Các ngân hàng bán buôn tại Việt Nam

Nhiều ngân hàng thương mại vẫn lãi lớn trong 3 quý vừa qua nhờ nguồn thu từ dịch vụ - Ảnh: T.L

Đi ngược xu hướng chung

Ngân hàng Nhà nước cho biết báo cáo tài chính quý 3 cho thấy tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống chỉ đạt 6,1%, thấp hơn nhiều so với mức 9,4% cùng kỳ năm trước. COVID-19 được dẫn giải là nguyên nhân chính, làm đứt gãy nhu cầu và sức hấp thụ tín dụng trong nền kinh tế.

Ngoài ra, COVID-19 cũng khiến nợ xấu tăng lên rõ rệt, cùng với đó chi phí trích lập rủi ro bị đội lên cao. Và để hỗ trợ khách hàng giảm thiểu khó khăn bởi đại dịch này, các ngân hàng đã có nhiều đợt giảm lãi suất cho vay từ đầu năm đến nay.

Tuy nhiên, một diễn biến đáng chú ý là một số ngân hàng thương mại tăng trưởng tổng tài sản, huy động và cho vay không cao, lãi suất cho vay liên tiếp các đợt giảm để hỗ trợ khách hàng, nhưng tăng trưởng lợi nhuận lại cao hơn nhiều?

Cụ thể nhiều ngân hàng tăng trưởng tổng tài sản dưới 10%, thậm chí có ngân hàng còn ghi nhận mức giảm đến gần 10%; một số ngân hàng khác tăng trưởng tín dụng chỉ 6-7%.

Theo chiều ngược lại, nhiều ngân hàng đạt mức tăng trưởng lợi nhuận 2 con số. Tính chung nhóm 12 ngân hàng niêm yết hàng đầu tăng trưởng lợi nhuận trung bình đạt hơn 14% so với cùng kì năm ngoái. 

Câu trả lời chung nhất hiện nay là nhờ chiến lược bán lẻ mang lại.

Mùa báo cáo quý 3 vừa qua cho thấy nhiều ngân hàng thương mại vẫn đảm bảo tăng trưởng lợi nhuận. Techcombank nối dài 20 quý liên tiếp tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận tăng tới 20,9% so với cùng kỳ.

Đặc biệt nợ xấu giảm mạnh từ 1,8% cùng kỳ 2019 xuống chỉ còn 0,6% - thấp nhất toàn hệ thống, tỉ lệ trích lập dự phòng bao nợ xấu được gia cố rất mạnh lên 148%, từ mức 77,1% cùng kỳ năm trước dù tổng tài sản Techcombank chỉ tăng 4,6%, tín dụng tăng 8,3% so với đầu năm.

Tương quan này cho thấy lợi nhuận đã không còn dựa quá nhiều vào mở rộng tài sản và đẩy cao tăng trưởng tín dụng như truyền thống hoạt động các ngân hàng thương mại Việt Nam nhiều năm trước. Thay vào đó, mô hình và chiến lược bán lẻ, phát triển mạnh dịch vụ trở thành động lực cho hiệu quả hoạt động.

Chú trọng nguồn thu dịch vụ

Nhìn sang một trường hợp khác, tại đại hội cổ đông đầu năm nay, VIB đưa ra mục tiêu tăng tỉ trọng cho vay bán lẻ lên tới 85%. Hay tại Vietcombank, sau khi gia tăng tỉ trọng tín dụng bán lẻ lên trên 50%, tốc độ tăng trưởng mảng này tiếp tục được đẩy cao 9 tháng đầu năm nay với hơn 13% trong khi tăng trưởng tín dụng chung chỉ hơn 6%...

Nguyên do trong bối cảnh lãi suất cho vay trên liên ngân hàng về gần 0%/năm, lãi suất cho vay bán buôn cạnh tranh về mức thấp, cho vay bán lẻ có tỉ lệ lãi biên cao hơn để nâng hiệu quả sử dụng vốn.

Nhưng ngân hàng bán lẻ không chỉ là cho vay. Tính bền vững và "miễn nhiễm" với COVID-19 càng thể hiện ở phát triển và gia tăng dịch vụ bán lẻ.

