Các ca sĩ trước 1975 là ai?

Thập niên 1950, Thái Thanh nổi tiếng ở Sài Gòn với nhạc tiền chiến, quê hương hay nhạc tình của các nhạc sĩ đương thời. Giọng ca của bà phủ sóng chương trình văn nghệ các đài phát thanh, truyền hình. Những năm 1970, Thái Thanh là giọng ca chủ lực của vũ trường "Đêm màu hồng". Bà cùng các anh chị em của mình là Thái Hằng, Hoài Bắc, Hoài Trung, Khánh Ngọc, Phạm Duy lập nên ban Hợp ca Thăng Long nổi tiếng. Thái Thanh tên thật là Phạm Thị Băng Thanh, sinh năm 1934 tại Hà Nội. Năm 1985, ca sĩ theo gia đình qua Mỹ định cư. Tại hải ngoại, bà tiếp tục trình diễn và ghi âm CD. Thái Thanh giải nghệ năm 2002. Năm 2014, trong lễ mừng thọ 80 tuổi, danh ca hòa giọng cùng con gái Ý Lan trong các ca khúc "Nửa hồn thương đau", "Nụ tầm xuân", "Tình ca"...

Ca sĩ Khánh Ngọc thành danh từ giữa thập niên 1950 đến đầu thập niên 1960 với những bản tình ca nước ngoài phổ lời Việt. Khánh Ngọc đi hát từ năm 12 tuổi tại Sài Gòn. Năm 13, 14 tuổi, bà đã được mời hát trong các đại nhạc hội Sài Gòn và các tỉnh thành miền Trung, sau đó gia nhập Hợp ca Thăng Long. Ngoài giọng hát, Khánh Ngọc còn nổi tiếng bởi nhan sắc rực rỡ và các vai diễn điện ảnh. Sau khi ly hôn với nhạc sĩ Phạm Đình Chương, năm 1961 Khánh Ngọc sang Mỹ học thêm về điện ảnh rồi kết hôn với một du học sinh Việt Nam. Bà tham gia vài bộ phim, sau đó dành thời gian chăm sóc ba người con. Hiện Khánh Ngọc sống với gia đình ở Los Angeles, Mỹ. Thỉnh thoảng nữ ca sĩ góp mặt trong những chương trình từ thiện tại hải ngoại. 

Năm 1957, Bạch Yến nổi danh ở các sân khấu Sài Gòn khi là người đầu tiên chuyển ca khúc "Đêm đông" của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương từ điệu Tango sang Slow Rock. Bạch Yến tên thật là Quách Thị Bạch Yến, sinh năm 1942 tại Sóc Trăng. Bà đi hát từ năm 14 tuổi với các ca khúc nhạc Pháp lời Việt. Từ năm 1961, ca sĩ hoạt động âm nhạc tại Pháp và Mỹ. Năm 1978, ở tuổi 36, Bạch Yến kết hôn cùng con trai cố giáo sư Trần Văn Khê và sống cùng gia đình tại Pháp. Năm 2009, nữ ca sĩ lần đầu về Việt Nam biểu diễn tại phòng trà Văn Nghệ [nay là Tiếng Xưa], từ đó bà thường xuyên về nước hát tại nhiều phòng trà và các sự kiện âm nhạc. Năm 2014, Bạch Yến cùng lúc xuất hiện trong chương trình "Tình khúc vượt thời gian", đồng thời tổ chức liveshow mang tên "Đêm đông". Cuối năm 2015, bà thể hiện lời hát ru trong kịch "Bao giờ sông cạn" trên sân khấu Hoàng Thái Thanh. 

Giọng hát Lệ Thu gắn liền sáng tác của các nhạc sĩ Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Đoàn Chuẩn, Trịnh Công Sơn, Trường Sa... vào những năm 1960 - 1970. Bà tên thật là Bùi Thị Oanh, sinh năm 1943 tại Hải Phòng. Năm 1979, Lệ Thu sang Mỹ định cư. Từ đó đến nay, bà vẫn tích cực hoạt động âm nhạc. Năm 2007, Lệ Thu lần đầu về nước làm liveshow tại TP HCM. Từ đó đến nay, ngoài hát phòng trà, Lệ Thu làm thêm hai liveshow tại quê hương vào năm 2008 và 2014. Cuối năm 2015, ca sĩ tái ngộ khán giả Việt Nam trong đêm nhạc vinh danh các ca khúc của nhạc sĩ Ngô Thụy Miên, diễn ra tại Hà Nội, đồng thời làm giám khảo chương trình "Solo cùng Bolero". 

