các nguồn vốn khác.
Theo lí thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại, tỉ lệ tăng GDP phụ thuộc vào tốc độ
tăng của các yếu tố đầu vào: nhân lực, vốn sản xuất, tài nguyên, khoa học – công
nghệ và hiệu quả sử dụng chúng. Tuy nhiên những nghiên cứu của các nhà kinh tế
học, quản lý xã hội và quản lý kinh tế đã thừa nhận vốn và kỹ thuật chỉ góp một
phần nhỏ vào tăng trưởng kinh tế, còn phần rất quan trọng của “sản phẩm thặng
dư” gắn liền với chất lượng nguồn nhân lực [trình độ được giáo dục về thể lực, trí
lực, tâm lực]. Vai trò của nhân lực ở chỗ, trước hết nó là một đầu vào của tăng
trưởng GDP, sau nữa nó còn có ý nghĩa quyết định đối với tỷ lệ tăng của các nguồn
lực khác.
Như vậy, với chức năng kinh tế - sản xúât giáo dục là động lực chính thúc
đẩy nền kinh tế phát triển và giáo dục phải đi trước sự phát triển kinh tế - xã hội.
Khi nền khoa học và công nghệ đạt đến trình độ phát triển cao, nhu cầu xã hội đa
dạng, người lao động phải là những người có trình độ học vấn cao, có kiến thức
rộng, có tay nghề vững, có tính năng động, sáng tạo… thì giáo dục phải đào tạo
nhân lực một cách có hệ thống, chính qui ở trình độ cao.
 Vai trò của giáo dục đối với chính trị – xã hội
Bên cạnh chức năng tái sản xuất sức lao động xã hội, giáo dục còn mang
chức năng chính trị -xã hội. Giáo dục không đứng ngoài chính trị mà nó là phương
thức tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách… của một chế độ
chính trị, giai cấp hay chính đảng cầm quyền. Giáo dục trực tiếp truyền bá hệ tư
tưởng chính trị, đường lối chính sách của giai cấp nắm quyền và trực tiếp đào tạo
chuẩn bị cho thế hệ trẻ tham gia vào cuộc sống, bảo vệ chế độ chính trị, xã hội
đương thời.
Xã hội nào cũng có cấu trúc của nó, đó là một tổng thể, một tập hợp bao gồm
các bộ phận, các yếu tố tạo thành xã hội như cộng đồng xã hội, dân tộc, giai cấp,
tầng lớp, nhóm xã hội.v.v… đã được hình thành một cách lịch sử – tự nhiên, tất yếu

khách quan trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Giáo dục tác động đến
cấu trúc xã hội là tác động đến tập hợp các bộ phận xã hội và tính chất của các mối
quan hệ giữa các bộ phận đó. Trong xã hội phong kiến, giáo dục góp phần không
nhỏ trong việc khoét sâu thêm sự phân chia giai cấp, xây dựng một cấu trúc xã hội
mang tính chất giai cấp và đẳng cấp rõ rệt. Những chính sách giáo dục phân biệt,
bất bình đẳng trong xã hội phong kiến đã duy trì vị trí đối kháng giữa các đẳng cấp
và giai tầng xã hội. Giáo dục xã hội chủ nghĩa góp phần làm cho cấu trúc xã hội trở
nên thuần nhất hơn bằng cách xoá bỏ sự phân chia giai cấp và làm cho các tầng lớp
xích lại gần nhau. Nền Giáo dục xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền giáo dục “của
dân, do dân, vì dân”, nền giáo dục bình đẳng cho tất cả mọi người, giáo dục góp
phần nâng cao trình độ học vấn chung đã làm cho các tầng lớp xã hội được xích lại
gần nhau. Nhờ đó, trong xã hội ta các tầng lớp xã hội tuy khác nhau về lợi ích xã
hội, về tính chất và trình độ xã hội, về hoạt động và phát triển xã hội, song cùng
đoàn kết, hợp tác đấu tranh xây dựng xã hội nhằm đạt tới mục tiêu chung: “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
 Vai trò của giáo dục đối với tư tưởng – văn hóa
Giáo dục có tác dụng to lớn đến việc xây dựng một hệ tư tưởng chi phối toàn
xã hội, hình thành ở mỗi cá nhân thế giới quan, tư tưởng chính trị, ý thức, tình cảm
và hành vi đạo đức phù hợp với các chuẩn mực xã hội. “Nền giáo dục Việt Nam là
nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng” [Điều 3, chương I,
Luật giáo dục 2005]. Nền giáo dục Việt Nam phải phục vụ mục đích chính trị tốt
đẹp và tư tưởng cao quý của Đảng Cộng sản Việt Nam, hướng tới mục tiêu xây
dựng và phát triển đất nước giàu mạnh.
Giáo dục là quá trình truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử – xã hội của các
thế hệ, quá trình này giúp cho mỗi cá nhân tích lũy kiến thức, mở mang trí tuệ, hình
thành và nâng cao trình độ văn hóa, đạo đức, thẩm mỹ cho mỗi cá nhân và cho toàn
xã hội. Một quốc gia giàu mạnh là một quốc gia có nền kinh tế vững mạnh, khoa
học công nghệ tiên tiến, chính trị bền vững và trình độ dân trí cao. Giáo dục góp
phần xây dựng và nâng cao trình độ dân trí – trình độ văn hóa chung cho toàn xã