Tại cuộc gặp gỡ giới phân tích và nhà đầu tư vừa qua, đại diện Techcombank nhấn mạnh ở định hướng chiến lược thay vì dẫn đầu về tăng trưởng tín dụng, hướng mà ngân hàng này tập trung là duy trì dẫn đầu trong phát triển khách hàng bán lẻ,  bảo hiểm, tư vấn và phân phối trái phiếu, giao dịch thẻ, ngân hàng số...

Ngân hàng bán lẻ được đo lường ở chỗ mỗi khách hàng sử dụng bao nhiêu dịch vụ, lượng giao dịch ở các kênh tăng lên thế nào, thu hút thêm được bao nhiêu khách hàng trong kỳ, hay tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn [CASA] có tăng lên hay không…

Cũng tại Techcombank, tỉ lệ CASA đến cuối quý 3-2020 tiếp tục tạo kỷ lục của chính mình cũng như của toàn hệ thống: lên tới 38,6% so với mức 34,5% cuối 2019.

Một điểm đáng chú ý từ CASA của Techcombank cho thấy rõ chiến lược đã được lựa chọn: tập trung vào ngân hàng số, cải tiến và nâng cao chất lượng dịch vụ trên các kênh giao dịch điện tử.

Theo dữ liệu của Ngân hàng Nhà nước, bình quân số dư tiền gửi thanh toán trên tài khoản khách hàng cá nhân của toàn hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam chỉ vào khoảng 5,6 triệu đồng/tài khoản tính đến cuối quý 2-2020, riêng tại Techcombank bình quân vượt trội tới 21 triệu đồng/tài khoản.

Ngân hàng Nhà nước ủng hộ

Nhìn lại những năm gần đây và đến nay, có một trùng hợp ngẫu nhiên là các ngân hàng thương mại bán lẻ thành công như đều được Ngân hàng Nhà nước giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cao hơn hẳn so với nhiều thành viên khác. 

Theo công bố của Ngân hàng Nhà nước, trong top được tăng trưởng tín dụng cao nhất 2020 có Techcombank, VPBank, VIB, TPBank và HDBank với hạn mức 19-23%. Vietcombank cũng được giao tăng 10%, cao hơn so với hạn mức ở nhóm "Big4".

Ngoài ra, Techcombank, Vietcombank, VIB đều nằm trong nhóm những ngân hàng thương mại đầu tiên của Việt Nam đáp ứng toàn diện Basel II trước thời hạn.

Đặc biệt, khi Bộ Tài chính mới xây dựng dự thảo đề án áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế vào Việt Nam với đề xuất lộ trình áp dụng IFRS bắt đầu từ năm 2022, riêng Techcombank đã hoàn tất và áp dụng IFRS9 từ năm 2018. Đây cũng là NHTM đang sở hữu tỉ lệ an toàn vốn [CAR] lên tới 16,7%, cao hơn gấp đôi yêu cầu của Basel II.

"Để có những kết quả này, Techcombank đã nỗ lực từ nhiều năm trước, từ việc am hiểu phân khúc khách hàng, đi sâu vào hiểu đặc thù của từng phân khúc, tái thiết kế mô hình kinh doanh, đưa ra những giải pháp, sản phẩm phù hợp với từng phân khúc…

Bên cạnh đó, có thể kể đến những quyết định miễn phí toàn bộ các giao dịch trên các kênh điện tử để khách hàng yên tâm giao dịch trên nền tảng ngân hàng số hàng đầu Việt Nam của chúng tôi; hay việc dịch chuyển tài sản sang những phân khúc có giá trị cao, có chất lượng cao; việc tối ưu hóa nguồn huy động vốn, chi phí vốn để tạo ra lợi thế cạnh tranh mới… 

Tất cả những điều này giúp Techcombank đạt được kết quả khả quan như vậy", ông Phùng Quang Hưng - phó tổng giám đốc thường trực Techcombank - lý giải thêm tại cuộc tiếp xúc giới phân tích và nhà đầu tư vừa qua.

MINH THÀNH

Ngân hàng bán buôn [tiếng Anh: Wholesale Banking] đề cập đến các dịch vụ ngân hàng giữa các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính khác.

Định nghĩa

Ngân hàng bán buôn trong tiếng Anh là Wholesale Banking. Ngân hàng bán buôn đề cập đến các dịch vụ ngân hàng giữa các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính khác.