Khánh Ly tên thật là Nguyễn Thị Lệ Mai, sinh năm 1945 tại Hà Nội. Bà bắt đầu sự nghiệp ca hát tại Sài Gòn năm 1962 ở phòng trà Anh Vũ. Từ năm 1967, Khánh Ly nổi tiếng với biệt danh "Nữ hoàng chân đất" khi diễn cùng Trịnh Công Sơn trong những đêm nhạc ngoài trời. Thập niên 1960 - 1970, Khánh Ly hợp tác với nhiều hãng đĩa thu âm các ca khúc của Trịnh Công Sơn và một số nhạc sĩ. Trong thời gian này, ca sĩ nhiều lần được mời sang Nhật, châu Âu, châu Mỹ biểu diễn. Sau năm 1975, Khánh Ly cùng các con sang Mỹ định cư và kết hôn với nhà báo Hoàng Đoan. Bà tiếp tục cộng tác với nhiều trung tâm ca nhạc hải ngoại. Năm 2012, Khánh Ly được cấp phép biểu diễn trong nước. Tháng 5/2014, ca sĩ tổ chức liveshow đầu tiên trên quê hương. Từ đó, bà thường xuyên về nước biểu diễn. Hồi đầu tháng 4, Khánh Ly góp mặt trong chuỗi đêm nhạc kỷ niệm 15 năm ngày mất Trịnh Công Sơn.

Phương Dung sinh năm 1946 tại Gò Công, Tiền Giang, nổi tiếng năm 17 tuổi với ca khúc "Nỗi buồn gác trọ". Từ đó, tên tuổi bà gắn liền với những tình khúc Bolero như "Những đồi hoa sim", "Tạ từ trong đêm", "Sương lạnh chiều đông"... Năm 1974, ca sĩ cùng gia đình sang Australia định cư rồi tiếp tục ca hát. Phương Dung nhiều lần về Việt Nam nhưng đến năm 2009 mới tái ngộ khán giả TP HCM tại phòng trà Văn Nghệ cùng chương trình "Nụ cười và thời trang". Từ đó đến nay, bà dành nhiều thời gian ở Việt Nam để ca hát, song song với hoạt động từ thiện. Gần đây, Phương Dung nổi tiếng với vai trò giám khảo cuộc thi "Solo cùng Bolero".

Thanh Lan được coi là ca sĩ tiêu biểu cho phong trào nhạc trẻ Sài Gòn những năm 1970 khi trình bày những tình khúc nhạc Pháp. Bà cũng thành danh trong điện ảnh và trên sân khấu kịch. Nữ ca sĩ sinh năm 1948 từng góp mặt trong nhiều bộ phim nổi tiếng như "Ván bài lật ngửa", "Tình không biên giới", "Cao nguyên F.101"... Năm 1993, Thanh Lan sang định cư tại Mỹ, tiếp tục hoạt động ca hát cho đến nay.

Báo chí Sài Gòn trước năm 1975 gọi Giao Linh là "Nữ hoàng sầu muộn" để nói về giọng ca và phong cách biểu diễn trầm buồn của bà. Theo một số nhạc sĩ thời kỳ đó, giọng hát Giao Linh đã khiến một số nhạc phẩm như "Lòng mẹ", "Thầm kín", "Mười năm tái ngộ"... trở nên nổi tiếng. Giao Linh tên thật là Đỗ Thị Sinh, sinh năm 1949 tại Sài Gòn. Năm 1982, ca sĩ sang Canada đoàn tụ cùng gia đình. Tại hải ngoại, bà thành lập trung tâm băng nhạc Giao Linh, kết hợp cùng ca sĩ Tuấn Vũ ra các CD ăn khách như "Đôi mắt người xưa", "Giọng ca dĩ vãng"... Năm 2000, Giao Linh về Việt Nam biểu diễn rồi định cư tại quê hương. Năm 2014, Giao Linh, Phương Dung kết hợp làm liveshow. Hiện nay, ngoài hát trong chương trình "Sol vàng", ca sĩ thường xuyên biểu diễn tại các phòng trà, hội chợ và đi hát từ thiện. 

Hương Lan tên thật là Trần Thị Ngọc Ánh, sinh năm 1956 tại Sài Gòn, là con gái ruột của nghệ sĩ cải lương Hữu Phước. Cô khởi nghiệp ca hát bằng thể loại vọng cổ. Năm 1966, Hương Lan chuyển sang tân nhạc dưới sự dìu dắt của nhạc sĩ Trúc Phương. Năm 1972, cô kết hôn với nghệ sĩ Chí Tâm rồi cùng gia đình sang Pháp định cư vào năm 1978. Năm 1982, nữ ca sĩ ly hôn chồng. Hai năm sau, cô lần đầu xuất hiện trong một chương trình âm nhạc của một trung tâm âm nhạc lớn ở hải ngoại và sau đó trở thành một trong số các ca sĩ trụ cột của trung tâm này. Năm 1996, Hương Lan được cấp phép biểu diễn tại Việt Nam. Tháng 5/2009, cô tổ chức liveshow trong nước với tên "Ơn đời một khúc dân ca". Từ đó đến nay, nghệ sĩ thường xuyên về nước biểu diễn. Năm 2013, Hương Lan cùng người chồng sau kỷ niệm 25 năm ngày cưới tại TP HCM.

