Các chất gây hại cho hệ thần kinh là gì

Aminoglycosid và kháng sinh polypeptid làm giảm acetylcholine trước synap và độ nhạy cảm của màng sau synap với acetylcholine. Ở nồng độ huyết thanh cao, các kháng sinh này có thể làm ức chế thần kinh - cơ ở những bệnh nhân bị nhược cơ. Việc điều trị penicillamine kéo dài có thể gây ra một hội chứng hồi phục có biểu hiện lâm sàng và điện cơ giống như chứng nhược cơ Nhược cơ Bệnh nhược cơ liên quan đến sự yếu cơ và tình trạng dễ mệt mỏi do sự phá hủy các thụ thể acetylcholine qua trung gian tế bào và tự kháng nguyên.... đọc thêm . Uống hoặc tiêm tĩnh mạch quá nhiều magnesium [có nồng độ trong máu lên tới 8 đến 9 mg/dL [4 to 4,5 mmol/L]] cũng có thể gây yếu cơ nghiêm trọng giống như hội chứng nhược cơ. Thuốc ức chế miễn dịch [ví dụ, ipilimumab, nivolumab, pembrolizumab], một nhóm thuốc chống ung thư, có tác dụng phụ liên quan đến miễn dịch ở < 1% bệnh nhân; tuy nhiên, những tác dụng phụ này [bao gồm nhược cơ] vẫn tiếp tục được báo cáo.

Điều trị bao gồm loại bỏ thuốc hoặc chất độc và cung cấp hỗ trợ hô hấp cần thiết và chăm sóc chuyên sâu. Atropine 0,4 đến 0,6 mg uống 3 lần mỗi ngày làm giảm tiết dịch đường hô hấp ở bệnh nhân tăng cholinergic. Liều cao hơn [ví dụ, 2 đến 4 mg tĩnh mạch mỗi 5 phút] có thể là cần thiết đối với ngộ độc phospho hữu cơ hoặc ngộ độc khí độc.

ADSENSE/lession_isads=0

Cũ nhất Mới nhât Thích nhiều

  • STT Loại chất Tên chất Tác hại
    1 Chất kích thích rượu; chè; cà phê

    - Hoạt động của lão bị rối loạn, trí nhớ kém

    - Kích thích hệ thần kinh gây khó ngủ

    2 Chất gây nghiện thuốc lá; ma túy; cần sa

    - Lmà cơ thể suy yếu, dễ mắc bệnh về hô hấp, khả năng làm việc trí óc giảm, trí nhớ kém

    - Suy yếu nòi giống, cạn kiệt kinh tế, lây nhiễm HIV, mất nhân cách -> mất trật tự an ninh xã hội

    3 Chất làm suy giảm chức năng hệ thần kinh thuốc an thần

    - Gây ức chế thần kinh có khả năng dẫn đến sự phụ thuộc của bệnh nhân vào thuốc.

    - Dùng nhiều có thể tử vong

Nếu bạn hỏi, bạn chỉ thu về một câu trả lời.
Nhưng khi bạn suy nghĩ trả lời, bạn sẽ thu về gấp bội!

Lưu ý: Các trường hợp cố tình spam câu trả lời hoặc bị báo xấu trên 5 lần sẽ bị khóa tài khoản

Gửi câu trả lời Hủy

Các chất tác động tâm thần [TĐTT] bao gồm tất cả những chất có tác dụng trên hệ thần kinh trung ương. Các chất này có thể là hoá dược, thảo dược.

Việc sử dụng các chất TĐTT dễ gây ra một trạng thái phụ thuộc [nghiện] về tâm lí hay thể chất.

Các chất TĐTT gây ra trạng thái phụ thuộc thuộc bao gồm:

- Các chất ma tuý:

+ Nhóm opioid bao gồm thuốc phiện, heroin, morphin, promedol, dolargan, methadon... trong đó heroin là mạnh nhất và được sử dụng nhiều nhất. Các chất này khi vào cơ thể theo các đường khác nhau [tiêm, hít, uống] đều chuyển hóa thành morphin. Morphin sẽ tác động lên các thụ cảm thể morphin trên não, gây ra khoái cảm cho bệnh nhân. Các khoái cảm này rất mạnh mẽ [không gì sánh bằng] khiến cho bệnh nhân luôn nhớ và thèm chúng, vì vậy họ sẽ tìm cách sử dụng lại ma túy để có lại cảm giác khoái cảm đó. Từ đó bệnh nhân dần phụ thuộc ma túy nhóm opioid về tâm lý và về thể chất.