Loại giao dịch ngân hàng này với các khách hàng lớn hơn, chẳng hạn như các tập đoàn lớn và các ngân hàng khác, trong khi ngân hàng bán lẻ tập trung nhiều hơn vào cá nhân hoặc doanh nghiệp nhỏ.

Bản chất

- Ngân hàng bán buôn là thuật ngữ dùng để mô tả thực tiễn tài chính vay và cho vay giữa hai tổ chức lớn.

- Các dịch vụ ngân hàng được coi là "bán buôn" chỉ dành riêng cho các cơ quan Chính phủ, quỹ hưu trí, các tập đoàn có tài chính mạnh và các khách hàng tổ chức khác có qui mô và sức ảnh hưởng tương tự. Những dịch vụ này bao gồm quản lí tiền mặt, tài trợ thiết bị, các khoản vay lớn và dịch vụ ủy thác, và các dịch vụ khác.

Ngân hàng bán buôn cũng đề cập đến việc vay và cho vay giữa các tổ chức ngân hàng. Loại cho vay này xảy ra trên thị trường liên ngân hàng và thường liên quan đến khoản tiền cực kì lớn.

Ví dụ

- Cách dễ nhất để khái niệm hóa ngân hàng bán buôn là nghĩ về nó như một siêu thị giảm giá như Costco, giao dịch với số lượng lớn đến mức có thể cung cấp giá đặc biệt hoặc giảm phí. Sẽ thuận lợi hơn rất nhiều cho các tổ chức hoặc đơn vị lớn [có số lượng tài sản hoặc giao dịch kinh doanh lớn] tham gia vào các dịch vụ ngân hàng bán buôn thay vì các dịch vụ ngân hàng bán lẻ.

- Nhiều trường hợp một doanh nghiệp nhiều cần một giải pháp ngân hàng bán buôn để quản lí tiền mặt. Các công ty công nghệ có văn phòng vệ tinh là một ứng cử viên chính cho các dịch vụ này.

- Chẳng hạn như công ty SaaS [dịch vụ phần mềm] có 10 văn phòng bán hàng được phân phối trên khắp Hoa Kỳ và mỗi cá nhân trong số 50 thành viên trong nhóm bán hàng đều có quyền truy cập vào thẻ tín dụng của công ty. Chủ sở hữu của công ty SaaS cũng yêu cầu mỗi văn phòng bán hàng giữ 1 triệu đô la tiền mặt dự trữ, tổng cộng là 10 triệu đô la trên toàn doanh nghiệp.

Dễ thấy một công ty có hồ sơ như vậy quá lớn cho ngân hàng bán lẻ tiêu chuẩn. Thay vào đó, chủ doanh nghiệp có thể tham gia vào một ngân hàng và yêu cầu họ lưu giữ tất cả các tài khoản tài chính của công ty.

Dịch vụ ngân hàng bán buôn hoạt động giống như một đơn vị cung cấp những khoản chiết khấu nếu một doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu về dự trữ tiền mặt tối thiểu và giao dịch hàng tháng tối thiểu - cả hai điều này công ty SaaS đều đáp ứng.

Do đó, công ty SaaS sẽ có lợi khi tham gia vào ngân hàng bán buôn hợp nhất tất cả các tài khoản tài chính và được chiết khấu, thay vì giữ 10 tài khoản kiểm tra bán lẻ và 50 thẻ tín dụng bán lẻ mở.

[Tài liệu tham khảo: Wholesale Banking, Investopedia]

Minh Lan


Khẩu hiệu “trở thành ngân hàng bán lẻ số 1” đã được quảng bá mạnh mẽ tại các ngân hàng trong nhiều năm qua,nhưng cho đến thời gian gần đây, các ngân hàng mới có những bước đi thực sự quyết liệt.

Ngân hàng là một ngành đặc biệt, dễ dàng thấy rõ sự lên xuống theo chu kỳ tăng trưởng kinh tế. Trong chu kỳ kinh tế 10 năm vừa qua, dòng chảy vốn từ các ngân hàng thường tập trung vào một chỗ, trong khi ngày nay lại chia nhỏ ra và chạy theo nhiều hướng khác nhau.