Châu Mỹ

Hình ảnh “xưa và nay” của các ca sĩ

nhạc vàng nổi tiếng trước 1975

¸.*¨*♫♪♪♫*¨*.¸¸

 Cùng nhìn lại những hình ảnh so sánh “xưa và nay” của các ca sĩ nổi tiếng nhất của miền Nam trước năm 1975. Đến nay, thời gian đã qua hơn nửa thế kỷ, không ai có thể tránh khỏi được quy luật của thời gian. Tuy nhiên cũng có một số ca sĩ vẫn còn mang phảng phất nét đẹp quý phái của một thời vàng son.

Thanh Lan sinh năm 1948, là ca sĩ, diễn viên của Việt Nam. Bà là một trong những nghệ sĩ hiếm hoi thành công trên cả ba lĩnh vực âm nhạc, điện ảnh và sân khấu. Ca sĩ Thanh Lan nổi tiếng với các ca khúc Pháp, là một trong những gương mặt tiêu biểu cho thời kỳ đầu của nhạc trẻ ở Sài Gòn.

Ca sĩ Phương Hồng Quế sinh năm 1953, là một trong những giọng hát tiêu biểu thuộc thế hệ sau cùng của làng nhạc Sài Gòn trước năm 1975. Cô được báo chí Sài Gòn gọi danh hiệu là “Tivi chi bảo”.

Ca sĩ Kim Loan

Ca sĩ Kim Loan sinh năm 1948, nổi tiếng khắp làng nhạc miền Nam xưa với nhan sắc khả ái với ca khúc được mến mộ nhất là Căn Nhà Ngoại Ô của nhạc sĩ Anh Bằng


Ca sĩ Trúc Mai sinh năm 1942, thuộc thế hệ đầu tiên của nhạc vàng miền Nam. Cô không chỉ có giọng hát ngọt ngào, ấm áp mà còn chinh phục khán giả với vẻ đẹp yêu kiều, quý phái. Giọng hát Trúc Mai gắn liền với bài hát “Hàn Mặc Tử” của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh.

Ca sĩ Anh Khoa sinh năm 1948, là một trong những nam ca sĩ nổi tiếng nhất của miền Nam trước 1975 ở dòng nhạc trữ tình. Giọng hát truyền cảm và nhẹ nhàng của ông đã gây ấn tượng với khán giả cho đến ngày nay.

Ca sĩ Phương Dung sinh năm 1946 [có thông tin cho rằng năm sinh thật của cô là 1942], là ca sĩ thuộc thế hệ đầu của dòng nhạc vàng, được khán giả mến mộ trong suốt 60 năm qua. Cô được đặt biệt danh là “Nhạn Trắng Gò Công”, rất thành công với những ca khúc nhạc vàng nổi tiếng như Nỗi Buồn Gác Trọ, Tạ Từ Trong Đêm, Những Đồi Hoa Sim… Cho đến nay Phương Dung vẫn còn đi hát ở Việt Nam

Ca sĩ Thiên Trang sinh năm 1951, là một trong những ca sĩ tiêu biểu nhất của dòng nhạc vàng. Cô có giọng hát ngọt ngào và gương mặt rất hiền từ, dễ gây thiện cảm với khán giả.

Ca sĩ Hương Lan sinh năm 1956, được xem là 1 trong những nữ danh ca nổi tiếng nhất của nhạc vàng trước và sau năm 1975. Giọng hát của Hương Lan nổi tiếng với sự ngọt ngào đặc trưng, đặc biệt là khi hát nhạc quê hương âm hưởng dân ca Nam Bộ. Hương Lan cũng là 1 trong những ca sĩ có nhiều bản thu âm nhất với hàng ngàn ca khúc được phát hành trong hơn 50 năm ca hát.

Ca sĩ Ngọc Đan Thanh sinh năm 1952, là nghệ sĩ thành công trong cả 3 lĩnh vực là cải lương, nhạc vàng và MC của chương trình Asia. Sau khi sang định cư tại Mỹ năm 1990, cô còn tham gia lồng tiếng một số bộ phim Hong Kong, Hàn Quốc.

Ca sĩ Thái Châu sinh năm 1951, nổi tiếng với dòng nhạc vàng, trữ tình với giọng hát ấm áp nhưng cũng rất ngọt ngào.

Ca sĩ Giáng Thu là học trò của nhóm tác giả Lê Minh Bằng [Lê Dinh – Minh Kỳ – Anh Bằng]. Người bạn đồng môn của cô trong lớp nhạc Lê Minh Bằng còn có ca – nhạc sĩ Mạnh Quỳnh, người đã song ca ăn ý với Giáng Thu, đặc biệt là với bài hát Tuyết Lạnh, Hai Đứa Giận Nhau…

Danh ca Bạch Yến sinh năm 1942, là 1 trong những ca sĩ nổi tiếng nhất của làng nhạc Sài Gòn từ cuối thập niên 1950. Cô là người Việt Nam đầu tiên và duy nhất xuất hiện trên chương trình Ed Sullivan Show nổi tiếng của Mỹ năm 1965, là nghệ sĩ Việt Nam duy nhất trình diễn cùng một chương trình với những tên tuổi nổi tiếng của Mỹ như Bob Hope, Bing Crosby, Pat Boone, Frankie Avalon… và là ca sĩ Việt đầu tiên và duy nhất hát nhạc phim Hollywood The Green Berets [Mũ nồi xanh].

