Trang web này phụ thuộc vào doanh thu từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm dừng tính năng chặn quảng cáo cho trang web này.
9 229 KB 0 35
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
MÔN LỊCH SỬ CÁC HỌC
THUYẾT KINH TẾ
1. Hoàn cảnh ra đời, tư
tưởng kinh tế chủ yếu của
Chủ nghĩa trọng thương.
Đánh giá những quan điểm
kinh tế của chủ nghĩa trọng
thương và ý nghĩa thực tiễn
của việc nghiên cứu chủ
nghĩa trọng thương.
Trả lời:
1.1. Hoàn cảnh ra đời của
chủ nghĩa trọng thương.
Chủ nghĩa trọng
thương là hệ thống tư tưởng
kinh tế đầu tiên của giai cấp
tư sản, hình thành và phát
triển ở Tây Âu vào giữa thế
kỷ XV và tồn tại trong
khoảng 3 thế kỷ.
Sự xuất hiện chủ nghĩa trọng
thương gắn liền với những
tiền đề lịch sử sau:
Về mặt Lịch sử:
Trong thời kỳ này chế độ
phong kiến ở Châu Âu bắt
đầu tan rã và là thời kỳ tích
lũy ban đầu cho Chủ nghĩa tư
bản, quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa bắt đầu xuất hiện.
Về mặt Chính trị:
Giai cấp phong kiến bắt
đầu suy tàn, phân hóa rõ rệt.
Trong xã hội vị thế của tầng
lớp thương nhân tăng lên và
sự phân hóa giàu nghèo trở
nên sâu sắc.
Xuất hiện khối liên minh
của nhà nước phong kiến
trung ương và tư bản thương
nhân dựa vào nhau để tồn tại.
Về mặt khoa học kỹ
thuật:
Điều đáng chú ý nhất trong
thời kỳ này là những phát
kiến lớn về mặt địa lý như:
Crixtốp Côlông tìm ra Châu
Mỹ, Vancôđơ Gama tìm ra
đường sang Ấn Độ Dương…
đã mở ra khả năng làm giàu
nhanh chóng cho các nước
phương Tây.
Về mặt tư tưởng:
Thời kỳ xuất hiện chủ
nghĩa trọng thương là thời kỳ
phục hưng, trong xã hội đề
cao tư tưởng tư sản, chống lại tư tưởng đen tối của thời kỳ
trung cổ, chủ nghĩa duy vật
chống lại những thuyết giáo
duy tâm của nhà thờ…
Kết luận: Sự kiện trên làm
thay đổi nhanh chóng bộ mặt
phong kiến trung cổ, nền sản
xuất phong kiến bắt đầu
nhường chỗ cho chế thương
mại => Chủ nghĩa trọng
thương xuất hiện.
1.2. Tư tưởng kinh tế chủ
yếu của Chủ nghĩa trọng
thương.
Thứ nhất, họ đánh
giá cao vai trò của tiền tệ, coi
tiền tệ [vàng bạc] là tiêu
chuẩn cơ bản của của cải.
Theo họ “một xã hội giàu có
là có được nhiều tiền”, “sự
giầu có tích luỹ được dưới
hình thái tiền tệ là sự giàu có
muôn đời vĩnh viễn”.
Tiền là tiêu chuẩn căn bản
của của cải, đồng nhất tiền
với của cải và sự giàu có, là
tài sản thực sự của một quốc
gia. Quốc gia càng nhiều tiền
thì càng giàu, hàng hoá chỉ là
phương tiện làm tăng khối
lượng tiền tệ.
Tiền để đánh giá tính hữu
ích của mọi hình thức hoạt
động nghề nghiệp.
Thứ hai, để có tích
luỹ tiền tệ phải thông qua
hoạt động thương mại, mà
trước hết là ngoại thương, họ
cho rằng: “nội thương là hệ
thống ống dẫn, ngoại thương
là máy bơm”, “muốn tăng
của cải phải có ngoại thương
dẫn của cải qua nội thương”.
Từ đó đối tượng nghiên cứu
của chủ nghĩa trọng thương là
lĩnh vực lưu thông, mua bán
trao đổi.
Thứ ba, họ cho rằng,
lợi nhuận là do lĩnh vực lưu
thông buôn bán, trao đổi sinh
ra. Do đó chỉ có thể làm giàu
thông qua con đường ngoại
thương, bằng cách hy sinh lợi
ích của dân tộc khác [mua rẻ,
bán đắt].
Thứ tư, Chủ nghĩa
trọng thương rất đề cao vai
trò của nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước để phát
triển kinh tế vì tích luỹ tiền tệ
chỉ thực hiện được nhờ sự
giúp đỡ của nhà nước. Họ đòi
hỏi nhà nước phải tham gia
tích cực vào đời sống kinh tế
để thu hút tiền tệ về nước
mình càng nhiều càng tốt,
tiền ra khỏi nước mình càng
ít càng phát triển.
1.3. Đánh giá những quan
điểm kinh tế của chủ nghĩa
trọng thương.
*]Thành tựu.
Những luận điểm
của chủ nghĩa trọng thương
so sánh với nguyên lý trong
chính sách kinh tế thời kỳ
Trung cổ đã có một bước tiến
bộ rất lớn, nó thoát ly với
truyền thống tự nhiên, từ bỏ
việc tìm kiếm công bằng xã
hội, những lời giáo huấn lý
luận được trích dẫn trong
Kinh thánh.
Hệ thống quan điểm của chủ
nghĩa trọng thương đã tạo ra
những tiền để lý luận kinh tế
cho kinh tế học sau này, cụ
thể:
Đưa ra quan điểm, sự giàu
có không chỉ là những giá trị
sử dụng mà còn là giá trị, là
tiền;
Mục đích hoạt động của
nền kinh tế hàng hoá là lợi
nhuận;
Các chính sách thuế quan
bảo hộ có tác dụng rút ngắn
sự quá độ từ chủ nghĩa phong
kiến sang chủ nghĩa tư bản;
Tư tưởng nhà nước can
thiệp vào hoạt động kinh tế là
một trong những tư tưởng
tiến bộ.
*] Hạn chế.
Những luận điểm
của chủ nghĩa trọng thương
có rất ít tính chất lý luận và
thường được nêu ra dưới hình
thức những lời khuyên thực
tiễn về chính sách kinh tế. Lý
luận mang nặng tính chất
kinh nghiệm [chủ yếu thông
qua hoạt động thương mại
của Anh và Hà Lan].
Những lý luận của chủ
nghĩa trọng thương chưa 1
thoát khỏi lĩnh vực lưu thông,
nó mới chỉ nghiên cứu những
hình thái của giá trị trao đổi.
Đánh giá sai trong quan hệ
trao đổi, vì cho rằng lợi
nhuận thương nghiệp có được
do kết quả trao đổi không
ngang giá.
