Vì sao trịnh công sơn chết

Chụp lại hình ảnh,

Những người bạn một thời (từ trái sang): Trịnh Công Sơn, Đinh Cường, Trịnh Cung, Văn Cao

Một trong những người bạn của Trịnh Công Sơn đang gây nhiều dư luận với bài viết rằng cố nhạc sĩ là người có "tham vọng chính trị".

Là người bạn thân, cùng thời với một trong những nhạc sĩ được yêu thích nhất tại Việt Nam, Trịnh Cung có bài thơ được Trịnh Công Sơn chuyển thành ca khúc nổi tiếng, "Cuối cùng cho một tình yêu".

Nhưng trong bài mang tựa "Trịnh Công Sơn và tham vọng chính trị" ở trang mạng Damau, ông Trịnh Cung cáo buộc "rượu, phụ nữ và xu nịnh là một loại ma tuý tổng hợp đang nhấn chìm Trịnh Công Sơn" thời kỳ sau 1975.

Phần lớn bạn bè và nhà phân tích cho rằng Trịnh Công Sơn là con người phi chính trị, nhưng Trịnh Cung lại viết nhạc sĩ đã từng có lúc nghĩ đến việc xin vào Đảng Cộng sản.

Ông Trịnh Cung nói ông đã khuyên can, nhưng "không phải nhờ sự phân tích ấy mà Trịnh Công Sơn không trở thành đảng viên Đảng CSVN, mà bởi sự ngăn cản của nhạc sĩ Hoàng Hiệp, người giữ vai trò chính trị của Hội Âm Nhạc TP. HCM".

Chân dung một Trịnh Công Sơn hiện ra trong bài viết là một người cũng có tham vọng làm quan cả trong thời Việt Nam Cộng Hòa và sau 1975, không được tin dùng để rồi dẫn đến sự chán chường và buông xuôi.

Trả lời đài BBC sau khi đọc bài viết, em gái ông Trịnh Công Sơn, bà Trịnh Vĩnh Trinh, nói "cuộc sống và tác phẩm âm nhạc của anh Sơn đã nói lên tất cả".

"Gia đình có buồn, là vì trước đây anh Trịnh Cung thường xuyên đến nhà, quý mến gia đình đến độ anh đã xin mẹ Trinh cho đổi sang họ Trịnh vì tên thật của anh là Nguyễn Văn Liễu. Bây giờ lại viết bài về một người bạn đã qua đời, gia đình nghĩ nên để quý khán giả tự phán đoán."

Bà Trinh nói ngắn gọn: "Qua bài này, ông Trịnh Cung đã nói lên ông là ai."

Trong khi đó, phát biểu với BBC, ông Trịnh Cung giải thích vì sao bây giờ ông mới công bố bài viết.

"Tôi muốn chờ sự lắng xuống về tình cảm của mọi người đối với cái chết của Trịnh Công Sơn. Thời điểm hôm nay đã đủ dài. Ngoài ra, gần đây một số bạn bè của tôi sa sút sức khỏe, làm tôi ngại chờ ít lâu nữa, mình cũng có thể không còn đủ sức viết."

"Không phải mọi nhân vật liên quan đều đã chết, ví dụ ông Đinh Cường còn sống ở Mỹ. Một số nhân vật vây quanh ông Trịnh Công Sơn đều còn tồn tại, họ sẽ phản hồi. Những gì tôi sai, họ cứ trưng bằng cớ để chúng ta vẽ lại một chân dung trung thực hơn."

'Tài năng và cũng bình thường'

Ông Trịnh Cung nói cần tách biệt hai khía cạnh của Trịnh Công Sơn.

Chụp lại hình ảnh,

Ông Trịnh Cung nói Trịnh Công Sơn sau 1975 là 'người yếu đuối'

"Một là tài năng, có thể gọi là thiên tài âm nhạc, nhưng còn một con người mà ta vẽ vời là thiền sư, trong sáng thì ở đây, tôi muốn mô tả một thời kỳ xuống dốc của người bạn ấy."

Theo ông Trịnh Cung, giai đoạn trước và sau 1975 chứng kiến hai con người khác nhau của nhạc sĩ.

"Không phải do anh muốn, mà do thời cuộc đã đẩy anh vào một cuộc sống không đẹp như trước 75. Dù là trước 75, anh đấu tranh cho ai, tôi vẫn thấy đó là thời gian sống rất đẹp, khác hoàn toàn giai đoạn sau này."