Ca sĩ Thanh Thúy sinh năm 1943, là một trong những nữ ca sĩ có ảnh hưởng lớn nhất đến nền Tân nhạc Việt Nam trước năm 1975, là thế hệ ca sĩ đầu tiên của dòng nhạc vàng miền nam. Tên tuổi của cô đã gắn liền với nhạc sĩ Trúc Phương và những tình khúc tiền chiến. Cô cũng là người yêu trong mộng của cả một thế hệ, được các nhạc sĩ, nhà thơ, nhà văn, đạo diễn truyền hình nổi tiếng… ca ngợi hết lòng với rất nhiều mỹ danh, trong đó nổi tiếng nhất là Tiếng hát liêu trai và Tiếng hát lúc 0 giờ.

Ca sĩ Băng Châu sinh năm 1950, ngoài sở hữu giọng hát ngọt ngào, cô còn là một trong những ca sĩ có nhan sắc khả ái nhất trong giới ca sĩ Sài Gòn trước 1975

Ca sĩ Thanh Mai sinh năm 1955. Trong làng nhạc Sài Gòn trước năm 1975, dù Thanh Mai không phải là ca sĩ thuộc hàng nổi danh nhất, nhưng tên tuổi của cô vẫn được rất nhiều người biết đến, đặc biệt trong dòng nhạc trẻ.

Ca sĩ Khánh Ngọc sinh năm 1937, là minh tinh điện ảnh Sài Gòn thuộc thế hệ đầu tiên. Trong lĩnh vực âm nhạc, bà sở hữu giọng hát nhiều nội lực, từng là thành viên của ban Thăng Long danh tiếng, và cũng là vợ cũ của nhạc sĩ Phạm Đình Chương.

Ca sĩ Lệ Thu sinh năm 1943, thường được nhắc đến như là 1 trong 3 nữ ca sĩ nổi tiếng nhất của làng nhạc Sài Gòn trước năm 1975, cùng với Khánh Ly và Thái Thanh

Ca sĩ Giao Linh sinh năm 1949, là một trong những ca sĩ nhạc vàng nổi tiếng nhất trước năm 1975. Cô thường được báo chí Việt Nam gọi là “Nữ hoàng sầu muộn” do tiếng ca và phong cách biểu diễn trầm buồn trong các ca khúc nhạc vàng.

Ca sĩ Thanh Tuyền sinh năm 1947, là một trong những nữ ca sĩ nhạc vàng nổi tiếng nhất trong suốt hơn nửa thế kỷ qua.

Ca sĩ Khánh Hà sinh năm 1952. Cô đã đi hát trước năm 1975, nhưng chủ yếu là hát nhạc trẻ. Từ sau khi sang hải ngoại, Khánh Hà được yêu mến với dòng nhạc trữ tình từ thập niên 1980 với giọng hát rất điêu luyện và được so sánh với các diva nước ngoài.

Ca sĩ Elvis Phương sinh năm 1945, là ca sĩ nổi danh với nhiều thế loại nhạc: nhạc trẻ, tiền chiến, nhạc vàng, trữ tình, rock Việt. Sự nghiệp của ông trải dài trên 50 năm và thường được nhắc đến cùng với tên tuổi của ban Phượng Hoàng trước năm 1975.

Ca sĩ Khánh Ly sinh năm 1945, được đánh giá là một trong những nữ danh ca nổi tiếng nhất của làng nhạc Sài Gòn trước năm 1975. Tên tuổi của cô thường được xếp bên cạnh 2 nữ danh ca khác là Thái Thanh và Lệ Thu.

Ca sĩ Hoàng Oanh sinh năm 1946, là một trong những ca sĩ tiên phong hát dòng nhạc vàng từ thập niên 1960. Số lượng bài hát nhạc vàng gắn liền với tên tuổi Hoàng Oanh rất nhiều, có thể liệt kê những bài nổi tiếng nhất là Ai Ra Xứ Huế [Duy Khánh], Chuyến Đò Vỹ Tuyến [Lam Phương], Tình Yêu Trả Lại Trăng Sao [Lê Dinh], Chuyện Một Chiếc Cầu Đã Gãy [Trầm Tử Thiêng], Về Đâu Mái Tóc Người Thương [Hoài Linh], Câu Chuyện Đầu Năm [Hoài An], Một Người Đi [Mai Châu], Mưa Trên Phố Huế [Minh Kỳ & Tôn Nữ Thụy Khương], Sao Chưa Thấy Hồi Âm [Châu Kỳ]… Hoàng Oanh cũng là ca sĩ hiếm hoi của dòng nhạc vàng học lên đến đại học thời đó. Cô tốt nghiệp Cử nhân [Ban Sử Địa] ở Đại Học Văn Khoa.