Câu chuyện nào đằng sau việc các ngân hàng tuyên bố theo bán lẻ? Và liệu các ngân hàng có quay trở về mô hình bán buôn khi tín dụng bắt đầu tăng tốc thêm một lần nữa?

Tất bật bán buôn

Sự kiện nguyên Tổng Giám đốc GPBank bị quy kết sai phạm hồi tháng 3 một lần nữa cho thấy, ngân hàng không phải là ngành kinh doanh dễ dàng. Là ngân hàng thứ 3 bị mua lại “0 đồng” trong năm 2015, GPBank từng được “dạm hỏi” bởi United Overseas Bank, HongLeong Bank và 2 ngân hàng thương mại trong nước, nhưng tất cả đều không thành duyên. Trước đó, tài sản của GPBank tập trung phần lớn ở những khoản mục là “đầu tư chứng khoán, thị trường liên ngân hàng và những khoản nợ xấu”, cao gấp đến 3 lần so với danh mục cho vay.

Giống như GPBank, các ngân hàng trục trặc khác cũng có cơ cấu tài sản tương tự. Theo báo cáo của Cơ quan giám sát Ngân hàng Nhà nước vào thời điểm năm 2012, TrustBank khi đó đã cho vay, đầu tư trái phiếu doanh nghiệp, góp vốn vào các công ty bất động sản, tổng cộng chiếm 53% tổng tài sản của Ngân hàng. Ở Ngân hàng Tiên Phong, khoản mục liên quan đến ủy thác đầu tư, đặt cọc mua chứng khoán cũng từ mức 170 triệu đồng lên 4.015 tỉ đồng trong năm 2010.

 

Chưa nói đến chuyện rót vốn vào “sân sau” của những ông chủ ngân hàng, có thể khái quát nguyên nhân quan trọng góp phần vào sự thất bại của các ngân hàng trong giai đoạn này là vì quá tập trung vào chiến lược bán buôn, thay vì bán lẻ. Mang lại tỉ suất lợi nhuận lớn, nhưng việc bán buôn cũng dễ khiến cho các ngân hàng dễ “hắt hơi sổ mũi” khi nền kinh tế có vấn đề. Đặc trưng của bán buôn là có lượng khách hàng ít nhưng quy mô giao dịch lớn, lãi suất ưu đãi hơn nhưng rủi ro nhiều hơn.

Cơ cấu tổ chức của các ngân hàng Việt Nam hiện tại chia làm hai bộ phận: bán lẻ [bao gồm các hoạt động liên quan đến cá nhân và một phần các doanh nghiệp với quy mô nhỏ], trong khi các doanh nghiệp lớn sẽ nằm trong đối tượng khách hàng mục tiêu của bộ phận nguồn vốn [bán buôn]. Bán buôn là bộ phận quan trọng, với nhiệm vụ tìm kiếm và phân phối dòng vốn của ngân hàng đến nơi nào có lợi nhuận cao nhất, trên các thị trường chứng khoán, bất động sản, liên ngân hàng, ngoại hối và cả những dự án đầu tư lên đến hàng ngàn tỉ đồng.

Ở Việt Nam, có thể nói ưu thế của dịch vụ ngân hàng bán buôn thường nằm ở các ngân hàng có gốc nhà nước, còn gọi là “ưu thế tự nhiên”. Sở dĩ như vậy vì các ngân hàng gốc nhà nước có quy mô lớn, thường tập trung nhiều cá nhân và doanh nghiệp gửi tiền kỳ hạn và không kỳ hạn [phục vụ cho nhu cầu thanh toán]. Những ngân hàng này có lợi thế về chi phí vốn bình quân thấp hơn các ngân hàng tư nhân, cùng khả năng tiếp cận những dự án lớn.

Tuy nhiên, sau những rủi ro của mô hình bán buôn, ở giai đoạn sau này, sân chơi của các ngân hàng thương mại tư nhân cũng nhanh chóng mở rộng, tập trung mạnh mẽ hơn vào chiến lược “bán lẻ”.