hội. Nền giáo dục không chỉ hướng vào việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực mà
còn hướng vào quá trình phát hiện và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Giáo dục không chỉ thực hiện sứ mệnh lịch sử là chuyển tải nền văn hóa của
thế hệ này cho thế hệ kia mà còn là phương thức đặc trưng cơ bản để bảo tồn và
phát triển nền văn hóa của dân tộc và nhân loại. Giáo dục bảo tồn, phát triển nền
văn hoá dân tộc và nhân loại thông qua các con đường giáo dục, trong đó dạy học
là con đường cơ bản nhất. Thông qua các con đường giáo dục học sinh không chỉ
biết gìn giữ mà còn có khả năng làm phong phú, sáng tạo thêm những giá trị văn
hóa, những loại hình văn hóa đa dạng, đậm đà bản sắc dân tộc…
 Vai trò của giáo dục đối với xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa
Trong những nhân tố tạo nên sức mạnh tổng hợp để đưa đất nước tiến lên,
con người là nhân tố quan trọng bậc nhất, là nhân tố quyết định. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người xã hội
chủ nghĩa". Chúng ta sẽ tiến lên, sẽ chiến thắng trong cuộc thách thức mới của thời
đại, chủ yếu là bằng sức mạnh sáng tạo của con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Bởi vì, đối tượng của sự thách thức chính là con người Việt Nam, dân tộc
Việt Nam, và người đứng ra gánh vác nhiệm vụ phải giành thắng lợi trong cuộc
thách thức ấy cũng không phải là ai khác, mà chính là con người Việt Nam, dân tộc
Việt Nam. Con người luôn đứng ở trung tâm của mọi quá trình lịch sử, trên đất

Chú trọng đầu tư cho Giáo dục đào tạo

09/09/2020 - 11:08 AM
Cỡ chữ
Theo các chuyên gia kinh tế quốc tế, Việt Nam là một trong những quốc gia mà người dân rất quan tâm đến tương lai giáo dục của con em nên sẵn sàng đầu tư cho nền tảng giáo dục ban đầu với mức chi ngày một tăng cao. Đồng thời, với chủ trương của Chính phủ chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế, đầu tư cho giáo dục đã trở thành vấn đề được quan tâm và là lĩnh vực đầy tiềm năng, thu hút nhiều nguồn lực cả trong và ngoài nước trong những năm trở lại đây.

Cùng với Khoa học và công nghệ, Giáo dục và đào tạo được coi là quốc sách hàng đầu, có sức mạnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội, phát huy giá trị đất nước, văn hóa và con người Việt Nam. Trong bối cảnh của nền kinh tế mở cửa tại Việt Nam, quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng về giáo dục đang diễn ra ở quy mô toàn cầu đã tạo cơ hội thuận lợi để ngành này tiếp cận với các xu thế mới, tri thức mới, những mô hình giáo dục hiện đại, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, tạo thời cơ để phát triển. Đồng thời, bối cảnh cũng đặt ra những yêu cầu cấp bách cho ngành Giáo dục và đào tạo về nguồn nhân lực chất lượng, đặc biệt là việc tận dụng thời cơ phát triển nguồn lực con người trong giai đoạn dân số vàng. Không giống như các lĩnh vực khác, nguồn lợi từ đầu tư giáo dục bao gồm cả các giá trị kinh tế và phi kinh tế; có nguồn lợi có thể thu được ngay nhưng cũng có những nguồn lợi có thể thu được sau một khoảng thời gian dài về sau. Vấn đề chú trọng đầu tư cho giáo dục không chỉ là quan tâm đến một ngành mà còn là đầu tư cho phát triển đất nước, điều này thường được nhấn mạnh trong các chính sách phát triển giáo dục và đào tạo của Việt Nam.



Ảnh minh họa, nguồn Internet

Những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn dành sự quan tâm lớn cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo, đặc biệt là các chính sách đầu tư, đảm bảo tỷ lệ chi cho giáo dục từ 20% trở lên trong tổng ngân sách nhà nước. Cùng với sự tăng trưởng không ngừng của kinh tế xã hội, đầu tư cho giáo dục từ nguồn ngân sách nhà nước năm sau luôn cao hơn năm trước. Trong vòng 5 năm của giai đoạn 2016-2020, ngân sách nhà nước chi thường xuyên cho giáo dục đã tăng trên 32,2%. Trong năm 2016, ngân sách nhà nước được phân bổ chi cho giáo dục đào tạo và dạy nghề là 195,6 nghìn tỷ đồng [trong đó 34,6 nghìn tỷ lấy từ nguồn ngân sách Trung ương và 161 nghìn tỷ từ nguồn ngân sách địa phương]. Đến năm 2020, con số dự toán chi cho giáo dục đào tạo và dạy nghề là 258,7 nghìn tỷ đồng [trong đó 30,2 nghìn tỷ lấy từ nguồn ngân sách Trung ương và 228,5 nghìn tỷ từ nguồn ngân sách địa phương]. Thậm chí, chi tiêu công cho giáo dục/GDP của Việt Nam đang ở mức cao so với nhiều nước trên thế giới [4% năm 2019], kể cả so với một số nước có trình độ phát triển kinh tế cao hơn trong khu vực [Singapore 3,2% năm 2010, Thái Lan 3,8%].

Dữ liệu từ Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng cho thấy, giai đoạn 2016-2020, có 33 dự án đầu tư công được khởi công và hoàn thành, nhiều hơn 9 dự án so với con số 24 dự án đầu tư công giai đoạn 2011-2015. Điều đó cho thấy sự chú trọng, quan tâm của Nhà nước đến công cuộc phát triển giáo dục và đào tại tại Việt Nam không chỉ là chủ trương, chính sách mà đã được hiện thực bằng hành động cụ thể với mức độ đầu tư tăng đều qua các năm.

Nguồn ngân sách Nhà nước được tập trung ưu tiên đầu tư cho giáo dục phổ cập, giáo dục ở những vùng đặc biệt khó khăn, dân tộc thiểu số và các đối tượng chính sách xã hội, giáo dục năng khiếu và tài năng, đào tạo nhân lực chất lượng cao, đào tạo các ngành khoa học cơ bản, khoa học xã hội nhân văn, khoa học mũi nhọn và những ngành khác mà xã hội cần nhưng khó thu hút người học. Ngoài ra, các nguồn lực của nhà nước và xã hội đầu tư cho giáo dục và đào tạo còn hướng đến nâng cao tính tự chủ, phát triển năng lực hội nhập và cạnh tranh quốc tế.

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đẩy mạnh cơ chế, chính sách quy định trách nhiệm, nâng cao vai trò của các tổ chức, đoàn thể chính trị, kinh tế, xã hội trong đầu tư phát triển đào tạo nhân lực, đặc biệt đào tạo nhân lực chất lượng cao và nhân lực thuộc ngành nghề mũi nhọn. Quy định trách nhiệm của các ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, cộng đồng và gia đình trong việc đóng góp nguồn lực và tham gia các hoạt động giáo dục, tạo cơ hội học tập suốt đời cho mọi người, góp phần từng bước xây dựng xã hội học tập. Xây dựng và thực hiện chế độ học phí mới nhằm đảm bảo sự chia sẻ hợp lý giữa nhà nước, người học và các thành phần xã hội.

Nếu nhiều năm về trước, giáo dục đào tạo được xem như một lĩnh vực phúc lợi nhằm thỏa mãn nhu cầu học tập của xã hội, thì đến nay, khi vai trò của giáo dục đào tạo ngày càng tăng trong bối cảnh nền kinh tế tri thức phát triển, đầu tư vào ngành này không còn là công việc riêng của Nhà nước mà đã trở thành một ngành kinh tế “đặc biệt”. Được đánh giá là quốc gia có môi trường chính trị và xã hội ổn định, môi trường đầu tư an toàn cộng với tiềm năng phát triển giáo dục đào tạo tại Việt Nam vẫn còn rất nhiều dư địa đã thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài. Đặc biệt trong quá trình đàm phán để gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới [WTO], Việt Nam đã cam kết thực hiện Hiệp định chung về thương mại dịch vụ [GATS] đối với tất cả 12 ngành dịch vụ trong đó có giáo dục, điều đó có nghĩa giáo dục cũng là một dịch vụ trong hoạt động thương mại.