Nặng về nghiên cứu hiện
tượng bên ngoài, không đi
sâu vào nghiên cứu bản chất
bên trong của các hiện tượng
kinh tế.
Một hạn chế rất lớn của
chủ nghĩa trọng thương đó là
đã quá coi trọng tiền tệ [vàng,
bạc], đã đứng trên lĩnh vực
thô sơ của lưu thông hàng
hoá để xem xét nền sản xuất
Tư bản chủ nghĩa.
Trong kinh tế đề cao vai
trò của nhà nước thì lại
không thừa nhận các quy luật
kinh tế
1.4. Ý nghĩa thực tiễn của
việc nghiên cứu chủ nghĩa
trọng thương.
Mặc dù Chủ nghĩa
trọng thương còn những hạn
chế khó tránh được do điều
kiện lịch sử khách quan cũng
như chủ quan nhưng Chủ
nghĩa trọng thương đã tạo
những tiền đề lý luận kinh tế
- xã hội cho kinh tế chính trị
tư sản phát triển. Bởi lẽ Chủ
nghĩa trọng thương đã cho
rằng: Sự giàu có không phải
là ở giá trị sử dụng mà là ở
giá trị [tiền]; Mục đích của
hoạt động kinh tế hàng hóa là
lợi nhuận. Các chính sách
thuế quan bảo hộ đã góp nhần
thúc đẩy sự ra đời của Chủ
nghĩa tư bản.
Hiện nay, những
nghiên cứu về Chủ nghĩa
trọng thương vẫn còn có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn đối
với chúng ta. Ví dụ: vấn đề
tích lũy vốn, kêu gọi đầu tư
từ nước ngoài. Vai trò của
ngoại thương trong thời kỳ
mở cửa hội nhập với thế giới.
Vấn đề bảo hộ mậu dịch, các
chính sách bảo vệ sản xuất
trong nước, mối quan hệ giữa
phát triển kinh tế và những vấn đề xã hội. Việc nghiên
cứu Chủ nghĩa trọng thương
có ý nghĩa thời sự đáng được
nghiên cứu và vận dụng đối
với nền kinh tế chuyển sang
cơ chế thị trường có sự điều
tiết của nhà nước theo định
hướng Xã hội chủ nghĩa như
Việt Nam ta hiện nay.
2. Hoàn cảnh ra đời và
cương lĩnh kinh tế của chủ
nghĩa trọng nông. Ý nghĩa
thực tiễn của việc nghiên
cứu vấn đề này.
Trả lời:
2.1. Hoàn cảnh ra đời của
chủ nghĩa trọng nông.
Vào giữa thế kỷ thứ
XVIII hoàn cảnh kinh tế - xã
hội Pháp đã có những biến
đổi làm xuất hiện chủ nghĩa
trọng nông Pháp:
Thứ nhất, chủ nghĩa
tư bản sinh ra trong lòng chủ
nghĩa phong kiến, tuy chưa
làm được cách mạng tư sản
lật đổ chế độ phong kiến,
nhưng sức mạnh kinh tế của
nó rất to lớn, đặc biệt là nó
muốn cách tân trong lĩnh vực
sản xuất nông nghiệp… đòi
hỏi phải có lý luận và cương
lĩnh kinh tế mở đường cho
lực lượng sản xuất phát triển.
Thứ hai, sự thống trị
của giai cấp phong kiến ngày
càng tỏ ra lỗi thời mà mâu
thuẫn sâu sắc với xu thế đang
lên của chủ nghĩa tư bản, đòi
hỏi phải có lý luận giải quyết
những mâu thuẫn đó.
Thứ ba, nguồn gốc
của cải duy nhất là tiền,
nguồn gốc sự giàu có của một
quốc gia, dân tộc duy nhất là
dựa vào đi buôn… [quan
điểm của chủ nghĩa trọng
thương] đã tỏ ra lỗi thời, bế
tắc, cản trở tư bản sinh lời từ
sản xuất… đòi hỏi cần phải
đánh giá lại những quan điểm
đó;
Thứ tư, ở Pháp lúc
này có một tình hình đặc biệt,
là lẽ ra đấu tranh chống chủ nghĩa trọng thương sẽ mở
đường cho công trường thủ
công phát triển thì lại khuyến
khích chủ nghĩa trọng nông
ra đời. Sự phát triển nông
nghiệp Pháp theo hướng kinh
tế chủ trại, kinh doanh nông
nghiệp theo lối tư bản chứ
không bó hẹp kiểu phát canh
thu tô theo lối địa chủ như
trước. Đúng như Mác đánh
giá: xã hội Pháp lúc bấy giờ
là chế độ phong kiến nhưng
lại có tính chất tư bản, còn xã
hội tư bản lại mang cái vỏ bề
ngoài của phong kiến.
2.2.Cương lĩnh kinh tế của
chủ nghĩa trọng nông.
Về thực chất cương
lĩnh là những quan điểm,
những chiến lược và chính
sách nhằm phát triển kinh tế,
trước hết và chủ yếu là phát
triển nông nghiệp:
Quan điểm về nhà nước:
Họ cho rằng nhà nước có vai
trò tối cao đứng trên tất cả
các thành viên xã hội, nhà
nước có xu thế toàn năng,
bênh vực quyền lợi cho quý
tộc, địa chủ và nhà buôn.
Quan điểm ưu tiên cho sản
xuất nông nghiệp: Họ quan
niệm, chỉ có sản xuất nông
nghiệp mới sản xuất ra của
cải hàng hoá… do đó chi phí
cho sản xuất nông nghiệp là
chi phí cho sản xuất, chi phí
sinh lời, do vậy chính phủ
cần phải đầu tư tăng chi phí
cho nông nghiệp.
Chính sách cho chủ trang
trại được tự do lựa chọn
ngành sản xuất kinh doanh,
lựa chọn súc vật chăn nuôi,
có ưu tiên về cung cấp phân
bón. Khuyến khích họ xuất
khẩu nông sản đã tái chế,
không nên xuất khẩu nguyên
liệu thô: tiêu thụ như thế nào
thì phải sản xuất cái để xuất
khẩu
như thế ấy. 2
Chính sách đầu tư cho
đường xá, cầu cống: Lợi
dụng đường thuỷ rẻ để
chuyên trở hàng hoá. Cần
chống lại chính sách giá cả
nông sản thấp để tích luỹ trên
lưng nông dân. Bởi vậy đã
không khuyến khích được
sản xuất, không có lợi cho
sản xuất và đời sống nhân
dân. Cách quản lý tốt nhất là
duy trì sự tự do hoàn toàn của
cạnh tranh.
Quan điểm về tài chính,
đặc biệt là vấn đề thuế khoá,
phân phối thu nhập…Nên ưu
đãi cho nông nghiệp, nông
dân và chủ trại,… chứ không
phải ưu đãi cho quý tộc, tăng
lữ, nhà buôn.