Sau khi sử dụng ma túy nhóm này, bệnh nhân có cảm giác khoan khoái, dễ chịu, họ thường tìm nơi yên tĩnh và ít ánh sáng để tận hưởng cảm giác khoái cảm. Khoái cảm sẽ kéo dài hay ngắn tùy thuộc vào loại ma túy sử dụng [ngắn nhất là heroin, trung bình là morphin, dài nhất là methadon]. Cường độ khoái cảm cũng khác nhau tùy thuộc loại ma túy sử dụng. Trong số này, heroin cho cường độ khoái cảm mạnh nhất.

Có thể xét nghiệm nhanh các ma túy nhóm opioid bằng que thử tìm morphin trong nước tiểu.

+ Nhóm kích thích: amphetamin, meth-amphetamin, cần sa, cocain,... Các ma túy này có đặc điểm kích thích mạnh mẽ lên thần kinh trung ương. Chỉ sau vài phút đến vài chục phút sử dụng [tùy đường tiêm, đường uống hay đường hít, bệnh nhân sẽ có hội chứng hưng cảm vô cùng mạnh mẽ, biểu hiện như sau:

Hưng phấn cảm xúc: vui vẻ, yêu đời, mọi ưu tư buồn phiền đều biến mất, tăng tự tin thậm chí là tự cao.

Hưng phấn tư duy: nói nhanh, nói nhiều, nội dung vô cùng phong phú.

Hưng phấn vận động: bệnh nhân hoạt động rất nhiều, không biết mệt mỏi, dễ bị kích thích bởi âm nhạc to và ánh sáng nhấp nháy. Vì thế amphetamin, meth-amphetamin hay được giới trẻ sử dụng ở vũ trường.

Giảm nhu cầu ngủ: bệnh nhân không ngủ hoặc chỉ ngủ 1-2 giờ mỗi ngày nhưng không hề cảm thấy mệt mỏi.

Có thể xét nghiệm nhanh các ma túy nhóm amphetamin bằng que thử tìm amphetamin trong nước tiểu.

- Rượu.

- Các thuốc ngủ, thuốc bình thần: phenobarbital, diazepam…

Page 2

ĐỊNH NGHĨA KHÍ CƯỜI

Khí cười [N2O]  tên danh pháp quốc tế là Dinitrogen monoxide hoặc Nitrous oxide

Được sử dụng trong y học từ hơn 150 năm trước để gây mê toàn thân, nhưng do tác dụng yếu nên hiện nay ít được sử dụng đơn độc mà thường được sử dụng phối hợp với các thuốc gây mê khác. Do hiệu quả gây mê yếu và ngắn nên N2O được ưa chuộng trong nha khoa và sản khoa [sanh thường].

Các máy gây mê hiện nay vẫn có đường vào cho N2O và thường được trộn chung với O2 theo tỷ lệ 2:1. Cần có một lượng O2 pha chung để tránh bị ngạt thở, điều mà các khí cười đang có trên thị thường có thể không có nên người hít khí N2O có nguồn gốc phi y tế có thể bị ngạt.

Cơ chế tác động của N2O khá phức tạp và vẫn chưa được tìm hiểu đầy đủ :

  • N2O tác động trên hệ GABAA gây một hiệu ứng giải lo âu tương tự như benzodiazepine. Ngoài ra, tác động ức chế thụ thể NMDA [N-methyl-D-aspartate] cũng giải thích tác dụng tê/mê của N2O.
  • Tác động lên thụ thể Kappa [K], một thụ thể của morphine gây đáp ứng giảm đau và sảng khoái. Ngoài ra, N2O cũng làm tăng nồng độ β-endorphin [một morphine nội sinh] gây tác động trên thụ thể µ là thụ thể đáp ứng với morphine.