Ca sĩ Phương Đại được biết nhiều nhất trong ban tam ca Sao Băng. Ngoài ra ông cũng thường song ca với nữ ca sĩ Phương Hồng Quế

Ca sĩ Phương Hoài Tâm thường được gọi là “tiếng hát học trò”, được biết đến tên tuổi thật sự không phải nhờ giọng hát xuất sắc, mà là ở khuôn mặt xinh tươi khả ái với đôi má lúm đồng tiền và một mái tóc cắt úp, một thời đã được nhiều nữ sinh coi như kiểu tóc thời trang.

Ca sĩ Trung Chỉnh sinh năm 1943, là ca sĩ nhạc vàng nổi tiếng trước năm 1975 và thường song ca với Hoàng Oanh, Phương Dung. Nghề nghiệp chính của ông là bác sĩ quân y

Ca sĩ Chế Linh sinh năm 1942, là một huyền thoại của dòng nhạc vàng. Ông vừa là ca sĩ, vừa là nhạc sĩ với bút danh Tú Nhi, được công chúng xưng tụng là 1 trong tứ trụ nhạc vàng. Hiện nay ở tuổi gần 80, ông vẫn còn đi hát, là giọng hát bền bỉ nhất của nhạc Việt mọi thời đại.

Ca sĩ Mạnh Quỳnh sinh năm 1951, là học trò của nhóm Lê Minh Bằng. Ông thường song ca với ca sĩ Giáng Thu, và được biết đến với ca khúc Gõ Cửa.

Ca sĩ Mai Lệ Huyền sinh năm 1946, được xem là một ca sĩ huyền thoại của Sài Gòn trước năm 1975, trở thành hiện tượng chưa từng có trong dòng nhạc kích động khi kết hợp cùng Hùng Cường. Mai Lệ Huyền sở hữu vẻ đẹp lạ, giúp cô luôn nổi bật trong đám đông. Cô có đôi mắt to và sâu thăm thẳm, khuôn mặt tròn như búp bê. Ở thời đỉnh cao của mình, cô đã đốt cháy các sân khấu và vũ trường bằng giọng ca đầy ma lực và vẻ bề ngoài quyến rũ, trở thành cái tên có độ phủ sóng rộng rãi trong công chúng miền Nam.

 

Ca sĩ Họa Mi sinh năm 1955, là cô học trò nổi tiếng của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ. Ca sĩ Họa Mi được nhận xét có “giọng hát trong và thánh thót ở những nốt cao, ấm áp và tình cảm ở những nốt trầm”.

Sau đây là hình ảnh xưa và ảnh sau này của các ca sĩ đã về khuất núi:

Danh ca Thái Thanh sinh năm 1934 và qua đời năm 2020. Bà được mọi tầng lớp khán giả, các nghệ sĩ và giới nghiên cứu âm nhạc xưng tụng là tên tuổi lớn nhất trong số những ca sĩ của tân nhạc Việt Nam. Bà được nhà văn Mai Thảo gọi là “Tiếng hát vượt thời gian”, và danh hiệu này đã đi liền với cuộc đời và sự nghiệp của bà. Nhiều người cũng gọi Thái Thanh là “đệ nhất danh ca” của âm nhạc Việt Nam.

Ca sĩ Duy Quang sinh năm 1950, là con trai đầu của nhạc sĩ Phạm Duy và danh ca Thái Hằng. Ông được coi là một trong những ca sĩ nổi bật của tân nhạc Việt Nam thuộc thế hệ thứ hai, với chất giọng ngọt ngào, tình cảm.

Ca sĩ Hà Thanh sinh năm 1937 và đã qua đời năm 2014. Bà là giọng nữ trung thành danh ở Sài Gòn từ đầu thập niên 1960, sở trường hát nhạc thính phòng cổ điển, nhạc tiền chiến, và cả nhạc vàng.

Cố ca sĩ – nhạc sĩ Duy Khánh sinh năm 1936 và qua đời năm 2003, ông được xưng tụng là 1 trong tứ trụ nhạc vàng, và có thể xem là “cánh chim đầu đàn” của dòng nhạc vàng được khai sinh vào thập niên 1950-1960 ở miền Nam.

Ca sĩ Nhật Trường, cũng là nhạc sĩ Trần Thiện Thanh sinh năm 1942 và qua đời năm 2005. Hiếm có người nào lên đến đỉnh vinh quang với cả 2 lĩnh vực ca sĩ và nhạc sĩ như ông. Nhật Trường Trần Thiện Thanh cũng được xưng tụng là 1 trong tứ trụ nhạc vàng.

Ca sĩ Hùng Cường sinh năm 1936, qua đời năm 1996, được công chúng yêu nhạc xưng tụng là một trong tứ trụ nhạc vàng cùng với Duy Khánh, Chế Linh và Nhật Trường. Đó là 4 danh ca vừa có khả năng hát, vừa có khả năng sáng tác nhạc vàng, và là những nam danh ca nổi tiếng nhất của làng nhạc miền Nam vào thập niên 1960 – nửa đầu thập niên 1970. Nếu chỉ xét riêng trong dòng nhạc vàng thì tên tuổi của Hùng Cường có phần yếu thế nhất trong 4 cây “đại trụ” này, nhưng nếu xét về sự đa tài, mức độ tài hoa thì Hùng Cường lại nổi trội hơn cả, vì ông không chỉ nổi tiếng trong lĩnh vực âm nhạc, mà còn là tài tử điện ảnh nổi tiếng, một kép chính cải lương lừng danh và là một trong những nghệ sĩ kịch đầu tiên của miền Nam.

Đông Kha
  nguồn nhacxua.vn

Thế hệ vàng những nhạc sĩ tài ba trước năm 1975. 

Ảnh các nhạc sĩ [theo thứ tự từ trái sang]:

- Hàng đầu: Châu Kỳ - Mạnh Phát - Trúc Phương - Lam Phương - Minh Kỳ - Hoài Linh

- Hàng thứ 2: Lê Dinh - Anh Bằng - Hoàng Thi Thơ - Duy Khánh - Hoài An - Phạm Mạnh Cương

- Hàng thứ 3: Tuấn Khanh - Y Vân - Dzũng Chinh - Anh Việt Thu - Lê Trực - Phạm Thế Mỹ

Như chúng ta đã biết, sau 30 tháng 4 - 1975, chính quyền mới đã gộp tất cả các bản nhạc thời VNCH gọi chung là “Nhạc Vàng”.

Nhìn tổng quát, nhạc trước 75 có nhiều thể loại:

1. Nhạc trữ tình mang nhiều âm hưởng của nhạc Tây phương, bàng bạc nét lãng mạn của nhạc tiền chiến [nhạc của Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Hoàng Trọng, Văn Phụng, Cung Tiến…] - Ca sĩ thống lĩnh dòng nhạc nầy là cô Thái Thanh và Anh Ngọc.

2. Nhạc thính phòng, êm dịu, nhẹ nhàng, phiêu lãng [nhạc của Từ Công Phụng, Vũ Thành An, Ngô Thụy Miên…] là loại nhạc sở trường của ca sĩ Lệ Thu, Tuấn Ngọc…

3. Nhạc Trịnh Công Sơn chất chứa một chút triết lý, một chút phản chiến, rất được ưa chuộng với giọng ca của Khánh Ly.

4. Nhạc thời trang là loại nhạc đại chúng [pop music] là thể loại thông dụng nhất trong giai đoạn nầy, nó xoay quanh một số chủ đề:

- Nhạc quê hương [nhạc của Hoàng Thi Thơ, Duy Khánh, Thanh Sơn, Phạm Thế Mỹ…]

- Nhạc tình [nhạc của Lam Phương, Hoài Linh, Anh Bằng, Lê Dinh…]

- Nhạc lính [nhạc Trần Thiện Thanh, Minh Kỳ, Trúc Phương…]

Chỉ là cách chia tương đối vì mỗi nhạc sĩ có khi họ viết nhiều thể loại. Mỗi một thể loại, các nhạc sĩ viết bằng nhiều giai điệu khác nhau. Ví dụ, với nhạc thời trang, các giai điệu thường được dùng là: Slow Rock, Habanera, Boléro, Rumba Boléro… nhưng mà nhiều nhất là Boléro.

Ngoài ra, còn nhiều thể loại khác nữa, không kể ra hết được. Tôi chỉ xin thu hẹp đề tài vào nhạc Boléro để nhìn rõ hơn về dòng nhạc hiện được đại chúng ưa chuộng nhất, và cũng xin gói gọn trong thời kỳ khởi đầu của dòng nhạc Boléro ở Việt Nam để tìm hiểu những nhạc sĩ tiên phong, có công khai phá dòng nhạc Boléro Việt Nam [1954 - 1965].

Boléro là loại nhạc khiêu vũ do một vũ sư người Tây Ban Nha tên Sebastian Cerezo sáng tạo ra vào năm 1780. Dần dần điệu nhạc nầy thịnh hành ở các nước châu Âu như Anh, Pháp… Chính người Pháp đã mang điệu Boléro sang Cuba khoảng năm 1800 và trở thành điệu nhảy đường phố phổ biến ở Cuba và các xứ Nam Mỹ.

Khoảng thập niên 50, điệu Boléro bắt đầu du nhập vào Việt Nam. Boléro từ đầu là một giai điệu như những giai điệu khác: Rumba, Chachacha, Valse… về sau đã trở thành một dòng nhạc đại chúng khi vào Việt Nam: Dòng nhạc Boléro Việt Nam.

Chưa có tài liệu thật chính xác, nhưng theo một số người nghe nhạc thì bài Boléro Việt Nam đầu tiên là bài Duyên Quê của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ sáng tác năm 1955 [Em gái vườn quê, cuộc đời trong trắng…] Năm 1956, có bài Dựng Một Mùa Hoa của Hoài An và Phó Quốc Thăng [Chào bình minh hoa ban mai lả lơi…] Dẫu sao, từ giữa thập niên 50 đã manh nha thể loại Boléro ở Việt Nam. Đến đầu thập niên 60, các nhạc sĩ đồng loạt cho ra đời rất nhiều bài Boléro được người nghe đón nhận rất nồng nhiệt, nhiều bài còn được yêu thích đến tận bây giờ, không hề xưa cũ. Thế hệ nhạc sĩ tiên phong khai phá dòng nhạc Boléro Việt Nam là những tài danh mà tên tuổi còn được ngưỡng mộ không phai mờ.

Một số bài Boléro điển hình được sáng tác trong khoảng thời gian từ "giữa thập niên 50" đến "giữa thập niên 60":

- Trăng rụng xuống cầu [1956]

- Chuyến đò vĩ tuyến [1956]

- Nắng đẹp miền Nam [1957]

- Tình thắm duyên quê [1957]

- Nửa đêm ngoài phố [1960]

- Tàu đêm năm cũ [1961-1962]

- Ai cho tôi tình yêu [1963]

- Bến nước tình quê [Hợp soạn với Lê Mộng Bảo]

- Đêm không trăng sao [1963]

- Vọng gác đêm sương [1963]

- Sao chưa thấy hồi âm [1965]

- Biết trả lời sao [1965]

- Chuyến tàu hoàng hôn [Hợp soạn với Hoài Linh, 1962]

- Sầu tím thiệp hồng [Viết chung với Minh Kỳ, 1965]

- Biệt kinh kỳ [Hợp soạn với Minh Kỳ]

- Giọt lệ vu quy [Với Tuấn Khanh, 1965]

- Buồn vào đêm [Viết với Thanh Sơn]

- Nửa đêm biên giới [1963]

- Truyện tình Lan và Điệp [1964-1965]

- Truyện tình Trương Chi - Mỵ Nương [1965]

- Ngày ấy quen nhau [1959]

- Tấm ảnh ngày xưa [1961]

- Hạnh phúc đầu Xuân [Hợp soạn với Minh Kỳ]

- Tình lúa duyên trăng [Lời: Hồ Đình Phương]

- Kỷ niệm nào buồn [1964]

- Tâm sự ngày Xuân [1965]

- Những bước chân âm thầm

- Những đồi hoa sim [1964]

- Tiếng còi trong sương đêm

- Quán nửa khuya [1959, hợp soạn với Hoài Linh]

Và rất nhiều bài Boléro khác được ra đời trong thời gian nầy. Nếu hiện nay là thời kỳ “bùng nổ hát nhạc Boléro” thì thập niên 60 có thể gọi là thời kỳ “bùng nổ sáng tác nhạc Boléro”. Số bài Boléro ra đời trong khoảng thời gian đầu [1954-1960] còn khiêm nhường, sang đầu thập niên 60 các nhạc sĩ hăng say sáng tác các bản nhạc theo thể điệu Boléro vì nó được quần chúng đón nhận nồng nhiệt [hợp với tâm tình tác giả và giọng ca lúc bấy giờ].

Năm 1960, thanh niên nam nữ Saigon điên đảo vì một bản Boléro ngoại quốc: “It’s Now or Never” do nam danh ca Elvis Presley trình diễn.

Sang năm 1961, lại thêm một phen “bấn loạn” vì bản “Histoire d’un amour” do nữ ca sĩ người Pháp Dalida truyền cảm hứng. Đây là hai bản nhạc Boléro thời thượng mà giới trẻ miền Nam đã thuộc nằm lòng, như thêm hương vị cho lòng yêu thích Boléro của khán giả Việt Nam.

Dân miền Nam trước 75 chưa đến 20 triệu người, số lượng nhạc sĩ ít hơn bây giờ rất nhiều. Thế mà chỉ vỏn vẹn 20 năm [1954-1975] các nhạc sĩ VNCH đã sáng tác hàng chục ngàn bản nhạc mà thể loại Boléro là chủ đạo. Ngày nay, trào lưu hát nhạc Boléro đã sáng tác từ nửa thế kỷ trước. Nó vẫn còn hợp thời, quá hợp thời, ý tình như nói thay cho lòng người hiện tại. Lịch sử đã có sự sắp xếp rất thuận lý và lý thú: Bùng nổ đặt nhạc Boléro đi trước, bùng nổ hát nhạc Boléro theo sau. Có những người vừa hát vừa cám ơn các nhạc sĩ trước kia đặt nhạc hay quá. Cám ơn! Cám ơn! Thật thán phục các nhạc sĩ ngày trước không chỉ ở nét nhạc mà còn ở lời ca.

Về nét nhạc thì từ âm giai thất cung [Do Re Mi Fa Sol La Si] của Tây Phương, thường thấy trong các bản nhạc tiền chiến, các nhạc sĩ dòng nhạc Boléro Việt Nam có khuynh hướng nghiêng về giai điệu ngũ cung [Hò Xự Xang Xê Cống] mang âm hưởng Dân ca, có một chút gì đó hơi hao hao với điệu lý, câu hò miền Nam:

“Mây trắng bay qua khi trăng dần lan

Muôn câu hò nhịp nhàng khắp thôn trang

Đoàn người say sưa vui tiếng hát vang

Lúa dâng sữa ngọt đậm tình ta với nàng…”

[Trăng Về Thôn Dã của Hoài An & Huyền Linh]

Boléro từ Nam Mỹ khi du nhập vào Việt Nam thì nhịp điệu chậm hẳn lại để thích hợp với tính cách [tâm hồn, cách hát] của người Việt Nam. Boléro ở Cuba viết theo nhịp 3/4, sang Việt Nam các nhạc sĩ đã chuyển thành nhịp 4/4, và rồi nhạc Boléro Việt Nam đã khác rất nhiều so với Boléro nguyên thủy.

Nhưng nét đặc biệt nhất của Boléro Việt Nam là phần lời ca. Lời rất đời, nghe tới đâu hiểu tới đó, nghe tới đâu thấm tới đó. Nó nói lên tâm sự của từng người, nói lên hoàn cảnh đất nước bi đát vì chiến tranh, nói luôn hoàn cảnh nghiệt ngã của tầng lớp thanh niên phải đối diện với chia ly, mất mát, chịu đựng. Nó trở thành dòng nhạc lớn của Việt Nam vì nó rất Việt Nam.

Ngày ấy ở miền Nam, giữa trưa trời nắng gắt, bác nông phu trên đồng cạn, dưới đồng sâu, làm sao có thể hát một câu nhạc cổ điển Tây Phương cho trâu đi bừa? Nhưng bác rất dễ dàng buông ra vài câu Boléro mùi mẫn:

“Đây xóm nghèo quê tôi khi nắng lên

Hương lúa ngọt tình quê thêm trìu mến…”

[Nắng Lên Xóm Nghèo của Phạm Thế Mỹ]

Còn nữa, ngày anh lên đường ra tiền tuyến, đôi tình nhân bịn rịn chia tay, xót thương cho đời nhau, còn gì ray rứt hơn:

“Xe lăn êm êm lúc ga chiều sắp lên đèn

Mưa thu bay bay vắt ngang trời ướt vai mềm

Người trai vì nước đi xây tình quê hương…”

[Chuyến Tàu Hoàng Hôn của Minh Kỳ & Hoài Linh]

Bất cứ lúc nào, nơi nào [ngay cả trong tiệc cưới, bên bàn nhậu…] người Việt Nam vẫn thường hát nhạc Boléro. Âm nhạc Việt Nam buồn vì lịch sử Việt Nam buồn: Do chiến tranh, và bị đô hộ của ngoại bang. Nếu chê bai nhạc Boléro tầm thường, lời lẽ không tinh tế, sâu sắc, là nhạc sến thì tội nghiệp cho dân Việt Nam. Họ có đòi hỏi gì cao siêu đâu, họ rất bình dị. Nhưng hoàn cảnh đất nước không may, đời sống họ vấp phải nhiều khốn khó. Họ cần đến âm nhạc để được xoa dịu, vỗ về, họ cần đến Boléro để bày tỏ nỗi niềm tâm sự.

Giờ đây, sau 40 năm bị “bức tử” [kể từ năm 1975], dân Việt Nam mới đòi lại được quyền hát Boléro và làm cho nó hồi sinh dù chưa hoàn toàn, có những bản nhạc lính vẫn còn bị cấm. Nhìn giới trẻ thi nhau hát Boléro [rất khó khăn, hạn chế về chọn bài, lời ca] trong các cuộc thi được tổ chức liên tục trong nước mới thấy rõ bản chất mộc mạc, hồn nhiên trong tâm hồn người Việt Nam: Có sao nói vậy. Trong trường hợp nầy, tôi suy nghĩ hoài câu “Nghệ thuật vị nhân sinh”. Nghệ thuật đã luôn ở bên cạnh để nâng đỡ tinh thần, là niềm an ủi rất lớn giúp dân Việt Nam vượt qua bao gian khổ trong chiến tranh trước 75 và đối diện với những bất cập trong hiện tại. Nghệ thuật cao quý như vậy sao gọi là sến? Các nhạc sĩ tiên phong khai phá dòng nhạc Boléro Việt Nam có cảm thấy nao lòng hay không?!

Kiva [Một khán giả yêu Nhạc Vàng]

Nguồn: Trang FB của ca sĩ Hoàng Oanh

Kim Phượng sưu tầm & tổng hợp

Video liên quan

Chủ Đề