Như vậy, cương lĩnh kinh
tế của phái trọng nông đã
vạch rõ một số quan điểm,
chính sách mở đường cho
nông nghiệp phát triển theo
định hướng mới. Cương lĩnh
coi trọng và đề cao sản xuất
nông nghiệp. Song cương
lĩnh có những điểm hạn chế:
đó là chưa coi trọng vai trò
của công nghiệp, thương mại,
của kinh tế thị trường, mà có
xu thế thuần nông.
2.3 Ý nghĩa thực tiễn.
Chính sách của Chủ nghĩa
trọng nông là đánh thuế mạnh
nông nghiệp để lấy tiền phát
triển công nghiệp làm cho
nông nghiệp kiệt quệ, nạn đói
xảy ra khắp nơi. Từ đó thấy
rằng, ta phải phát triển nông
nghiệp một cách đúng mức.
Nông nghiệp thật sự quan
trọng đối với mỗi quốc gia
nhưng cũng không nên tuyệt
đối hóa sản xuất nông nghiệp
mà phải thấy được vai trò
quan trọng của các ngành
khác như: công nghiệp, ngoại
thương đối với sự phát triển
kinh tế.
Phân biệt rõ ràng, xây
dựng được các phạm trù và
khái niệm đúng đắn như: hàng hóa, tiền tệ, giá trị, lợi
nhuận. sự quản lý của các nhà tư
bản… 3.Học thuyết về sản phẩm
ròng và biểu kinh tế của
Kênê [Quesney]. Nhận xét
đánh giá. Trong nông nghiệp giá trị
hàng hoá bằng tổng chi phí
sản xuất tương tự như trong
công nghiệp nhưng cộng
thêm với sản phẩm ròng mà
công nghiệp không có, bởi vì
chỉ có nông nghiệp mới có sự
giúp sức của tự nhiên làm
sinh sôi nẩy nở nhiều của cải
mới. Trả lời:
3.1.1. Học thuyết về sản
phẩm ròng [sản phẩm
thuần tuý].
Học thuyết này là
trung tâm của học thuyết kinh
tế trọng nông, đây là bước
tiến quan trọng trong lý luận
kinh tế của nhân loại, nội
dung chính của lý luận có thể
tóm lược thành những nội
dung cơ bản sau:
Sản phẩm ròng [hay sản
phẩm thuần tuý] là sản phẩm
do đất đai mang lại sau khi
trừ đi chi phí lao động và chi
phí cần thiết để tiến hành
canh tác:
Sản phẩm ròng = Sản
phẩm xã hội - Chi phí sản
xuất
[Chi phí sản xuất là: chi phí
về lao động như lương công
nhân, lương của tư bản kinh
doanh trong nông nghiệp và
chi phí cần thiết để tiến hành
canh tác như: chi phí về
giống, sức kéo, … ].
Sản phẩm ròng là quà tặng
của tự nhiên cho con người,
không phải do quan hệ xã
hội, quan hệ giai cấp mang
lại.
Chỉ ngành sản xuất nông
nghiệp mới tạo ra sản phẩm
ròng các ngành khác như
công nghiệp, thương mại
không thể sản xuất ra sản
phẩm ròng.
Có hai nguyên tắc hình
thành giá trị hàng hoá khác
nhau giữa công nghiệp và
nông nghiệp: Trong công
nghiệp giá trị hàng hoá bằng
tổng chi phí sản xuất như:
tiền lương, nguyên vật liệu và Từ lý luận về sản phẩm
ròng đi đến lý luận về giá trị
lao động. Theo họ lao động
tạo ra sản phẩm ròng mới là
lao động sản xuất, còn các
lao động khác không sinh lời
và không tạo ra sản phẩm
ròng.
Từ lý luận lao động sản
xuất, chủ nghĩa trọng nông
đưa ra lý luận giai cấp trong
xã hội, trong xã hội chỉ có ba
giai cấp: giai cấp sản xuất
[tạo ra sản phẩm ròng hay sản
phẩm thuần tuý] gồm có tư
bản và công nhân nông
nghiệp, giai cấp sở hữu [giai
cấp chiếm hữu sản phẩm
thuần tuý tạo ra] là chủ ruộng
đất và giai cấp không sản
xuất gồm có tư bản và công
nhân ngoài lĩnh vực nông
nghiệp.
3.2.1.Biểu kinh tế của Kênê
[Quesney].
Đây là một trong
những phát minh rất lớn của
Chủ nghĩa trọng nông: biểu
kinh tế là sự mô hình hoá mối
liên hệ phụ thuộc lẫn nhau
trong phạm vi toàn xã hội của
các giai cấp hiện có, nó được
coi là tổ tiên của bảng kinh tế
chung nổi tiếng của ngành kế
toán hiện nay.
Nội dung chính của biểu kinh
tế bao gồm:
Các giả định để tiến hành
nghiên cứu: Ví dụ: chỉ nghiên
cứu tái sản xuất giản đơn,
trừu tượng hoá sự biến động 3
giá cả, xã hội chỉ có ba giai
cấp… này lại chuyển vào tay giai
cấp không sản xuất. Sơ đồ thực hiện sản phẩm
được thông qua năm hành vi
của ba giai cấp là giai cấp sở
hữu, giai cấp sản xuất và giai
cấp không sản xuất. Hành vi 5: Giai cấp không
sản xuất dùng một tỷ tiền bán
nông cụ mua nông sản cho
tiêu dùng cá nhân, số tiền này
chuyển về tay gia cấp sản
xuất, khi đó gai cấp sản xuất
có 2 tỷ tiền nộp tô cho địa
chủ [giai cấp sở hữu] và giai
cấp sở hữu lại có 2 tỷ tiền. Ví dụ:
Tổng giá trị sản phẩm xã hội
có 7 tỷ gồm: 2 tỷ sản phẩm
công nghiệp, 5 tỷ sản phẩm
nông nghiệp.
Tiền có: 2 tỷ [của giai cấp sở
hữu do giai cấp sản xuất trả
địa tô]. Cơ cấu giá trị sản
phẩm sau một chu kỳ sản
xuất như sau:
- Giai cấp sản xuất có 5 tỷ là
sản phẩm nông nghiệp, trong
đó: 1 tỷ để khấu hao tư bản
ứng trước lần đầu [tư bản cố
định], 2 tỷ tư bản ứng trước
hàng năm [tư bản lưu động]
và 2 tỷ là sản phẩm ròng.
- Giai cấp không sản xuất có
2 tỷ là sản phẩm công nghiệp,
trong đó: 1 tỷ để bù đắp cho
tiêu dùng, 1 tỷ để bù đắp
nguyên liệu tiếp tục sản xuất.
Sự trao đổi sản phẩm giữa
các giai cấp được thực hiện
qua 5 hành vi:
Hành vi 1: giai cấp sở hữu
dùng 1 tỷ tiền để mua nông
sản tiêu dùng cho cá nhân, 1
tỷ tiền được chuyển vào tay
giai cấp sản xuất.
Hành vi 2: Giai cấp sở hữu
dùng 1 tỷ tiền còn lại để mua
công nghệ phẩm, 1 tỷ tiền
này chuyển vào tay giai cấp
không sản xuất.
Hành vi 3: Giai cấp không
sản xuất dùng 1 tỷ tiền bán
công nghệ phẩm ở trên để
mua nông sản [làm nguyên
liệu], 1 tỷ tiền này chuyển
vào tay giai cấp sản xuất.
Hành vi 4: Giai cấp sản xuất
mua 1 tỷ tư bản ứng trước
đầu tiên [nông cụ], số tiền Quan hệ giao nộp và kết thúc
quá trình thực hiện sản phẩm.
Cả ba giai cấp có đủ điều
kiện để thực hiện quá trình
sản xuất tiếp theo.
3.2.2.Đánh giá về Biểu kinh
tế
của
Quesney:
Tiến bộ:
Họ xem xét tổng quan quá
trình tái sản xuất xã hội theo
những tỷ lệ cân đối cơ bản
giữa các giai tầng trong xã
hội.
Họ đã quy mọi hành vi trao
đổi về một quan hệ cơ bản:
quan hệ hàng - tiền. - Phương
pháp nghiên cứu về cơ bản là
khoa học, đúng đắn.
Hạn chế lớn nhất của biểu
kinh tế này là: chỉ dùng lại ở
việc nghiên cứu tái sản xuất
giản đơn và coi ngành công
nghiệp không phải là ngành
sản xuất vật chất.
4. Lý thuyết giá trị – lao
động, lý thuyết tiền tệ của
Petty[William Petty ]. Nhận
xét đánh giá những lý luận
trên.
Trả lời:
4.1.1.Lý thuyết giá trị – lao
động.
W.Petty không trực
tiếp trình bày lý luận về giá
trị nhưng thông qua những
luận điểm của ông về giá cả
có thể khẳng định ông là
người đầu tiên đưa ra nguyên
lý về giá trị lao động
Nghiên cứu về giá cả, ông
cho rằng có hai loại giá cả: giá cả tự nhiên và giá cả
chính trị. Giá cả chính trị [giá
cả thị trường] do nhiều yếu tố
ngẫu nhiên chi phối, nên rất
khó xác định chính xác. Giá
cả tự nhiên [giá trị] do hao phí
lao động quyết định, và năng
suất lao động có ảnh hưởng tới mức hao phí đó.
Ông xác định giá cả tự
nhiên của hàng hoá bằng
cánh so sánh lượng lao động
hao phí để sản xuất ra hàng
hoá với lượng lao động hao
phí để tạo ra bạc hay vàng.
Theo ông giá cả tự nhiên
[giá trị của hàng hoá] là sự
phản ánh giá cả tự nhiên của
tiền tệ, cũng như ánh sáng
mặt trăng là sự phản chiếu
của mặt trời. Nhưng ông lại
chỉ thừa nhận lao động khai
thác vàng là lao động tạo ra
giá trị còn giá trị của hàng
hoá chỉ được xác định khi
trao đổi với tiền.
Khi trình bày về mối quan
của năng suất lao động đối
với lượng giá trị hàng hoá:
Ông khẳng định giá cả tự
nhiên [giá trị] tỷ lệ nghịch
với năng suất lao động khai
thác vàng bạc.
Một lý luận quan trọng của
ông đó là: ông khẳng định:
“lao động là cha của của cải
còn đất đai là mẹ của của
cải”, luận điểm này đúng nếu
xem của cải là giá trị sử
dụng, song sẽ là sai nếu hiểu
lao động và tự nhiên là nhân
tố tạo ra giá trị. Ông đã tìm
thước đo thống nhất của giá
trị là thước đo chung đối với
tự nhiên và lao động, ông đưa
ra quan điểm “thước đo thông
thường của giá trị là thức ăn
trung bình hàng ngày của mỗi
người, chứ không phải là lao
động hàng ngày của người
đó”. Với luận điểm này đã
chứng tỏ ông chưa phân biệt
được rõ giá trị sử dụng và giá
trị trao đổi, chưa biết đến tính
chất xã hội của giá trị. Ngoài
ra ông còn có ý định giải 4
quyết mối quan hệ giữa lao
động phức tạp và lao động
giản đơn nhưng không thành
công.
4.2.1. Lý thuyết tiền tệ của
Petty.
W. Petty nghiên cứu
hai thứ kim loại giữ vai trò
tiền tệ là vàng và bạc. Ông
cho rằng, quan hệ tỷ lệ giữa
chúng là do lượng lao động
hao phí để tạo ra vàng và bạc
quyết định. Ông đưa ra luận
điểm, giá cả tự nhiên của tiền
tệ là do giá cả của tiền tệ có
giá trị đầy đủ quyết định. Từ
đó ông khuyến cáo, nhà nước
không thể hy vọng vào việc
phát hành tiền không đủ giá,
vì lúc đó giá trị của tiền tệ sẽ
giảm xuống.
W. Petty là người
đầu tiên nghiên cứu số lượng
tiền tệ cấn thiết trong lưu
thông trên cơ sở thiết lập mối
quan hệ giữa khối lượng hàng
hoá trong lưu thông và tốc độ
chu chuyển của tiền tệ. Ông
cho rằng thời gian thanh toán
càng dài thì số lượng tiền tẹ
cần thiết cho lưu thông càng
lớn.
Ông
phê
phán
những người trọng thương về
tích trữ tiền không hạn độ.
Ông cho rằng không phải lúc
nào tiền tệ cũng là tiêu chuẩn
của sự giàu có, tiền tệ chỉ là
công cụ của lưu thông hàng
hoá, vì thế không cần phải
tăng số lượng tiền tệ quá mức
cần thiết.
5.Đặc trưng phương pháp
luận và thuyết “ Bàn tay vô
hình “[thuyết tự do kinh tế]
của Adam Smith. Ý nghĩa
thực tiễn của việc nghiên
cứu vấn đề này
Trả lời:
5.1. Đặc trưng phương
pháp luận Adam Smith.
A. Smith là nhà tư
tưởng tiên tiến của giai cấp tư sản, ông muốn thủ tiêu tàn
tích phong kiến, mở đường
cho Chủ nghĩa tư bản phát
triền, kêu gọi tích luỹ và phát
triển lực lượng sản xuất theo
ý nghĩa tư bản, xem chế độ tư
bản chủ nghĩa là hợp lý duy
nhất. K Marx coi A. Simth là
nhà kinh tế học tổng hợp của
công trường thủ công.
Thế giới quan của
A. Smith về cơ bản là duy
vật. Ông tiến xa hơn những
người trước là tìm hiểu các
quy luật kinh tế. Đó là đặc
trưng trong phương pháp
luận của ông. Nhưng chủ
nghĩa duy vật ở ông còn tự
phát, máy móc. Ông còn xa lạ
với phép biện chứng.
K. Marx đã phân
tích một cách sâu sắc phương
pháp luận của A. Smith – một
phương pháp hai mặt mâu
thuận, trộn lẫn các phần tử
khoa học và tầm thường. Một
mặt, đi sâu vào mối liên hệ
bên trong của chế độ tư bản
và có thể nói là đi vào cơ cấu
sinh lý của nó; mặt khác, chỉ
là mô tả, liệt kê, thuật lại
bằng khái niệm có tính chất
công thức những cái biểu
hiện bề ngoài đời sống kinh
tế. Hai mặt đó không những
chúng sống yên ổn bên nhau
mà còn xoắn xuýt lấy nhau và
thường xuyên mâu thuẫn mới
nhau.
Phương pháp luận
mâu thuẫn, vừa khoa học vừa
tầm thường của A. Smith có
ảnh hưởng tới kinh tế học tư
sản sau này.
5.2. Phân tích thuyết “ Bàn
tay vô hình “[thuyết tự do
kinh tế] của Adam Smith
Adam Smith là nhà
kinh tế chính trị cổ điển nổi
tiếng ở Anh và trên thế giới,
là tiền bối lớn nhất của Mác.
Ông có nhiều lý luận rất có
giá trị trong đó chúng ta phải
nhắc đến lý thuyết “bàn tay
vô hình” của ông. Học thuyết “bàn tay
vô hình” nghiên cứu cơ chế
hoạt động của một cơ chế thị
trường cạnh tranh và nó cũng
phản ánh quan điểm chung
của các nhà kinh tế học cổ
điển.
Theo ông, một chế
độ kinh tế bình thường phải
dựa trên cơ sở sản xuất và
trao đổi hàng hóa và một nền
kinh tế hàng hóa bình thường
phải dựa trên cơ sở tự do
cạnh tranh. Ngược lại thì chỉ
là sản phẩm của ngẫu nhiên,
độc đoán và ngu dốt của con
người.
Liên minh trao đổi
là đặc tính vốn có của con
người. Nó tồn tại vĩnh viễn
với loài người. Ông cho rằng
mỗi người trong quá trình
trao đổi sản phẩm không ai
xuất phát từ lợi ích công mà
xuất phát từ lợi ích cá nhân
của mình. Lợi thế cá nhân
chính là mục đích, là động
lực xuất phát. Khi chạy theo
lợi ích cá nhân thì lợi ích
công cộng cũng được hình
thành bởi một bàn tay vô
hình dẫn dắt mọi người phục
vụ cho lợi ích công, phục vụ
cho lợi ích xã hội. Bàn tay vô
hình đó không nằm trong ý
muốn ban đầu của con người.
Bàn tay vô hình đó
chính là các quy luật kinh tế
khách quan chi phối hành
động của con người. Adam
Smith gọi hệ thống các quy
luật khách quan đó là một trật
tự thiên định. Ông chỉ ra các
điều kiện cần thiết để cho các
quy luật hoạt động là: phải có
sự tồn tại và phát triển sản
xuất trao đổi hàng hóa, nền
kinh tế phải phát triển trên cơ
sở tự do kinh tế, tự do mậu
dịch. Quá trình ấy được thực
hiện bởi chính quá trình cạnh
tranh giữa các lợi ích cá
nhân. Không ai cần kế hoạch,
không ai cần mệnh lệnh, thị
trường sẽ tự động giải quyết
tất cả. 5
Theo ông quan hệ
giữa người và người là quan
hệ phụ thuộc về kinh tế chỉ
có Chủ nghĩa tư bản mới là
xã hội bình thường, nó được
xây dựng trên cơ sở các quy
luật tự nhiên. Ông cho rằng
các chế độ XH trước đó là
không bình thường. Từ đó
ông cho rằng nhà nước không
nên can thiệp vào kinh tế, nhà
nước chỉ có chức năng bảo vệ
quyền sở hữu tư bản, đấu
tranh chống kẻ thù bên ngoài,
chống tội phạm trong nước.
Nhà nước chỉ nên can thiệp
vào các chức năng kinh tế khi
nó vượt ra ngoài khả năng
của các chủ doanh nghiệp.
Ông cho rằng chính sách kinh
tế tốt nhất của nhà nước là tự
do kinh tế.
5.3.Đánh giá nhận xét.
Quan điểm kinh tế
của ông phản ánh phù hợp
với điều kiện kinh tế xã hội
của Chủ nghĩa tư bản vào
thời kỳ đó. Vào thời kỳ đó,
trong lĩnh vực sản xuất công
nghiệp thì tự do cạnh tranh là
đặc trưng chủ yếu và phổ
biến vì lúc đó quy mô các
doanh nghiệp còn nhỏ, số
lượng các doanh nghiệp còn
ít. Sự lựa chọn của mỗi cá
nhân, mỗi doanh nghiệp là có
hiệu quả nhất và thích hợp
nhất.
Lý thuyết bàn tay vô hình
là lý thuyết kinh tế vĩ mô
trong điều kiện tự do cạnh
tranh.
Trong một nền kinh tế cạnh
tranh không hoàn toàn thì lý
thuyết này vẫn là cơ sở của lý
thuyết kinh tế vĩ mô hiện đại.
Phương pháp lý luận của
ông có tính rõ rệt khoa học và
tầm thường:
Khoa học: quan sát các mối
liên hệ bên trong, các phạm
trù kinh tế hoặc cơ cấu bị che
lấp của hệ thống kinh tế tư
sản. Tầm thường: lý luận của
ông còn nhiều mâu thuẫn,
ông đặt các mối quan hệ trên
như mối liên hệ bề ngoài của
hiện tượng cạnh tranh.
5.4. Ý nghĩa thực tiển
Tôn trọng quy luật kinh tế
khách quan.
Tôn trọng tư tưởng tự do
kinh tế [tự do kinh doanh, tự
do sản xuất, tự do cạnh tranh,
thọ trường tự do…]
Nhà nước đôi khi cũng có
chức năng kinh tế.
6. Lý luận giá trị lao động,
lý luận thu nhập của Adam
Smith. Nhận xét đánh giá
những lý luận trên.
Trả lời:
6.1.1.Lý luận giá trị lao
động của Adam Smith .
A.Smith
[17231790] đã mở ra giai đoạn
phát triển mới của sự phát
triển các học thuyết kinh tế.
Ông đi sâu phân tích bản chất
để tìm ra các quy luật sự vận
động của các hiện tượng và
các quá trình kinh tế.