Hiện nay, N2O vẫn có trong danh mục các thuốc thiết yếu của Tổ chức Y tế Thế giới 

N2O gây vô cảm hoặc tê mê toàn thân nhưng không mất tri giác nên nó là chất gây mê yếu. Muốn gây mê hoàn toàn, người ta phải dùng N2O phối hợp với thuốc mê đường tĩnh mạch hoặc đường hô hấp.

N2O cũng từng được sử dụng trong một số trường hợp lo âu và trầm cảm cũng như làm giảm tình trạng kích động, mê sảng trên những bệnh nhân cai rượu . Ngày nay, với những tiến bộ trong y học, các dược phẩm dùng điều trị lo âu và trầm cảm có rất nhiều và rất hiệu quả nên N2O không còn sử dụng nữa.

N2O cũng được sử dụng trong sản khoa cho những trường hợp mà bà mẹ quá lo lắng hay sợ đau trong lúc sinh nở 

Sau khi hít 10-30 giây N2O sẽ gây 1 hiệu ứng sảng khoái, vui vẻ và duy trì trong 2-3 phút và làm giảm nhẹ sự tỉnh táo. Ghi nhận có sự thay đổi trên điện não đồ [EEG: sóng chậm Delta biên độ lớn].

Khí cười được bán trên ‘thị trường đen ‘ dưới hình thức 1 bình xịt, người sử dụng sẽ bơm vào 1 bong bóng và thở ra hít vào trong cái bong bóng đó. Nếu hít trực tiếp từ bình xịt thì có thể bị phỏng lạnh niêm nạc hầu họng và đường hô hấp.

Nếu sử dụng thường xuyên [lạm dụng] thì có thể gây ra một số rối lọan :

  • Cảm giác châm chích ở đầu chi và đi dứng loạng choạng
  • Các rối loạn khí sắc
  • Rối loạn trí nhớ
  • Rối loạn giấc ngủ
  • Các rối loạn nhịp và hạ huyết áp
  • Thiếu máu thiếu B12 do N2O làm phân hủy nhân cobalamine của B12 

QUÁ LIỀU

  • Rối loạn vận động, suy giảm nhận thức, co giật [hiếm]
  • Với liều sử dụng cao gây suy hô hấp cấp, đặc biệt nếu tỷ lệ N2O/O2 cao hơn mức 2/1 nhiều lần và dẫn đến tình trạng thiếu oxy não cấp
  • Khả năng lệ thuộc và tăng dung nạp : do N2O bị phân hủy khá nhanh trong cơ thể nên có nguy cơ tái sử dụng và tăng dung nạp cũng như gây lệ thuộc.

TÓM LẠI

N2O không bị xem là ma túy vì hiện không bị luật pháp ngăn cấm, thậm chí vẫn còn đang được sử dụng trong y học [tiêu chí bị cấm bởi luật pháp nước sở tại là tiêu chí quan trọng nhất để xác định một chất là ma túy]

Cơ chế gây nghiện được giải thích thông qua 2 con đường :

  • Con đường khen thưởng của dopamine [dopamine reward pathways] là cơ chế gây nghiện của hầu hết các chất kích thích thần kinh như : MDMA [thuốc lắc], methamphetamine [hàng đá], cocaine, mephedrone/cathinone [muối tắm]…và nghiện phi vật chất như nghiện game, nghiện cờ bạc…
  • Thông qua các thu thể :

- Với morphine heroin là các thụ thể µ, δ, к

- Với cần sa và các chất được xem là cần sa tổng hợp có trong cỏ Mỹ là thụ thể Cannabinoid.

- Với các thuốc nhóm benzodiazepine là các thụ thể GABA và NMDA

Tất cả các chất hóa học đều có thể gây nghiện và nếu sử dụng sai mục đích với một thời gian dài đều có thể gây tác hại đặc biệt là các tổn thương vĩnh viễn trên não bộ. Keo con chó X66 là 1 ví dụ về 1 chất có nhân vòng benzen bị sử dụng sai mục đích và đã có một thời gian nhiều trẻ em hít loại keo này như là một chất gây sảng khoái.

                                                                                                                                                                                                                                                BS. HUỲNH THANH HIỂN

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề