Vì sao Nhật Bản có sự phát triển kinh tế mạnh mẽ trong giai đoạn 1950 1973

Sáng nay (4/7), các thí sinh kết thúc môn thi Lịch sử kỳ thi THPT quốc gia. Hànộimới cập nhật đề thi chính thức và gợi ý đáp án môn Lịch sử để thí sinh và bạn đọc tham khảo.

Vì sao Nhật Bản có sự phát triển kinh tế mạnh mẽ trong giai đoạn 1950 1973


Mời quý phụ huynh, học sinh và độc giả theo dõi GỢI Ý ĐÁP ÁN:

Câu 1. Tóm tắt sự phát triển kinh tế Nhật Bản từ năm 1952 đến năm 1973

Là thời kì có bước phát triển nhanh, nhất là từ năm 1960 đến 1973 và thường được gọi là thời kì phát triển “thần kì”. Nhật Bản đã vươn lên và trở thành một trong ba trung tâm kinh tế tài chính của thế giới cùng với Nhật và Tây Âu. + Tốc độ tăng trưởng bình quân từ 1960 đến 1969 là 10,8%, từ 1970 đến 1973 tuy có giảm nhưng vẫn đạt 7,8%, cao hơn nhiều so với các nước phát triển khác. + Năm 1968: kinh tế Nhật đã vượt Anh, Pháp, CHLB Đức, Italia, Canada và vươn lên thứ 2 thế giới tư bản sau Mĩ. + Từ đầu những năm 70 trở đi, Nhật trở thành một trong ba trung tâm kinh tế tài chính lớn của thế giới (cùng Mĩ và Tây Âu). * Nguyên nhân - Nhật rất coi trọng phát triển KH – KT và luôn đẩy nhanh sự phát triển bằng cách mua bằng phát minh sáng chế, áp dụng nhanh thành tựu KH – KT, hạ giá thành sản phẩm. - Con người được coi trọng và là vốn quý nhất, nhân tố quyết định hàng đầu. - Vai trò quản lí, lãnh đạo có hiệu quả của Nhà nước. - Các công ty Nhật Bản năng động, có tầm nhìn xa, quản lí tốt nên có tiềm lực và sức cạnh tranh cao. - Chi phí quốc phòng thấp nên có điều kiện tập trung nguồn vốn đầu tư cho phát triển kinh tế - Tận dụng tốt yếu tố bên ngoài để phát triển: chiến tranh Triều Tiên, chiến tranh Việt Nam để bán vũ khí. Những đơn đặt hàng ấy được coi như những ngọn gió thần thúc đẩy nền kinh tế Nhật Bản phát triển.

Câu 2

1. Công lao của Nguyễn Ái Quốc với cách mạng Việt Nam

- Tìm ra được con đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam, góp phần chấm dứt khủng hoảng về đường lối và giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam những năm cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX => đây là công lao đầu tiên và to lớn nhất của Nguyễn Ái Quốc - Có công lao trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác Lê-nin về nước, tích cực chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, tổ chức cho việc thành lập chính Đảng vô sản ở Việt Nam. - Bước đầu thiết lập mối quan hệ cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. - Có vai trò và công lao to lớn trong việc hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng vô sản ở Việt Nam vào năm 1930. - Soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu tiên cho Đảng. Đây là cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn, sáng tạo phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.

2. Những sự kiện chứng tỏ Nguyễn Ái Quốc bước đầu thiết lập mối quan hệ cách mạng Việt Nam và PTGPDT trên thế giới

- Tháng 12 – 1920: Dự Đại hội XVIII của Đảng Xã hội Pháp, bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. - Từ 1921 – 1923: Tham gia thành lập Hội liên hiệp thuộc địa, là chủ nhiệm,kiêm chủ bút báo Người cùng khổ; viết bài cho các báo Nhân đạo, Đời sống công nhân… - Từ 1923 – 1924: Dự Hội nghị Quốc tế Nông dân và Đại hội V của Quốc tế Cộng sản ở Liên Xô; viết bài cho tạp chí Thư tín Quốc tế và báo Sự thật. - 1924 – 1927: Tham gia thành lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông; thành lập nhóm Cộng sản đoàn, sáng lập Hội VNCMTN.