So víi W.Petty vµ trường
ph¸i träng n«ng, lý thuyÕt gi¶
thiÕt lao ®éng cña A.Smith cã
bước tiÕn ®¸ng kÓ .
Còng chØ ra r»ng tÊt c¶ c¸c
lo¹i lao ®éng s¶n xuÊt ®Òu t¹o
ra gi¸ trÞ . lao ®éng lµ thước
®o cuèi cïng cña gi¸ trÞ.
Ph©n biÖt râ rµng gi¸
trÞ sö dông vµ gi¸ trÞ trao ®æi
vµ khẳng ®Þnh. Gi¸ trÞ sö
dông kh«ng quy ®Þnh gi¸ trÞ
trao ®æi. ¤ng b¸c bá quan
®iÓm Ých lîi quyÕt ®Þnh gi¸ trÞ
trao ®æi.
Khi ph©n tÝch gi¸ trÞ hµng
ho¸: Gi¸ trÞ ®îc biÓu hiÖn ë
gi¸ trÞ trao ®æi cña hµng ho¸
trong mèi quan hÖ víi sè lîng
hµng ho¸ kh¸c, cßn trong nÒn
s¶n xuÊt hµng ho¸ ph¸t triÓn
nã ®îc biÓu hiÖn ë tiÒn.
¤ng chØ ra lîng gi¸
trÞ hµng ho¸ do lao ®éng hao
phÝ lao ®éng trung b×nh cÇn thiÕt quy ®Þnh . Lao ®éng
gi¶n ®¬n vµ lao ®éng phøc
t¹p ¶nh hëng kh¸c nhau ®Õn
lîng gi¸ trÞ hµng ho¸. Trong
cïng mét thêi gian, lao ®éng
chuyªn m«n, phøc t¹p xÏ t¹o
ra mét lîng gi¸ trÞ nhiÒu h¬n
so víi lao ®éng cã chuyªn
m«n hay lao ®éng gi¶n ®¬n.
Ph©n biÖt gi¸ c¶ tù
nhiªn vµ gi¸ c¶ thÞ trêng : gi¸
c¶ tù nhiªn lµ biÓu hiÖn b»ng
tiÒn cña gi¸ trÞ. ¤ng kh¼ng
®Þnh hµng ho¸ ®îc b¸n theo
gi¸ c¶ tù nhiªn, nÕu gi¸ c¶ ®ã
ngang víi møc cÇn thiÕt ®Ó
tr¶ cho tiÒn l¬ng, ®Þa t«, vµ lîi
nhuËn . Theo «ng gi¸ c¶ tù
nhiªn lµ Trung t©m, gi¸ c¶ thÞ
trêng lµ gi¸ b¸n thùc tÕ cña
hµng ho¸ gi¸ c¶ nµy nhÊt trÝ
víi gi¸ c¶ tù nhiªn khi ®îc ®a
ra thÞ trêng víi sè lîng ®ñ
“tho¶ m·n lîng cÇu thùc tÕ’’.
Gi¸ c¶ tù nhiªn cã tÝnh chÊt
kh¸ch quan cßn gi¸ c¶ thÞ trêng phô thuéc vµo nh÷ng yÕu
tè nh quan hÖ cung cÇu vµ
c¸c lo¹i quan hÖ ®êng kh¸c .
* M©u thuÉn vµ sai lÇm :
: §a ra hai ®Þnh nghÜa + “gi¸ trÞ toµn ®iÓm
lµ do lao ®éng quy ®Þnh, gi¸
trÞ lµ do hao phÝ lao ®éng ®Ó
s¶n xuÊt ra hµng ho¸ quy
®Þnh”.
Gi¸ trÞ cña mét hµng hãa
b»ng sè lîng lao ®éng mµ
nhê hµng ho¸ ®ã cã thÓ mua
®îc .
§©y lµ ®iÒu sai lÇm, luÈn
quÈn cña A®am.Smith. ¤ng
®· ®a vµo hiÖn tîng, mét bªn
lµ chñ nghÜa lao ®éng cho
nhµ t b¶n, mét bªn lµ nhµ t
b¶n tr¶ l¬ng cho c«ng nh©n.
VÒ cÊu thµnh lîng
gi¸ trÞ hµng ho¸ : Theo «ng
trong s¶n xuÊt t b¶n chñ
nghÜa, tiÒn l¬ng, lîi nhuËn vµ
®Þa t« lµ ba nguån gèc ®Çu
tiªn cña mäi thu nhËp, còng
nh cña mäi gi¸ trÞ t¸c ®éng.
A. Smith coi tiÒn l¬ng, lîi
nhuËn vµ ®Þa t« lµ nguån gèc 6
®Çu tiªn cña mäi thu nhËp, ®ã
lµ quan ®iÓm ®óng ®¾n. Song
«ng l¹i lÇm ë chç coi c¸c
kho¶n thu nhËp lµ nguån gèc
®Çu tiªn cña mäi gi¸ trÞ t¸c
®éng. ¤ng ®· lÉn lén hai vÊn
®Ò h×nh thµnh gi¸ trÞ vµ ph©n
phèi gi¸ trÞ, h¬n n÷a, «ng
còng xem thêng t b¶n bÊt
biÕn ©; coi gi¸ trÞ cã [v+m].
6.2.1.Lý luận thu nhập của
Adam Smith.
Đây là điểm trung
tâm và là cơ sở xuất phát giải
quyết các vấn đề lý luận
trong học thuyết kinh tế của
Adam Smith:
Lý luận về tiền
lương:
Ông quan
niệm
tiền
lương là một
phần thu nhập
của công nhân
làm thuê, là
một phần của
sản phẩm lao
động.
Ông
ủng hộ việc
trả tiền lương
cao.
Hai yếu tố quyết định đến
mức tiền lương là cầu về lao
động và giá cả trung bình của
các tư liệu sinh hoạt, ông
cũng đã phân biệt sự khác
nhau giữa tiền lương thực tế
và tiền lương danh nghĩa.
Lý luận
nhuận, lợi tức: về lợi Adam Smith chỉ rõ nguồn
gốc và bản chất của lợi
nhuận: là một khoản khấu trừ
do công nhân tạo ra là kết
quả của lao động đem lại.
Về lợi tức ông cho rằng lợi
tức là một bộ phận của lợi
nhuận, được đẻ ra từ lợi
nhuận. Lợi túc của tư bản cho
vay được trả bằng cách lấy
vào lợi nhuận thuần tuý và do
mức lợi nhuận thuần tuý
quyết định.
Ông cũng chỉ ra những nhân tố ảnh hưởng tới lợi
nhuận như: tiền công, quy mô
tư bản, lĩnh vực đầu tư, cạnh
tranh, sự can thiệp của nhà
nước…
Ông cũng là người chỉ ra
xu hướng giảm xuống của tỷ
suất lợi nhuận, và cho rằng tư
bản đầu tư ngày càng nhiều
thì tỷ suất lợi nhuận càng
thấp.
Lý luận về địa tô:
Adam Smith có hai luận
điểm về khái niệm địa tô: một
là, địa tô là khoản khấu trừ
thứ nhất vào sản phẩm lao
động, hai là, địa tô là khoản
tiền trả về việc sử dụng đất
đai, phụ thuộc vào mức độ
phì nhiêu của đất đai và việc
người nông dân có khả năng
trả tiền cho ruộng đất.
Về hình thức địa tô, Adam
Smith đã phân biệt hai hình
thái của địa tô chênh lệch I,
nhưng ông lại chưa nghiên
cứu địa tô chênh lệch II.
7.Lý luận giá trị lao động và
lý luận thu nhập của David
Ricardo. Nhận xét đánh giá
những lý luận trên.
Trả lời:
7.1.1.Lý luận giá trị lao
động của David Ricardo.
Lý luận về giá trị là
lý luận chiếm vị trí quan
trọng trong hệ thống quan
điểm kinh tế của Ricardo, là
cơ sở của học thuyết của ông
và được xây dựng trên cơ sở
kế thừa, phê phán, phát triển
lý luận giá trị của A.Smith.
Ông định nghĩa giá trị hàng
hoá, hay số lượng của một
hàng hoá nào khác mà hàng
hoá khác trao đổi, là số lượng
lao động tương đối cần thiết để
sản xuất ra hàng hoá đó quyết
định. Ông phê phán sự không
nhất quán trong khi định nghĩa
về giá trị của A.Smith.
Ông cũng đã có sự phân biệt rõ ràng dứt khoát hơn giữa giá
trị sử dụng và giá trị trao đổi,
ông nhấn mạnh “ tính hữu ích
không phải là thước đo giá trị
trao đổi, mặc dầu nó rất cần
thiết cho giá trị này”. Từ đó
ông phê phán sự đồng nhất hai
khái niệm tăng của cải và tăng
giá trị.
Theo ông lao động hao phí
để sản xuất ra hàng hoá không
phải chỉ có lao động trực tiếp,
mà còn có cả lao động cần
thiết trước đó để sản xuất ra
các công cụ, dụng cụ, nhà
xưởng dùng vào việc sản xuất
ấy.
Về thước đo giá trị, ông
cho rằng cả vàng hay bất cứ
một hàng hoá nào không bao
giờ là một thước đo giá trị
hoàn thiện cho tất cả mọi vật.
Mọi sự thay đổi trong giá cả
hàng hoá là hậu quả của
những thay đổi trong giá trị
của chúng.
Về giá cả ông khẳng định:
giá cả hàng hoá là giá trị trao
đổi của nó, những biểu hiện
bằng tiền, còn giá trị được đo
bằng lượng lao động hao phí
để sản xuất ra hàng hoá, ông
cũng đã tiếp cận với giá cả
sản xuất thông qua việc giải
thích về giá cả tự nhiên.
Ricardo cũng đã đề cập đến
lao động phức tạp và lao động
giản đơn nhưng ông chưa lý
giải việc quy lao động phức
tạp thành lao động giản đơn.
Ông cũng là người đầu tiên
mô tả đầy đủ cơ cấu lượng giá
trị, bao gồm 3 bộ phận: c, v,
m,
tuy nhiên ông chưa phân biệt
được sự chuyển dịch của c vào
sản phẩm như thế nào, và
không tính đến yếu tố c2.
D.Ricardo bác bỏ quan điểm
cho rằng tiền lương ảnh hưởng
đến giá trị hàng hoá.
Tuy nhiên trong lý luận giá trị
của D.Ricardo cũng còn
những hạn chế, đó là: 7
Chưa phân biệt giá trị và
giá cả sản xuất mặc dù đã
nhìn thấy xu hướng bình quân
hoá tỷ suất lợi nhuận.
Coi giá trị là phạm trù vĩnh
viễn, là thuộc tính của mọi vật
[theo Mác phạm trù này chỉ
tồn tại trong nền sản xuất hàng
hoá].
Chưa phát hiện ra tính chất
hai mặt của sản xuất hàng hoá.
Chưa làm rõ tính chất lao
động xã hội quy định giá trị
như thế nào, thậm chí cho
răng lao động xã hội cần thiết
do điều kiện sản xuất xấu nhất
quyết định.
Chưa phân tích được mặt
chất của giá trị và các hình thái
giá trị.
7.2.1.Lý luận thu nhập của
David Ricardo.
Về tiền lương: Ông
coi tiền lương là giá cả tự
nhiên của hàng hoá lao động,
là giá cả các tư liệu sinh hoạt
nuôi sống người công nhân và
gia đình anh ta. Ông cho rằng
mức tiền lương vào yếu tố lịch
sử văn hoá. Theo ông tiền
lương cao sẽ làm cho nhân
khẩu tăng nhanh, đẫn đến
thừa lao động, lại làm cho tiền
lương hạ xuống, đời sống công
nhân xấu đi, là kết quả của việc
tăng số. Công lao to lớn của
Ricardo là phân tích tiền lương
thực tế và đặc biệt là đã xác
định được tiền lương như là
một phạm trù kinh tế. Ông xét
tiền lương trong mối quan hệ
giai cấp, mối quan hệ về lợi
ích.
Về
lợi
nhuận:
Ricardo xác nhận giá trị mới
do công nhân sáng tạo ra bao
gồm tiền lương và lợi nhuận.
Ông đã phát hiện ra quy luật
vận động của tư bản là: Nếu
năng suất lao động tăng thì
tiền lương sẽ giảm tương đối
còn lợi nhuận của tư bản sẽ
tăng tuyệt đối. Tuy nhiên ông
chưa biết đến phạm trù giá trị thặng dư. Ông đã có nhận xét
tiến gần đến lợi nhuận bình
quân [những tư bản có đại
dương bằng nhau thì đem lại
lợi nhuận như nhau] nhưng
không chứng minh được. Ông
cho rằng nếu hạ thấp tiền công
thì lợi nhuận tăng lên còn giá
trị hàng hoá không đổi. Ông
đã thấy xu hướng giảm xuống
của tỷ suất lợi nhuận tuy
nhiên chưa giải thích được
cạn kẽ.
Về địa tô: Ông là
người đầu tiên dựa trên cơ sở
lý thuyết giá trị lao động để
giải thích địa ô. Ông cho rằng
do ruộng đất có giới hạn, độ
mùa mỡ của đất đai giảm sút,
năng suất đầu tư bất tương
xứng, dân số lại tăng nhanh,
dẫn đến nạn khan hiếm nông
sản, cho nên xã hội phải canh
tác tất cả ruộng đất xấu và giá
trị nông phẩm là do hao phí
trên ruộng đất xấu quyết định.
Nếu kinh doanh trên ruộng
đất xấu và trung bình sẽ thu
được lợi nhuận siêu ngạch,
phần này phải nộp cho địa chủ
dưới hình thức địa tô. Ông
cũng đã phân biệt được địa tô
và tiền tệ: Địa tô là việc trả
công cho những khả năng
thuần tuý tự nhiên, còn tiền tô
bao gồm cả địa tô và lợi
nhuận do tư bản đầu tư vào
ruộng đất.
8. Thuyết nhân khẩu của
Thomas Robert Malthus.
Trả lời:
8.1. Nội dung của thuyết
nhân khẩu của Malthus. Malthus đặt ra giả
thuyết rằng sự tăng dân số
luôn vượt quá sự tăng các
phương tiện sinh hoạt.
Malthus xuất phát từ những
hiện tượng của giới thực vật,
động vật, có khả năng sinh
sôi nảy nở vô hạn và thiên
nhiên lại tỏ ra "tiết ước" về
chỗ ở, thức ăn, do đó, những
đơn vị thừa ra phải chết đi,
thế giới động vật, thực vật
được giữ lại trong giới hạn của dự trữ thức ăn. Malthus
đem những quy luật thuần
tuý có tính chất sinh vật học
của tự nhiên áp dụng vào xã
hội loài người và chứng minh
rằng cứ 25 năm, dân số lại
tăng gấp đôi, còn tư liệu sinh
hoạt không thể tăng nhanh
hơn cấp số cộng. Ông phác
hoạ ra bức tranh thảm hoạ
của sự phát triển loài người
và kết luận rằng cái khuynh
hướng dân số muốn thường
xuyên sinh sôi nảy nở, vượt
quá tư liệu sinh hoạt là quy
luật dân số, nó tác động mạnh
mẽ ngay từ khi xã hội sinh ra.
Theo Malthus, sự nghèo khổ,
đói khát, chết dần chết mòn
và những nỗi bất hạnh khác
không phải do chế độ xã hội
mà do số dân không thích
ứng tư liệu sinh hoạt, do
những quy luật tự nhiên và
thói hư tật xấu của con người.
Malthus nói: "Nhân dân phải
tự buộc tội bản thân mình là
chủ yếu về những sự đau khổ
của mình". Malthus cũng cố
chứng minh lý luận của mình
bằng những tài liệu thực tế.
Ông vin vào tình hình dân số
gia tăng ở Mỹ để chứng minh
dân số tăng theo cấp số nhân.
Dựa vào những tài liệu ở
nước Pháp để lấy quy luật
màu mỡ đất đai giảm dần
"làm cơ sở để chứng minh tư
liệu sinh hoạt tăng theo cấp
số cộng". Malthus cho rằng,
những cái điều tiết thăng
bằng dân số và tư liệu sinh
hoạt là những lực lượng có
tính chất phá hoại, là thói hư
tật xấu, nạn đói kém bần
cùng, dịch bệnh và chiến
tranh.
9. Lý luận giá trị, lý luận 3
nhân tố sản xuất và 3 nguồn
thu nhập của Jean Baptiste
Say.
Trả lời:
9.1. Lý luận giá trị [ lý luận
tính hiểu dụng hay giá trị sử
dụng]của Jean Baptiste Say. 8
Ông xa rơi ly thuyêt
gia tri lao đông va ung hô ly
thuyêt gia tri ich lơi hay gia tri
chu quan. Ông cho răng co san
xuât thi co tao ra gia tri sư
dung. Gia tri sư dung đo truyên
cho môi vât phâm gia tri trao
đôi hay gia tri. Trong “hoc
thuyêt vê tinh hưu dung” Say
cho răng gia ca la thươc đo gia
tri, còn gia tri la thươc đo lơi
ich [do gia tri sư dung cua vât
phâm]. Ich lơi cua vât phâm
cang nhiêu thi gia tri cua vât
phâm cang cao.
Nhân xet:
Vê nguôn gôc gia tri no đôi
lâp hoan toan vơi hoc thuyêt
gia tri lao đông cua David
Ricardo va Adam Smith.
Chưa giai thich đươc vi sao
co nhưng cua cai co gia tri sư
dung ma không co gia tri trao
đôi, chưa lam ro gia tri sư dung
ơ đây la gia tri sư dung khach
quan hay gia tri sư dung chu
quan.
Chinh luân điêm nay la môt
trong nhưng cơ sơ xuât phat đê
hinh thanh hoc thuyêt gia tri
công dung sau nay dươi hinh
thưc hoc thuyêt công dung cân
biên. đông tao ra tiên lương, đât
đai tao ra đia tô, tư ban tao ra
lơi tưc. Theo ông, ơ đây
không co quan hê boc lôt.
Nha tư ban kinh doanh cung
như nhưng ngươi lao đông,
thu nhâp cua ho cung la tiên
lương nhưng đo la loai tiên
lương đăc biêt, la phân
thương đăc biêt cho năng lưc
kinh doanh va tinh thân lam
viêc cua anh ta. Công nhân
lam viêc đơn gian nên nhân
đươc tiên lương thâp, ông
thưa nhân tiên lương chưa
đap ưng nhu câu sinh hoat
cho công nhân nhưng ông
cho răng xã hôi tư ban không
chiu trach nhiêm vê tinh hinh
nay.
Nhân xet:
Quan điêm vê thu nhâp cua
Say đôi lâp vơi hoc thuyêt gia
tri lao đông vê nguôn gôc cua
thu nhâp. Ông phu nhân vê sư
boc lôt cua chu tư ban đôi vơi
ngươi lam thuê. Quan điêm vê
thu nhâp cua Say la cơ sơ đê
hinh thanh hoc thuyêt năng
suât cân biên sau nay. 9.2. Lý luận 3 nhân tố sản
xuất và 3 nguồn thu nhập
của Jean Baptiste Say. Đươc phan anh
trong hoc thuyêt 3 nhân tô
cua ông va no liên quan mât
thiêt vơi thuyêt gia tri công
dung cua ông. Say phu nhân
vai trò thuân tuy cua lao đông
trong viêc hinh thanh gia tri.
Theo ông, 3 nhân tô tao nên
gia tri la lao đông, tư san va
tư nhiên [đât đai]. Môi nhân
tô chi đưa lai môt lơi ich [gia
tri] nhât đinh. Ông cho răng
nên đâu tư thêm tư ban vao
san xuât se lam tăng thêm san
phâm phu hơp vơi phân tăng
thêm vê gia tri. May moc
tham gia vao qua trinh san
xuât se tham gia vao tăng gia
tri 3 nhân tô trên se tao ra cho
cac chu sơ hưu cua no nhưng
nguôn thu nhâp riêng biêt, lao 9 This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.
Video liên quan