Vì sao lại xuất hiện tình trạng đói tín dụng

Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú trao đổi về vấn đề "room tín dụng" - Ảnh:VGP/HT

Đây là ý kiến trao đổi của Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú về vấn đề dư luận quan tâm hiện nay là "room tín dụng" tại cuộc Họp báo về tình hình hoạt động ngân hàng 6 tháng đầu năm 2022.

Công cụ hành chính cần thiết để điều chỉnh thị trường

Thời gian qua, có một số ý kiến cho rằng, việc đặt ra room tín dụng mang phong cách "bao cấp", công cụ hành chính, không còn phù hợp với bối cảnh thị trường hiện tại, đồng thời, băn khoăn về việc chưa có tiêu chí rõ ràng, có thể gây hiện tượng "xin-cho", hay tiêu cực. Phân tích về vấn đề này, Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú cho rằng, công cụ room tín dụng áp dụng từ năm 2011 đến nay với nhiều mục tiêu. 

Thực tế, nhiều quốc gia, bao gồm những nước có nền kinh tế thị trường phát triển, vẫn phải kết hợp công cụ hành chính để khắc phục những khuyết tật thị trường.

"Không phải công cụ hành chính là không tốt, hành chính hay thị trường thì quan trọng nhất vẫn là hiệu quả tổng thể cuối cùng", ông Đào Minh Tú nhất mạnh.

Lãnh đạo NHNN chia sẻ thêm, room tín dụng không hề cứng nhắc và hoàn toàn minh bạch. Nội dung về room tín dụng được ghi rất rõ ngay trong Chỉ thị số 01/CT-NHNN về tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của ngành ngân hàng trong năm 2022.

Phó Thống đốc NHNN Đào Minh Tú phân tích thêm: Nếu không có ảnh hưởng của dịch COVID-19, hay cơ hội phục hồi kinh tế, nhu cầu vốn doanh nghiệp, hộ kinh doanh tăng nhanh, thì vấn đề room tín dụng không nóng như hiện nay. Cụ thể, nếu không có dịch, không gia hạn nợ, cơ cấu lại nợ cho doanh nghiệp, thì lượng vốn đã đủ để quay vòng, trả nợ. Nhưng do các nguyên nhân trên cộng với tình hình kinh tế phục hồi nên lượng vốn cần bổ sung tăng lên khá mạnh.

Như vậy, con số 14% chỉ tiêu có tính chất định hướng, không phải con số cứng, có thể điều chỉnh cao hoặc thấp hơn.

Bên cạnh đó, NHNN áp dụng công cụ room tín dụng cùng với các yêu cầu về an toàn vốn…Ngân hàng nào chất lượng tốt hơn, tín dụng lành mạnh hơn, tham gia nhiều hơn vào các mục tiêu chung của hệ thống và chủ trương của Chính phủ đương nhiên sẽ được ưu tiên nới room tín dụng hơn.

Sức ép cao nhưng vẫn giữ vững mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô

Ông Phạm Chí Quang, Phó Vụ trưởng phụ trách Vụ Chính sách tiền tệ [NHNN] phân tích thêm, để đánh giá về công cụ room tín dụng cần nhìn rộng dưới góc độ kinh tế vĩ mô cả trong và ngoài nước.

Bối cảnh hiện nay, áp lực lạm phát của kinh tế thế giới rất cao, do nền kinh tế Việt nam có độ mở cao, kim ngạch xuất nhập khẩu lên tới 190% GDP. Bên cạnh đó, giá nguyên liệu, đặc biệt giá dầu tăng cao, tác động lớn đến lạm phát.

Ông Phạm Chí Quang, Phó Vụ trưởng phụ trách Vụ Chính sách tiền tệ - Ảnh: VGP/HT

Ông Phạm Chí Quang dẫn chứng, các Ngân hàng Trung ương trên thế giới đang phải áp dụng loạt biện pháp thắt chặt chính sách tiền tệ mạnh tay. Riêng trong năm 2021, có 113 lượt tăng lãi suất, riêng 5 tháng đầu năm 2022, đã có 144 lượt tăng lãi suất trên phạm vi toàn cầu.

Về lãi suất, ông Phạm Chí Quang chia sẻ thêm: Cục Dự trữ liên bang Hoa Kỳ [Fed] quyết định tăng lãi suất cơ bản lên 0,75%, tác động lớn lên mặt bằng lãi suất và tỉ giá của nhiều nước, bao gồm cả Việt Nam.