"Cuộc sống của anh sau 75 là của một người yếu đuối, chấp nhận để được vui. Sau khi được ông Võ Văn Kiệt nâng đỡ, đưa anh quay lại Sài Gòn, từ đó anh xem mình có chỗ dựa. Mà ngay cả trước 75, có những người bạn ở phía đối nghịch cộng sản nhưng quý tài của anh, đã giúp anh nhiều."

Ông Trịnh Cung nói "như vậy, Sơn dễ bị những người có quyền lực, giàu có chinh phục anh."

Được hỏi ông nghĩ gì về phản ứng của độc giả, Trịnh Cung trả lời: "Những gì họ thấy đúng, họ cứ viết ra. Còn những gì tôi viết, tôi chịu trách nhiệm."

Chính trị hay không chính trị?

Một trí thức cùng thời với Trịnh Công Sơn, hiện sống ở Pháp muốn giấu tên, nói với BBC rằng theo ông, Trịnh Công Sơn là người "không chính trị. Ông có thể có những nhận biết sai lầm về chính trị, nhưng ông không làm chính trị."

Trong khi đó, nhà văn Hoàng Lại Giang, từ Sài Gòn, cũng từng có thời gian quen biết với Trịnh Công Sơn sau 1975, nói: "Đó là nghệ sĩ trong sáng, không bao giờ nghĩ đến chính trị."

Ông Giang cho rằng cố nhạc sĩ là người "ngây thơ, nên phải đi giữa hai làn đạn".

Nhắc lại những năm đầu sau 1975, khi Trịnh Công Sơn, giống như nhiều người dính líu miền Nam, gặp khó khăn trong đời sống, ông Hoàng Lại Giang nhớ lại:

"Lúc đó, người ta mang quan điểm Trịnh Công Sơn có tội. Thời ấy, Sơn rất khổ. Nhưng dần dần nhạc phẩm của anh đã thu hút các nhà cách mạng, kể cả ông Võ Văn Kiệt."

"Có lần bức xúc, anh Sơn đến giãi bày với ông Kiệt, thì ông ấy bảo: 'Tôi đây còn bị người ta theo dõi, anh bị theo dõi là chuyện bình thường. Mình cứ làm việc của mình.'"

Ông Giang kết luận: "Trịnh Công Sơn là con người của nghệ thuật. Bây giờ tôi còn mê Trịnh Công Sơn là vì thế."

Mời quý vị bấm vào đây để gửi ý kiến phản hồi về chủ đề.


Xuyên suốt thế giới âm nhạc Trịnh Công Sơn là tình yêu lứa đôi và một nỗi buồn thê thiết phận người. Đó là một thế giới quá vô thường, mỏng manh đến bàng hoàng. Trịnh Công Sơn đã gây dựng một thế giới tinh thần bất toàn trên cái nền tảng cũng bất toàn của Phật giáo đó là cõi người Sinh - Lão - Bệnh - Tử.

Trong cái nhìn thông thường, có một đứa bé chào đời, đó là một niềm vui. Nhưng với Phật giáo sự lý giải giản đơn chỉ là một kiếp luân hồi. Con người sinh ra để phải chịu bao nhiêu khổ đau. Vì vậy mà với Trịnh Công Sơn đó là một “tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người”. Trong cái nhìn tương đồng, kinh Cựu ước cũng viết rằng: “Hãy để ngày ấy lụi tàn, ngày mà tôi sinh ra đời và đêm mà người ta nói rằng đã có một con người được kết thành thai”.

Vì sao trịnh công sơn chết

Trịnh Công Sơn và Khánh Ly qua tranh Phạm Mùi


Con người không thể tự quyết định sự ra đời của chính mình, vì nó là câu chuyện dài kỳ của nhân duyên. Với cái nhìn rất chi hồn nhiên vào cõi tồn sinh, Trịnh Công Sơn đã ngơ ngác tự hỏi mình, câu hỏi của nhân loài: “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi. Để một mai vươn hình hài lớn dậy”.

Một câu hỏi ném vào hư không như một viên đá cuội ném xuống và mất hút giữa mặt hồ cuộc đời rộng thênh thang, có chăng chỉ hồi vọng những vòng sóng nhỏ lăn tăn một nỗi ngậm ngùi.

Canh cánh với cái nhìn thấu suốt cõi người, Trịnh Công Sơn không hề né tránh bản chất của Sinh - Diệt, dù ngay khi ông giả định, thì giả định đó cũng là một sự thật tê tái cõi lòng “Hôm nay thức dậy. Không nhìn thấy mặt trời. Như vừa mới vào đời. Tay mẹ đâu rồi. Nôi trống ru ai”. Không có gì khác người khi đó là cái nhìn triết học về thân phận con người ngay từ lúc nó chào đời, nhìn thấy tia nắng đầu tiên và chào cuộc đời cũng bằng thân mệnh của tiếng khóc đầu tiên.

Nhất quán với tư tưởng Phật giáo, Trịnh Công Sơn đã nhìn thấy ngay từ khi sinh ra, trong con người đã tiềm tàng “mầm bệnh”, hữu thân hữu bệnh. Bệnh ở đây là những cơn đau của thể xác và đặc biệt là nỗi đau tinh thần xuất phát từ nhận thức “vì với ý thức, người là một con vật bị bệnh”. Chu Sơn không cần nhiều hàm ý khi viết rằng chính Trịnh Công Sơn “đã chiếm lấy nỗi đau làm báu vật, đồng thời làm vũ khí của riêng mình”.

Nỗi đau khổ tâm hồn ấy đã suốt đời như ngôi sao chiếu mệnh người nhạc sĩ tài hoa, khiến ông cất lên những lời ca quán tưởng nhất, giải thích một hợp đồng thân phận trọn vẹn nhất, có sức thuyết phục nhiều người nhất về sự có mặt của Nỗi - Đau - Làm - Người. Sống với những giấc mơ, Trịnh Công Sơn thấy mình hóa thành chim, như nghìn năm trước Trang Tử thấy mình hóa bướm, nhưng rồi ông “như con chim bệnh, thiếu hạnh phúc trần gian”.

Bệnh ở đây là sự ngốc dại, ngậm ngùi “tự làm khô héo tôi đây”, là “ngủ dài lâu mang theo vết thương sầu”, bệnh đến mệt mỏi, ơ thờ và nặng nề nhất, để lại nhiều di chứng nhất đó là BỆNH YÊU: thắc thỏm chờ đợi, như đứng đi trên lửa, nằm ngồi không yên, chút niềm hy vọng “đôi môi em là đốm lửa hồng” chợt lụi tàn tắt vùi nỗi thất vọng: “Chiều nay còn mưa sao em không lại. Nhớ mãi trong cơn đau vùi”.

Đi tìm sự đồng nhất, đồng thuận giữa bệnh = nỗi đau thân xác = nỗi đau tinh thần = nỗi đau tình yêu, Trịnh Công Sơn đã đẩy phạm trù cái “bệnh” của Phật giáo vượt qua giới hạn của cách hiểu thông thường về phạm trù của bệnh.

Bệnh trở thành một thực thể tồn tại như một phần của bản chất Cái Đẹp. Thông qua giai điệu nồng nàn của âm nhạc Trịnh Công Sơn, con người không còn sợ hãi bệnh, xem bệnh là một tất nhiên - cái giới hạn mà khi nhận thức được nó, con người sẽ tiến gần đến với sự tiệm ngộ.

Đó là một cuộc sống chung, hóa vàng nỗi sợ hãi, những cơn đau thành một cái đẹp vô lời. Bệnh trở thành một đóa hoa lạ trong nhận thức sâu thẳm về phận người. Cái “vết thương thời đại” ấy (chữ dùng của Bửu Ý) là một thú đau thương khá bất ngờ và đầy ma lực của âm nhạc Trịnh.

“Bao nhiêu năm làm kiếp con người. Chợt một chiều tóc trắng như vôi”. Sau phạm trù Sinh, cánh cửa già nua Lão đã kẽo kẹt mở toanh ra một màu tóc trắng. Đã xa rồi khoảng cách bao nhiêu năm của Sinh để tiếp cận với Diệt. Phạm trù Lão trong âm nhạc Trịnh Công Sơn là sự nối tiếp nỗi buồn của Sinh.

Hình ảnh lau trắng = tóc bạc trở lại trong nhiều ca khúc của ông. Nó đến chậm chạp, từng ngày, như cười cợt, như đánh đố, như thách thức kiếp người ngắn ngủi. Và lúc này Trịnh Công Sơn như một đứa trẻ đi tìm trâu lạc ra đồng giữa ngọ tròn mắt ngạc nhiên rồi ồ lên khờ dại: “Chiều hôm thức dậy. Ngồi ôm tóc dài. Chập chờn lau trắng trong tay”.

Giữa dòng phù sinh, kiếp người rồi chỉ là một con - phù - du - tóc - bạc. Không ngần ngại nhận thức sự thật trần trụi ấy, tựa vào vô thường, Trịnh Công Sơn ôm cầm thản nhiên ca lời ca yêu thương của một chú ve sầu: “Ôi phù du. Từng tuổi xuân đã già. Một ngày kia đến bờ. Đời người như gió qua”.

Dù thông thái, con người chưa bao giờ chịu chấp nhận ngày nọ mình sẽ là con phù du tóc bạc. Nỗi ham sống từ chối ánh sáng hoang mạc như con đà điểu rúc đầu vào cát bỏng từ chối những hiểm nguy đe dọa sự sinh tồn. Phạm trù cái Lão tồn tại tất yếu trong âm nhạc Trịnh Công Sơn, là màu cỏ lau hắt hiu buồn, là một tín hiệu như chiếc then mục cài cánh cửa kết thúc một đời người.

Dù muốn hay không, thất vọng hay hy vọng, cười hay là khóc, thì cái chết, sự chết, nỗi chết vẫn lơ lửng trên đầu con người. Kinh Thánh dạy con người hãy tập làm quen với cái chết “chết đi trở về với chúa ấy là sống muôn đời”.

Phật giáo dạy chết là sự thay đổi một trạng thái, là Tán sau khi đã Tụ, một sự tiếp nối vô thường. Triết học hiện sinh xem cái chết là một điều phi lý nhất trên đời, dù là hiện sinh hành động hay hiện sinh Cơ đốc giáo, cũng đều thấy trong cái chết một sự băng hoại tầm thường. Với Trịnh Công Sơn, cái chết là một thường trực, nỗi ám ảnh ngay từ khi một hình hài mới ra đời.

Có thể thiết lập một từ điển về cái chết trong âm nhạc Trịnh Công Sơn với hàng trăm “kiểu chết” khác nhau. Chết bất chợt “Chợt như xác thân không còn. Và cạnh tôi là đồng vắng”. Chết trong một lời khuyên nhủ “Thôi về đi, đường trần đâu có gì”. Chết như đất trời lịm tắt “Một ngày như mọi ngày. Từng chiều lên hấp hối”. Cái chết là một vô thủy vô chung “Không có cái chết đầu tiên. Và có đâu bao giờ. Đâu có cái chết sau cùng”. Cái chết thanh thiên bạch nhật trong đời thực “Chìm dưới cơn mưa. Một người chết đêm qua”. Chết trong cả giấc mơ “Một lần nằm mơ, tôi thấy tôi qua đời”.

Có một điều bất ngờ, là ở mỗi “kiểu chết”, Trịnh Công Sơn đều nhìn thấy những tư thế chết bi tráng, hầu như không muốn làm hạt bụi của con người. Cái tư thế mà bậc đại trí Chế Lan Viên sinh thời đã viết “Vê hạt cát thời gian chọi lại với vô cùng”. Có tư thế chết thơ mộng và kêu dũng “Người nằm co như loài thú trong rừng sương mù. Người nằm yên không kêu than chết trên căn phần”. Có tư thế chết chỉ là một dấu bàn chân quên trở lại “Chìm dưới cơn mưa. Bàn chân nhỏ bé. Năm nay năm nay đã quên đường về”.

Quả là khó có cái chết đau thương nào lại nhẹ nhàng như là “quên” như vậy, mà nỗi đau đã được nén chịu rồi lặp đi lặp lại qua trạng từ chỉ thời gian “năm nay, năm nay...”. Chết chủ động tiếp nhận với tư thế của một lời chào không chút ngại ngần “Đường trần rồi khăn gói. Mai kia chào cuộc đời. Nghìn trùng cơn gió bay”...

Và không ở đâu cái chết vốn tràn ngập bi thương và phi lý lại xuất hiện đẹp như đoạn kết một cuộc hẹn hò “Những hẹn hò từ nay khép lại. Thân nhẹ nhàng như mây”. Vậy đó, sau khi đã mô tả hàng trăm “kiểu chết” tàn lạnh khói hương, tạc vào giai điệu buồn như phúc âm hàng trăm “tư thế chết” dịu dàng và lẫm liệt, Trịnh Công Sơn - nhạc sĩ, bỗng trở thành một Thiền Sư đốn ngộ với nụ cười nhẹ nhàng rằng cái chết không đe dọa được ai.

Tạo hóa đã đùa cợt con người và đến lượt mình con người minh triết có thể “nhân định thắng thiên” bằng cái nhìn trực diện, không trốn tránh và sợ hãi trước cánh cửa vô thường Sinh - lão - bệnh - tử.

Nguyễn Xuân Hoàng
bee.net.vn, 01/04/2010