Trong thập kỷ qua, Việt Nam đã đạt được những thành công nhất định trong hoạt động thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào phát triển dịch vụ giáo dục. Các số liệu từ Tổng cục Thống kê cho thấy sự lạc quan và tín nhiệm của các nhà đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực giáo dục đào tạo tại Việt Nam với những dự án có quy môn lớn. Cụ thể, lũy kế đến năm 2009, cả nước có 128 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài cho giáo dục đào tạo với tổng vốn đăng ký đạt 275,8 triệu USD; riêng trong năm 2009 có 12 dự án với số vốn đăng ký 30,4 triệu USD. Sau khoảng 10 năm, lũy kế số dự án đã tăng gấp 4 lần lên [526 dự án] và số vốn đăng ký tăng rất mạnh gấp 15,8 lần [đạt 4.376,2 triệu USD] so với năm 2009. Riêng năm 2019 có 72 dự án được cấp phép mới với tổng vốn đăng ký đạt 67,4 triệu USD. Số lượng và nguồn vốn các dự án đầu tư vào dịch vụ giáo dục nhìn chung có xu hướng tăng. Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh vừa là 2 địa phương có dự án đầu tư nước ngoài đầu tiên trong lĩnh vực giáo dục, vừa là nơi thu hút nhiều nguồn lực đầu tư nhất trong lĩnh vực này. Đa số các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào giáo dục đào tạo tại Việt Nam có xu hướng nhắm vào mô hình chuỗi, trường liên cấp, trường song ngữ theo tiêu chuẩn quốc tế đi từ mầm non với khả năng có thể mở rộng trong tương lai, trung tâm giáo dục kiểu mới [toán tư duy, kỹ năng…], hệ thống trung tâm ngoại ngữ…

Đặc biệt, 2 Nghị định quan trọng là Nghị định số 135/2018/NĐ-CP ngày 4/10/2018 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 46/2017/NĐ-CP của Chính phủ quy định về điều kiện đầu tư và hoạt động trong lĩnh vực giáo dục và Nghị định số 86/2018/NĐ-CP 06/6/2018 quy định về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục đã tạo hành lang pháp lý thuận lợi với nhiều ưu đãi hơn, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài tiến vào lĩnh vực giáo dục tại Việt Nam. Theo đó, Nghị định 135 đã giúp đơn giản hóa yêu cầu về mặt pháp lý, vận hành và rút nhắn quy trình thủ tục hành chính; còn Nghị định 86 giúp giảm yêu cầu về nhân sự và tăng hạn mức tuyển sinh học sinh Việt Nam, giúp tăng tỷ lệ học sinh Việt Nam được học chương trình giáo dục của nước ngoài từ không được vượt quá 10% với cấp tiểu học và trung học cơ sở, 20% với cấp trung học phổ thông đến không vượt quá 50% đối với cơ sở giáo dục mầm non và cơ sở giáo dục bắt buộc.

Nhờ đó, trong 2 năm 2018 và 2019, đầu tư nước ngoài cho giáo dục đào tạo đã tăng vọt từ vị trí thứ 12 đã lên vị trí thứ 9 về vốn đăng ký trong số các ngành nhận đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Riêng khối trung tâm ngoại ngữ, tin học tính đến cuối năm học 2018-2019 đã đạt trên 3,9 nghìn trung tâm, tăng trên 1,1 nghìn trung tâm so với năm học trước, đặc biệt là các trung tâm ngoài công lập, trung tâm có vốn đầu tư nước ngoài đã đáp ứng được gần 2 triệu lượt người học. Sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực giáo dục đào tạo cũng góp phần giúp đa dạng hóa về phương pháp và nội dung giảng dạy, bắt nhịp với xu hướng chung của nền giáo dục quốc tế.

Một đặc điểm nữa ở đầu tư vào giáo dục khiến lĩnh vực này đặc biệt so với các ngành kinh tế khác đó là cùng lúc thu hút sự đầu tư từ cả hai phía cung và cầu. Không giống với các hàng hóa vật chất và dịch vụ khác có thể bị bão hòa do cung quá nhiều, cầu trong giáo dục được cho là không bao giờ được thỏa mãn vì sự phát triển của khoa học công nghệ và kiến thức trong giáo dục là không có giới hạn. Sức hút của giáo dục - đào tạo với các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước đến từ chính nhu cầu ngày càng cao của các bậc phụ huynh - những nhà đầu tư đặc biệt, không có nhu cầu hoàn vốn và luôn hào phóng khi đầu tư vào sự nghiệp giáo dục cho con em mình. Theo một khảo sát người tiêu dùng của Nielsen, cha mẹ Việt rất xem trọng tương lai giáo dục của con em và việc chi tiêu cho giáo dục có thể chiếm tới một nửa tổng chi tiêu của gia đình [khoảng 47%]. Các bậc phụ huynh cũng có nhiều hơn các sự lựa chọn cho con em mình tại các trường tư chất lượng cao chứ không còn mang nặng tư tưởng phải học trường công như trước. Yêu cầu ngoại ngữ để phát triển công việc của nền kinh tế mở cũng khiến lượng học sinh học tại các trung tâm ngoại ngữ, tư duy ngày càng tăng.

Bên cạnh đó, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, nhất là khi Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do thì xu hướng người nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam đã, đang tăng lên đáng kể. Theo Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, tính đến hết tháng 7/2019, có 91,2 nghìn người nước ngoài đang làm việc tại Việt Nam, trong đó có 81,9 nghìn người thuộc diện cấp giấy phép theo quy định của pháp luật Việt Nam vào làm việc theo 4 vị trí là chuyên gia, giám đốc điều hành, lao động kỹ thuật và nhà quản lý. Việc các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm và đề xuất đầu tư vào giáo dục đào tạo cũng phần nào đáp ứng nhu cầu học tập của con em các nhà đầu tư và các doanh nhân đến sinh sống và làm việc tại Việt Nam. Những cơ sở chất lượng cao theo tiêu chuẩn của những nền giáo dục tiên tiến nhất thế giới này không chỉ dành cho con em người nước ngoài, mà còn thu hút một lượng không nhỏ các gia đình Việt Nam có điều kiện và sẵn sàng chi tiêu vì kỳ vọng vào tương lai con em mình.

Là một nền kinh tế mới nổi, Việt Nam ngày càng tham gia mạnh mẽ vào thị trường toàn cầu, dẫn đến nhu cầu ngày càng tăng về lực lượng lao động chất lượng cao. Bên cạnh đó, tăng trưởng kinh tế lại gắn liền với tăng năng suất của lực lượng lao động và giáo dục đào tạo chính là mấu chốt quyết định chất lượng lao động. Vì vậy, đầu tư vào giáo dục được xem là chìa khóa để xây dựng đội ngũ nhân lực này, cũng là để nâng cao tính cạnh tranh của mỗi cá nhân trên thị trường lao động, vì sự tăng trưởng kinh tế - xã hội của quốc gia./.

Sau hơn 3 thập kỷ đổi mới, Giáo dục và đào tạo Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đã hình thành được một hệ thống giáo dục quốc dân tương đối hoàn chỉnh, thống nhất và đa dạng với đầy đủ các cấp học và trình độ đào tạo. Theo số liệu từ Niên giám thống kê 2019, Việt Nam có trên 15,4 nghìn cơ sở giáo dục mầm non, 27,7 nghìn cơ sở giáo dục phổ thông [bao gồm tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, phổ thông cơ sở, trung học], 237 trường đại học chính quy và trên 3 nghìn cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Trong năm học 2019-2020, quy mô học sinh, sinh viên cả nước có trên 5,3 triệu trẻ học giáo dục mầm non, 17 triệu học sinh tham gia học giáo dục phổ thông, trên 1,5 triệu sinh viên theo học ở các trường đại học chính quy và khoảng 2,2 nghìn học sinh sinh viên tốt nghiệp tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Trong đó chưa bao gồm các trường trung cấp chuyên nghiệp và cao đẳng do Bộ giáo dục và Đào tạo quản lý cùng số học sinh, sinh viên theo học tại các trường này và hệ thống các trung tâm giáo dục, trung tâm ngoại ngữ trên cả nước.

ThS. Bùi Thị Kim Cúc
Đại học Công nghiệp Hà Nội

Về trang trước Gửi email In trang

Video liên quan

Chủ Đề