Cho đến nay, riêng tỉ giá USD tăng trên 9% so với cuối năm 2021, do USD tăng giá lớn nên hầu hết các đồng tiền cơ bản của thế giới, đặc biệt trong khu vực, mất giá lớn. Đồng nhân dân tệ Trung Quốc mất giá 5,3%, won Hàn Quốc 4,7%, đồng Yên của Nhật Bản thậm chí mất giá gần 16%. Đây đều là các đối tác thương mại đầu tư lớn với Việt Nam.

Trong khi đó, NHNN Việt Nam lại hạ 3 lần lãi suất liên tiếp trong năm 2020, cố gắng bình ổn lãi suất năm 2021 và trong 6 tháng đầu năm 2022.

Dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, NHNN bám sát kinh nghiệm "dĩ bất biến ứng vạn biến", với mục tiêu quan trọng nhất là ổn định kinh tế vĩ , kiểm soát lạm phát.

NHNN sử dụng đồng bộ linh hoạt các công cụ lãi suất, thanh khoản, tín dụng, tỉ giá… kiểm soát an toàn, bảo đảm TCTD nằm trong khả năng kiểm soát, không ảnh hưởng thanh khoản thị trường.

Bối cảnh nước ngoài tăng lãi suất liên tục, nhưng mặt bằng lãi suất từ đầu năm cho vay ở Việt Nam hiện tăng nhẹ 0,09%, thể hiện nỗ lực lớn của NHNN, hệ thống các TCTD đã đồng hành cùng nền kinh tế, duy trì lãi suất cho vay hợp lý để không gây gánh nặng cho doanh nghiệp, người dân, vượt qua ảnh hưởng do khủng hoảng COVID-19.

"Nhìn vào tình hình chung mới thấy việc duy trì mặt bằng lãi suất ổn định, chỉ số CPI tăng vừa phải ở Việt Nam là nỗ lực lớn trong bối cảnh lạm phát toàn cầu bùng nổ", ông Phạm Chí Quang nói.

Nhìn lại lịch sử, ông Phạm Chí Quang cho hay: Trước khi áp dụng room tín dụng, từ năm 2011 trở về trước, có những năm tăng trưởng tín dụng rất nóng, lên tới 53,8%, gấp rưỡi bảng cân đối sau 1 năm. Điều này vượt xa khả năng quản trị, cân đối vốn của TCTD, dẫn đến hệ luỵ lớn là mất khả năng thanh toán.

Với bài học đó, NHNN phải áp dụng hệ thống kiểm soát đi bằng "2 chân". Trong đó, chân thứ nhất là quản trị hệ thống ngân hàng thương mại theo chuẩn mực quốc tế. Chân thứ hai là kiểm soát từ sớm, từ xa việc tăng trưởng và chất lượng tín dụng.

Thống kê 3 năm trở lại đây, nhu cầu tăng trưởng ngân hàng thương mại vượt xa khả năng cân đối vốn đều trên 20%.

"Nếu để ngân hàng thương mại tăng tốc độ lớn như vậy, tiền đổ vào nền kinh tế nhiều thì áp lực lạm phát lớn. Nếu các TCTD chạy đua tăng lãi suất huy động để có thêm vốn cho vay, lãi suất huy động tăng, đương nhiên khiến lãi suất cho vay tăng, rủi ro nợ xấu gia tăng, chưa nói đến vấn đề thanh khoản", ông Phạm Chí Quang phân tích.

Đại diện Vụ Chính sách tiền tệ khẳng định, điều chỉnh cấp room tín dụng được công bố công khai minh bạch ngay từ đầu năm. Về phía NHNN, cơ quan này luôn cập nhật về tình hình "sức khoẻ " chuẩn mực quản trị rủi ro… Điều chỉnh tăng trưởng tín dụng là công cụ bên cạnh công cụ quản lý các tỉ lệ an toàn của các TCTD. Trong 11 năm áp dụng room tín dụng, NHNN thường xuyên rà soát, cập nhật tình hình các TCTD. Thực tế, các TCTD tuân thủ các quy định về hệ số an toàn theo chuẩn quốc tế ngày càng cao như: Basel 1, Basel 2, có ngân hàng thương mại đang hướng tới chuẩn mực cao hơn là Basel 3.

Ông Phạm Chí Quang khẳng định: NHNN ưu tiên cho các TCTD có mức xếp hạng phân loại chất lượng cao hơn. Ngoài ra, có ngân hàng còn "gánh" nhiệm vụ tham gia xử lý ngân hàng thương mại yếu kém, đồng hành với NHNN thực hiện nhiệm vụ chính trị. Ở chiều ngược lại, NHNN sẽ có điểm trừ với các TCTD thường xuyên trong diện cảnh báo cho vay quá nhiều lĩnh vực rủi ro như đầu cơ bất động sản, chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp… Với các TCTD này, NHNN sẽ bảo đảm tăng trưởng tín dụng vừa phải duy trì chất lượng tài sản cao, hạn chế rủi ro hệ thống.

NHNN giám sát từng TCTD, cập nhật thường xuyên. Ngay cả trong trường hợp gần cạn room, thì các TCTD này sẽ phải tự động chuyển sang trạng thái phòng thủ, cân nhắc điều chỉnh khẩu vị rủi ro tín dụng, lựa chọn, cung cấp cho khách hàng tốt hơn, hay tập trung nhiều hơn vào các lĩnh vực định hướng mà Chính phủ ưu tiên.

Đây là giai đoạn "gạn đục khơi trong" bảo đảm các TCTD phải lựa chọn phân khúc khách hàng tốt. Ngoài ra, cũng không nên lạm dụng để khách hàng lớn có quan hệ tín dụng quá lớn, vay đến gần 15% vốn tự có ngân hàng, cần đa dạng hóa danh mục tín dụng để bảo đảm hạn chế rủi ro hệ thống.

"Về dài hạn, ngành ngân hàng hướng đến chuyển dần vai trò cung cấp vốn, đặc biệt là vốn trung dài hạn sang các phân khúc khác trong thị trường vốn như thị trường chứng khoán... Đó là định hướng điều hành chính sách tiền tệ hay room tín dụng của NHNN trong thời gian tới", ông Phạm Chí Quang nói.

Huy Thắng


“Tín dụng đen” là thuật ngữ được dùng để chỉ các hoạt động cho vay tài sản trong giao dịch dân sự giữa các tổ chức, cá nhân mà không qua hệ thống tổ chức tín dụng chính thức. Đặc trưng cơ bản nhất của tín dụng đen là cho vay với mức lãi suất cao vượt mức lãi suất tối đa theo quy định của Bộ luật dân sự và bị pháp luật nghiêm cấm. Chính vì vậy nó được gọi là tín dụng cho vay nặng lãi hay “tín dụng đen”. Tín dụng đen thường diễn ra như những hoạt động ngầm, âm thầm, không ồn ào, nhưng hệ lụy của nó ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự, có thể dẫn đến “khuynh gia, bại sản” cho các gia đình, cá nhân, thậm chí có tình huống siết nợ bạo lực đẫm máu và nước mắt, gây bất an cho xã hội.

Thực tế vài năm trở lại đây, hoạt động cho vay ngoài các tổ chức tín dụng được nhà nước cấp phép đang diễn ra khá sôi động. Chúng ta không còn xa lạ với hình ảnh tờ rơi dán khắp các cột điện, bờ tường, nơi công cộng từ thành thị cho tới nông thôn với các nội dung quảng cáo cho vay hấp dẫn, nhanh gọn, không thế chấp, không cần giấy chứng minh nhân dân, kèm theo là số điện thoại để liên hệ, rồi thậm chí một số cửa hàng trưng biển công khai với cái tên mỹ miều, nhân văn là “hỗ trợ tài chính” ngày càng phổ biến, cho đến sử dụng các trang mạng xã hội để quảng cáo rộng rãi nhằm tiếp cận người vay. Nói chung, đối tượng có tài sản cho vay tìm mọi cách tiếp cận người cần vốn và để giải ngân dễ dàng, các đối tượng này đưa ra những điều kiện vay hết sức dễ dãi.

Trong thời gian gần đây trên địa bàn cả nước đã xảy ra hàng trăm vụ vỡ nợ tín dụng đen, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của nhiều cá nhân và gia đình. Nạn nhân của các vụ việc liên quan đến tín dụng đen cũng rất đa dạng, thuộc nhiều tầng lớp, lứa tuổi, trình độ học vấn và nghề nghiệp khác nhau. Bện cạnh đó, do lòng tham hám lời, nhiều người đã rơi vào “bẫy” của tín dụng đen. Từ vai trò trung gian huy động, cho vay vốn với lãi suất cao đã vô tình trở thành vừa là nạn nhân vừa là đối tượng tham gia “đồng phạm” trong đường dây tín dụng đen. Hệ lụy phát sinh từ tín dụng đen dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật như bắt giữ người trái pháp luật, xâm phạm chỗ ở, hủy hoại tài sản, gây rối trật tự công cộng, thậm chí cưỡng đoạt, cướp tài sản, cố ý gây thương tích…

Việc cho vay và vay vốn ngoài các tổ chức tín dụng là quan hệ pháp luật dân sự, không phải là hành vi bị pháp luật cấm, thậm chí còn được khuyến khích để tổ chức, cá nhân, hộ gia đình hỗ trợ lẫn nhau giải quyết công việc trong cuộc sống. Hoạt động này chỉ vi phạm pháp luật khi xác định được là lãi suất cho vay vượt quá quy định và có tính chất “bóc lột”. Qua thực tiễn các vụ án đã xảy ra, để chứng minh được mức lãi suất cho vay trong hoạt động tín dụng đen tại thời điểm vay là rất khó khăn. Các đối tượng cho vay hầu hết không ghi mức lãi suất mà chỉ thỏa thuận miệng với người vay. Những chủ nợ này thường khấu trừ luôn tiền lãi vào tiền gốc ngay khi giao tiền nên người vay thường không bao giờ được nhận đủ số tiền vay ghi trong hợp đồng. Thậm chí có chủ cho vay còn biến tướng sang một dạng hợp đồng khác như hợp đồng cho thuê ô tô, xe máy tự lái…với số tiền lãi phải trả là số tiền thuê tài sản trong ngày để tránh việc bị phát hiện, xử lý của cơ quan chức năng và khi người vay không trả được nợ thì tố cáo họ lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Mới đây còn xuất hiện một dạng cho vay nặng lãi dưới hình thức hỗ trợ tài chính gọi là “bốc bát họ” cũng là một dạng tín dụng đen tinh vi che đậy bản chất bóc lột. Hành vi cho vay có tính chất “chuyên bóc lột” thật khó chứng minh, đó cũng chính là nguyên nhân khiến cho những vụ cho vay với lãi suất “cắt cổ” chỉ bị phát giác khi mà nó đã chuyển hóa thành những hành vi vi phạm pháp luật hình sự khác như bắt giữ người trái pháp luật, cố ý gây thương tích, cưỡng đoạt tài sản…

Tuy nguồn vốn ngân hàng đã và đang góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, giúp xóa đói giảm nghèo và bảo đảm an sinh xã hội, nhưng tín dụng đen vẫn có đất sống, vẫn len lỏi không chỉ ở vùng sâu, vùng xa mà tồn tại ngay giữa lòng thành thị. Mặc dù ai cũng hiểu tín dụng đen là tín dụng phi chính thức, là hình thức tín dụng tư nhân nằm ngoài khôn khổ hoạt động của hệ thống ngân hàng, nhưng vì sao nhiều người vẫn bị rơi vào vòng xoáy của “bẫy” vay nóng, trả lãi ngày, lãi tháng; Bởi lẽ, người dân cần có vốn sản xuất kinh doanh, tiêu dùng, giải quyết công việc đột xuất…nhưng do những bất cập trong hoạt động cho vay của hệ thống ngân hàng, do vẫn còn những kẻ hở trong các quy định của pháp luật, chế tài xử lý chưa nghiêm nên tín dụng đen vẫn có đất tồn tại.

Vì vậy, ngăn chặn và đẩy lùi tín dụng đen là một yêu cầu cấp thiết hiện nay của các cấp, các ngành, nhằm lành mạnh hóa thị trường tín dụng, ổn định cuộc sống của người dân, giữ gìn an ninh, trật tự. Để ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng này, cần có các giải pháp trước mắt và lâu dài. Trước hết cần tuyên truyền nâng cao ý thức của người dân về tín dụng đen, bẫy tín dụng đen, nhất là hệ lụy của nó gây ra. Tăng cường công tác truyền thông, xử lý nghiêm minh các vụ việc do tín dụng đen gây ra. Các cơ quan chức năng tăng cường công tác quản lý hoạt động của các tổ chức, cá nhân hoạt động tín dụng núp dưới vỏ bọc “công ty, cửa hàng hỗ trợ tài chính” đang mọc ra phổ biến hiện nay. Các ngân hàng, tổ chức tín dụng nhân dân cần mở rộng các khoản vay tín dụng tiêu dùng, có thêm nhiều các sản phẩm cho vay nhỏ, ngắn hạn; thực hiện tín dụng chính sách gắn với các chương trình xóa đói, giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới. Về lâu dài, cần sửa đổi, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động cho vay theo hướng chặt chẽ hơn; quy định chế tài xử lý về hình sự, hành chính cần nghiêm khắc hơn so với luật hiện hành./

Hoàng Văn Quý- VKSND huyện Hiệp Hòa

Video liên quan

Chủ Đề