Câu 3

1. Suy nghĩ của anh/chị về khẳng định “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập”. Học sinh cần nêu được các ý sau:

- Khẳng định quyền của dân tộc Việt Nam sánh ngang với tất cả các dân tộc khác trên giới. - Thể hiện quyết tâm, lời thề giữ vững độc lập và tự do của dân tộc Việt Nam. Đấy cũng chính là góp phần vào bảo vệ “nguyên tắc dân tộc bình đẳng” của nhân loại tiến bộ.

2. Sự kiện chọn lọc thuộc 1 trong các thời kì 1945 – 1954, 1954 – 1975 để làm sáng tỏ quyết tâm của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh giữ vững quyền tự do và độc lập.

Học sinh có thể chọn 1 sự kiện bất kì nằm trong 2 giai đoạn trên nhưng cần có lập luận và dẫn chứng, lí lẽ rõ ràng. Gợi ý: sự kiện 19/12/1946 => Sau một thời gian đấu tranh ngoại giao vừa mềm dẻo, vừa cương quyết để giữ vững nền độc lập vừa giành được sau CMT8 nhưng thực dân Pháp quyết tâm cướp nước ta, xé bỏ Hiệp định sơ bộ và Tạm ước, kiến quyết xâm lược thì chúng ta đã kiên quyết đứng lên đấu tranh bảo vệ độc lập, tự do bằng sự kiện mở màn là Ngày Toàn quốc kháng chiến (19/12/1946).

Câu 4

1. Nội dung Hiệp định Giơ-ne-vơ có ghi:

- Thứ nhất: “Ở Việt Nam, quân đội nhân dân Việt Nam và quân đội viễn chinh Pháp tập kết ở hai miền Nam – Bắc, lấy vĩ tuyến 17 (dọc theo sông Bến Hải – Quảng Trị) làm giới tuyến quân sự tạm thời cùng một khu phi quân sự ở hai bên giới tuyến” Đồng thời cũng có ghi “Việt Nam tiến tới thống nhất bằng cuộc tổng quyển cử tự do trong cả nước sẽ được tổ chức vào tháng 7 – 1956 dưới sự kiểm soát và giám sát của một Ủy ban quốc tế (gồm Ấn Độ làm Chủ tịch cùng hai thành viên là Ba Lan và Ca-na-đa) => Như vậy, Hiệp định Giơ-ne-vơ không trực tiếp chia Việt Nam thành hai quốc gia với đường biên giới là vĩ tuyến 17 mà chỉ có 1 số điều khoản từ đó Mĩ và chính quyền Ngô Đình Diệm lợi dụng để tự chia cắt và thiết lập quốc gia mới ở miền Nam Việt Nam mà thôi.

2. Đây là ý mở, học sinh có thể tùy chọn 1 trong các gợi ý sau nhưng cần có dẫn chứng và lập luận rõ ràng:

- Kiên quyết giữ vững và bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Kiên quyết đấu trạnh nếu có bất cứ hành động đe dọa nào từ các thế lực bên ngoài. - Tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc thông qua các hình thức mặt trận dân tộc thống nhất. - Kiên trì sự lãnh đạo của Đảng… …. * Thanh niên càn làm gì để góp phần củng cố và phát triển nhân tố đó - Lập luận rõ ràng, bám sát vào vai trò và sứ mệnh của thế hệ trẻ đối với quốc gia, dân tộc: sẵn sàng sống, chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc, sẵn sàng lên đường khi Tổ quốc cần.

Nguồn: Ban chuyên môn Hocmai.vn

Tư bản Mỹ và thị trường Nhật Bản

Sau chiến tranh, Nhật có khoảng 1,5 triệu lính chết trận, khoảng 8 triệu thường dân chết hoặc bị thương. Hàng chục thành phố lớn bị tàn phá nặng nề và 2,5 triệu ngôi nhà đã bị hư hại nặng hoặc bị phá hủy hoàn toàn khiến 30% dân số Nhật Bản không có nhà ở. Tại thủ đô Tokyo, 65% khu vực dân cư bị phá hủy hoàn toàn và dân số từ 6,75 triệu giảm xuống còn khoảng 3 triệu.

Vì sao Nhật Bản có sự phát triển kinh tế mạnh mẽ trong giai đoạn 1950 1973
Nước Nhật hoang tàn sau chiến tranh

Về kinh tế, hầu hết các cơ sở sản xuất đều được chuyển sang sản xuất phục vụ chiến tranh và phần lớn bị phá hủy trong cuộc chiến. 6 triệu lính và dân thường Nhật Bản từ khắp các vùng chiến sự ở Thái Bình Dương quay trở về nước. Do đó, dù chiến tranh đã chấm dứt, người ta ước lượng rằng 10 triệu người Nhật có thể chết đói vì không đủ lương thực. Thất nghiệp trở thành gánh nặng của xã hội và trở thành lực cản trong quá trình khôi phục kinh tế.

Thế nhưng, việc khôi phục nhanh chóng lại kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh một phần là do các tập đoàn Mỹ khởi xướng. Bởi các tập đoàn Mỹ từng đầu tư vào Nhật Bản trước chiến tranh. Cuối năm 1941, tức là trước khi Mỹ tuyên chiến với Nhật sau vụ Trân Châu Cảng, mức đầu tư của Mỹ chiếm 3/4 tổng số vốn đầu tư nước ngoài vào ngành công nghiệp Nhật Bản.

Trong đó nổi lên công ty General Electric, một công ty con của Ngân hàng Morgan. General Electric nắm 16% vốn cổ phần của Tokyo-Shibaura Electric, một hãng có liên kết tài chính chặt chẽ với Zaibatsu “Mitsui”. Những khoản đầu tư lớn khác là của Asociated Oil đầu tư vào Mitsubishi Electric Petroleum (dầu khí), của Westinghouse vào Mitsubishi Electric (điện), của Oweno – Libby vào Sumimoto (xe hơi), của American Can vào Mitsui (thực phẩm đóng hộp)...

Vì sao Nhật Bản có sự phát triển kinh tế mạnh mẽ trong giai đoạn 1950 1973
 

Sau chiến tranh, các tập đoàn Mỹ được hưởng quyền bồi thường tổng cộng hơn 1 tỷ USD. Các tập đoàn này không những không bỏ qua việc đòi lại số vốn đầu tư của họ tại Nhật Bản mà còn muốn nắm lại hoạt động kinh doanh béo bở ở Nhật Bản. Đây là yếu tố quan trọng mà các ông chủ người Mỹ ra sức thúc giục Washington nhanh chóng thực hiện phục hưng nước Nhật.

Vì thế, Percy Johnson, Chủ tịch của Chemical Bank tuyên bố: “Cái mà nước Nhật cần, không phải là trừng phạt họ vì gây ra cuộc chiến tranh tàn khốc, mà là phục hồi lại tiềm năng kinh tế Nhật Bản càng sớm càng tốt”.

Trong danh sách 325 công ty Nhật Bản phải được tổ chức lại vì có liên quan đến chủ nghĩa phát xít, trên danh sách của Draper-Johnson chỉ có trên 20 công ty là thực hiện điều này. Và không có một ngân hàng nào của Nhật phải “tái cấu trúc”. Để tránh tai tiếng, một số ngân hàng tiến hành đổi tên trong một thời gian. Ngân hàng Mitsubishi tạm thời mang tên Chiyoda, ngân hàng Sumimoto mang tên Fuji…

Thay vì những chủ tập đoàn tài chính-công nghiệp bị thanh trừng bởi tòa án quốc tế sau chiến tranh, thì Tổng hành dinh Bộ Tư lệnh quân đội đồng minh (SCAP) lại “phù phép” cho các ông chủ này thoát tội. Như vậy, các tập đoàn tài phiệt phần lớn vẫn giữ nguyên.

Vì sao Nhật Bản có sự phát triển kinh tế mạnh mẽ trong giai đoạn 1950 1973
 

Bên cạnh đó, kế hoạch khôi phục kinh tế Nhật Bản được Mỹ khởi động theo kiểu “kế hoạch Marshall” ở châu Âu khi Chiến tranh Lạnh ngày càng sâu sắc như lời Bộ trưởng Quân lực Mỹ Royall tuyên bố trước công chúng Nhật Bản vào tháng 1/1946. Kế hoạch phục hưng kinh tế Nhật trong giai đoạn này được biết dưới tên Dodge, dưới sự hướng dẫn của Joseph Dodge, Chủ tịch Ngân hàng Detroit.

Ông này đã đến Nhật Bản dưới cương vị bộ trưởng vào tháng 2/1949 để làm cố vấn tài chính cho Douglas MacArthur, Tư lệnh tối cao các lực lượng Đồng minh. Và do đó, Chính phủ Mỹ đã cho Nhật Bản vay những số vốn lớn để phục hưng nền kinh tế.

Bước sang thập niên 1950, khi Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, hệ thống tổ hợp tài chính - ngân hàng - công nghiệp Nhật Bản ra sức thu lợi nhuận bởi những đơn đặt hàng béo bở đã được người Mỹ dành cho. Nhật Bản trở thành khu vực hậu cần chính cho Mỹ vì nó nằm sát ngay lò lửa chiến tranh Triều Tiên. Với lợi ích to lớn như vậy, Thủ tướng Nhật Bản Yoshida gọi cuộc chiến này là “quà tặng của thần linh” cho nước Nhật.

Năm 1951 với việc ký hiệp “Hòa ước San Francisco”, Nhật Bản được Mỹ bảo trợ trong khuôn khổ Hiệp ước an ninh Mỹ – Nhật. Nhờ đó, Nhật Bản tập trung vào phát triển kinh tế trong khi các cường quốc khác lo chạy đua về mặt vũ trang và bị sa lầy trong các cuộc chiến tranh.

“Viện trợ” đi đôi với “đầu tư”

Hiến pháp mới của Nhật Bản năm 1946 coi trong người phụ nữ hơn. Sau chiến tranh có thêm 26 trường đại học dành riêng cho phụ nữ. Trong Bộ Luật Lao động Nhật Bản đã đưa ra quy định trả lương công bằng cho phụ nữ. Nhờ thế mà một nửa sức lao động sản xuất của xã hội được giải phóng, tạo đà cho sự phát triển kinh tế.

Vì sao Nhật Bản có sự phát triển kinh tế mạnh mẽ trong giai đoạn 1950 1973
Hiến pháp mới của Nhật Bản năm 1946 coi trọng người phụ nữ hơn, biến họ thành lực lượng sản xuất của xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển

Những khối tài sản được chôn giấu trước và trong Thế chiến II cũng được Nhật Bản sử dụng để khôi phục và phát triển kinh tế.

Tháng 12/1952, lần đầu tiên Nhật Bản đã chính thức tuyên bố chính sách của họ ở Đông Nam Á mang đậm màu sắc kinh tế. Thủ tướng Nhật Bản Shigeru Yoshida đã nói “nhằm thúc đẩy mậu dịch, chính phủ sẽ thực hiện ngoại giao kinh tế… ký kết các hiệp ước thương mại, mở rộng và phát triển các cơ hội buôn bán, củng cố các ngành công nghiệp xuất khẩu”.

Dưới vai trò trung gian của Mỹ, từ thập niên 1950, Nhật Bản bắt đầu tiến hành xâm nhập thị trường Đông Á thông qua những khoản viện trợ “bồi thường chiến tranh”. Các khoản “bồi thường” này bắt đầu tăng mạnh vào những thập niên 1960, 1970.

Các nền kinh tế nhận được đầu tư của Tokyo ra sức phát triển kinh tế theo mô hình “đàn nhạn bay” với Nhật Bản là nước “đầu đàn”. “Viện trợ” đi đôi với “đầu tư” tại các thị trường hấp dẫn khiến kinh tế Nhật Bản tăng vọt.

Nhờ đó, chỉ trong vòng 15 năm (1958-1973), Nhật Bản lần lượt vượt qua Pháp, Anh, Đức vươn lên đứng thứ hai thế giới tư bản chủ nghĩa (sau Mỹ) về sức mạnh kinh tế. Nếu năm 1950, Tổng sản phẩm quốc dân của Nhật Bản mới đạt 24 tỷ USD, nhỏ hơn bất kỳ một nước phương Tây nào và chỉ bằng vài phần trăm so với Mỹ, thì đến năm 1973, Tổng sản phẩm quốc dân của Nhật Bản đạt khoảng 360 tỷ USD, chỉ thua Mỹ.

Giai đoạn này tốc độ tăng trưởng của kinh tế Nhật Bản đạt mức trung bình trên 10% (so với thời kỳ sau chiến tranh là 6%).

Nếu thập niên 1950, những sản phẩm điện tử như máy ảnh, sợi quang, các thiết bị bán dẫn không thể cạnh tranh với Mỹ và Tây Âu, thì đến thập niên 1970 các sản phẩm điện tử này đã thống trị thị trường thế giới. Các hãng xe hơi, xe máy trở thành đối thủ khó chịu của Mỹ và Tây Âu, trong khi công nghiệp đóng tàu của Nhật Bản đứng đầu thế giới. Các lĩnh vực như hóa chất, vận tải, luyện thép cũng đạt được nhiều thành tựu quan trọng.

Nguyễn Văn Toàn