Ví dụ như trường hợp Techcombank. Trong giai đoạn 2004-2015, cơ cấu tài sản trung bình của ngân hàng này phân bổ vào chứng khoán [kinh doanh lẫn đầu tư, trước đây bao gồm cả trái phiếu doanh nghiệp] trung bình là 22% giá trị tài sản, trong khi Sacombank là 15%. Techcombank cũng cho vay ít hơn với tỉ trọng chỉ có 45% giá trị tài sản, trong khi Sacombank lên đến 59%. Kết quả, ROE trung bình của Techcombank cao hơn so với Sacombank trong giai đoạn này [18% so với 15,2%]. Điều này dường như cho thấy các ngân hàng phân bổ nhiều vào tài sản khác có vẻ như kiếm lợi nhiều hơn là các ngân hàng tập trung vào cho vay.

Sacombank được xem là doanh nghiệp tập trung vào bán lẻ nhiều hơn. Ở thời điểm năm 2007, theo báo cáo thường niên, Sacombank là ngân hàng có 49% dư nợ là hộ cá nhân, hộ cá thể.

Nằm trong guồng quay của bất động sản, chứng khoán, năm 2007 cả hai ngân hàng trên đều tập trung vào lĩnh vực bán lẻ. Đó cũng là thời điểm mà lợi nhuận của ngân hàng lên rất cao. Năm 2007, 20% giá trị tài sản từ lĩnh vực chứng khoán mang lại 58% giá trị lợi nhuận trước thuế cho Techcombank. Tương tự, ở Sacombank con số đó là 23% và 63%.

Đáng chú ý hơn, Techcombank sau giai đoạn 2011 dường như quan tâm đến lĩnh vực bán buôn nhiều hơn, tức đầu tư nhiều hơn vào khu vực chứng khoán. Ngược lại, Sacombank có xu hướng giảm.

Có thể nói, mô hình bán lẻ mà Sacombank thiên về không giúp cho ngân hàng này có ROE cao, nhưng ngược lại, lợi nhuận hằng năm của Sacombank biến thiên không nhiều như Techcombank. Cùng nằm trong đà giảm của thị trường, năm 2012 Sacombank chứng kiến lợi nhuận trước thuế giảm hơn 50% trong khi Techcombank giảm 2 năm liên tiếp [2011 và 2012] với mức cao nhất là gần 76%.

Mô hình bán lẻ mà Sacombank thiên về không mang lại ROE cao, nhưng ngược lại, lợi nhuận hằng năm của ngân hàng này biến thiên không nhiều - Ảnh: Sơn Phạm

Tuy nhiên, phân tích ở trên có điểm loại trừ, đó là vì trên báo cáo tài chính, chỉ có thể phân biệt mô hình ngân hàng thiên về bán buôn bằng cách xem xét tỉ trọng đầu tư vào các loại chứng khoán nhiều hay ít, chứ không thể xem xét được khoản mục cho vay của ngân hàng. Nhiều khoản cho vay lớn chưa có tài liệu cụ thể để chứng minh tính hiệu quả của chúng.

Những lá cờ đầu trong việc thay đổi theo mô hình bán lẻ tiêu chuẩn có thể kể đến là trường hợp của ACB hay Eximbank. Các ngân hàng này tập trung vào cả bán lẻ lẫn bán buôn. Cách đây khoảng 2 năm, cựu Chủ tịch Hội đồng Quản trị Eximbank Lê Hùng Dũng cho biết Eximbank giai đoạn khi đó tập trung vào những dự án cho vay lớn, vì dễ làm, lợi nhuận lại cao. Còn bây giờ, khi ngân hàng đang ở trong giai đoạn trục trặc, dư nợ doanh nghiệp của Eximbank lại giảm, nhưng đáng mừng là dư nợ tín dụng cá nhân vẫn tăng trưởng tốt.

Cũng có những bài học về ngân hàng tư nhân đặt mục tiêu bán lẻ mạnh mẽ nhưng cũng bị “sẩy chân” trong chiến lược bán buôn, chẳng hạn như Ngân hàng Đông Á. Đây có thể được xem là điển hình trong việc phát triển mạnh mẽ hạ tầng cho những giao dịch cá nhân, sở hữu lượng khách hàng cá nhân thuộc vào loại quy mô lớn trên thị trường và cũng đi đầu trong những sáng kiến về bán lẻ cá nhân, bao gồm máy ATM, hệ thống giao dịch liên ngân hàng, công ty kiều hối. Nhưng mặt khác, Đông Á cũng bước chân vào bất động sản. Nhiều dự án bắt đầu triển khai từ năm 2008, song cho đến nay vẫn chưa có nhiều tín hiệu lạc quan.

Kinh tế tăng trưởng nhanh, vốn nhiều, doanh nghiệp bắt đầu mạnh tay hơn với các dự án lớn khiến các ông chủ ngân hàng tự tin bước vào thị trường các dịch vụ ngân hàng bán buôn. Còn giai đoạn này thì ngược lại. Kể từ khi bắt đầu thắt chặt tiền tệ để kiểm soát lạm phát năm 2011, hệ thống ngân hàng Việt Nam tập trung nhiều hơn cho việc tái cấu trúc các khoản nợ và mô hình hoạt động của mình, hướng nhiều hơn đến bán lẻ.

Theo báo cáo quý IV của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế - BIS [2014], dựa trên nghiên cứu 212 ngân hàng châu Âu ở 34 quốc gia trong giai đoạn 2005-2013, có có khoảng 2/3 ngân hàng bước vào cuộc khủng hoảng năm 2007 với tư thế của ngân hàng thương mại bán buôn [hoặc tài trợ thương mại] thì kết thúc với mô hình bán lẻ trong năm 2013. Ngược lại, chỉ có 1 ngân hàng bán lẻ là chuyển hướng. Theo báo cáo, có 2 lý do quan trọng: bán lẻ mang lại nguồn thu nhập ổn định [ROE ổn định với những ngân hàng bán lẻ sau năm 2009, nhưng lại biến động mạnh với mô hình bán buôn], đồng thời có sự ảnh hưởng từ thị trường nguồn vốn [là cơ sở để các ngân hàng bán buôn hoạt động].

Trở về bán lẻ

Bán lẻ đang giúp “trung hòa” lại thị trường sau cơn tăng trưởng nóng, kể cả ở Việt Nam hay trên thế giới. Chính bản thân thị trường ngân hàng bán lẻ ở Việt Nam đang được đánh giá có nhiều cơ hội để khai thác. Thị trường bán lẻ Việt Nam cũng đang hấp dẫn, ngay cả với các ngân hàng ngoại. Hiệu quả kinh doanh của mô hình bán lẻ [so với bán buôn] cũng được đặt ra ở đây.

 

Hiện các ngân hàng đang tăng tốc để chiếm lấy thị trường bán lẻ Việt Nam, với 3 xu hướng khá rõ. Thứ nhất, các ngân hàng vẫn tiếp tục mở rộng mạnh mẽ chi nhánh của mình. Trong bán lẻ, quan trọng là kênh phân phối và các ngân hàng bán lẻ cũng vậy. Sau một thời gian bị kiểm soát chuyện mở chi nhánh, cuối năm 2015 và đầu năm 2016 này, các ngân hàng lại rầm rộ mở thêm chi nhánh. Đặc trưng của lần này không chỉ là dịch chuyển vị trí hiện hữu ở nội ô các thành phố lớn như TP.HCM, Hà Nội, mà còn mở rộng thêm ở các địa phương xung quanh. Trong xu hướng này, cũng xuất hiện ngân hàng chỉ tập trung phần lớn cho việc phát triển kênh phân phối mới, đó là kênh trực tuyến của TPBank.

Xu hướng thứ hai là sự chuyển hướng dần từ tín dụng sang các hoạt động phi tín dụng, bao gồm những hoạt động như thu phí các dịch vụ cá nhân, doanh nghiệp như chuyển tiền, bảo hiểm, kế toán, dịch vụ tư vấn đầu tư, thanh toán quốc tế. Lợi nhuận từ mảng này ít rủi ro và bền vững hơn là hoạt động tín dụng. Thêm nữa, trong năm qua, chuyện ngân hàng “liên minh” với bảo hiểm đang dần phổ biến hơn. Theo lý giải của ông Lê Trí Thông, Phó Tổng Giám đốc chiến lược của Prudential, một phần các ngân hàng cũng bắt đầu nhận ra bảo hiểm là lĩnh vực đầy tiềm năng, sau thời gian tập trung quá nhiều cho tín dụng.

Xu hướng thứ ba là việc các ngân hàng tiếp tục giới thiệu các sản phẩm bán lẻ liên quan đến công nghệ. Gần đây, Ngân hàng Đông Á cho phép người dùng chuyển tiền liên ngân hàng từ máy ATM. Năm ngoái, Đông Á ra mắt hệ thống Autobanking, cho phép người gửi có thể nộp tiền mặt trực tiếp từ máy ATM một cách dễ dàng. Eximbank thì vừa giới thiệu thẻ tín dụng mới có công nghệ “contactless”, nghĩa là không cần “cà” thẻ như thông thường, mà chỉ cần áp sát vào máy POS [chỉ với máy POS của Eximbank].

Từ bán buôn sang bán lẻ, ngân hàng cũng có những đánh đổi khác. Đặc trưng của bán lẻ là chi phí giao dịch cao. Chưa có số liệu nghiên cứu ở Việt Nam, song số liệu từ báo cáo BIS cũng cho thấy mặc dù ROE [chưa điều chỉnh rủi ro] của mô hình bán lẻ là cao nhất [12,49%] trong khi mô hình bán buôn là 5,81%, nhưng chi phí vốn lại cao gấp 4 lần. Mới gần đây, ông Nguyễn Hưng, Tổng Giám đốc TPBank [ngân hàng đang hướng đến chiến lược trở thành ngân hàng số], chia sẻ, chi ra triệu USD đầu tư cho hệ thống công nghệ thì tốt hơn là chi cho hệ thống chi nhánh theo cách truyền thống. Ông Hưng đang nói đến mặt “tốn kém” của việc bán lẻ.

Công nghệ giúp các ngân hàng nhưng cũng đồng thời giúp cho đối thủ của các ngân hàng. Trên thế giới, các công ty công nghệ tài chính [Fintech] đang đe dọa cạnh tranh các ngân hàng thương mại truyền thống với đầy đủ các dịch vụ: từ chuyển tiền cho đến cho vay. Ở Việt Nam thì xu hướng này vẫn chưa mạnh. Hơn nữa, Fintech phụ thuộc nhiều vào quy định pháp lý liên quan đến hoạt động của ngân hàng.

Ở khía cạnh khác, kết thúc năm 2015, lợi nhuận ngành ngân hàng đang rất lạc quan. Theo khảo sát 12 ngân hàng có quy mô tài sản chiếm 62% hệ thống ngân hàng thương mại, tốc độ tăng trưởng thu nhập lãi thuần trong năm nay trung bình đã lên tới con số 19%, trong khi năm ngoái chỉ đạt mức 10%.

Tuy nhiên, trong một hội thảo gần đây, ông Nguyễn Xuân Thành, Giám đốc Chương trình chính sách công, Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright, cho rằng, có nhiều ngân hàng đang có phần lãi dự thu rất cao, tức vẫn báo cáo về mặt lợi nhuận kế toán, nhưng dòng tiền thật đi vào thì chưa có vì chưa thu được. Theo báo cáo “Đánh giá tổng quan thị trường tài chính năm 2015” của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, quy mô các khoản lãi dự thu của các ngân hàng vừa tái cơ cấu tương đối cao.

Trong khi đó, thị trường cho vay của các ngân hàng đang đảo chiều với mức tăng trưởng năm 2015 lên đến hơn 16% và kỳ vọng năm sau ở mức 18-20%, theo Ngân hàng Nhà nước. Có thể nói, khi thị trường tín dụng chững lại, bán lẻ mới trở nên rầm rộ. Khi thị trường bắt đầu khởi sắc, các ngân hàng cũng có khả năng quay trở lại đẩy mạnh mảng bán buôn.

Điều đáng nói hơn là sự tăng trưởng dòng tiền này tập trung ở các dự án bất động sản, vốn là mảng chiếm đến 53% dư nợ cho vay [năm 2011]. Tuy nhiên, không chỉ những khoản cho vay doanh nghiệp hay dự án, mà các cá nhân cũng tăng cường vay mua bất động sản trong năm qua. Xét về mặt rủi ro, các khoản vay cá nhân thì nhỏ và an toàn hơn là khoản vay doanh nghiệp. Dù vậy, lo ngại này đang được cơ quan quản lý hiện thực hóa bằng dự thảo sửa đổi lại những điều khoản giúp hạn chế dòng tín dụng chảy vào lĩnh vực này

Thiên Phong


Video liên quan

Chủ Đề