Chất của cái bàn là gì

Chuyện quốc tế về cái bàn

Từ điển tiếng Việt định nghĩa cái bàn: "đồ dùng thường ngày bằng gỗ, có mặt phẳng và chân đứng để bay đồ đạc, thức ăn, để làm việc... Thí dụ bàn viết, bàn ăn."

Từ điển tiếng Việt định nghĩa cái bàn: "đồ dùng thường ngày bằng gỗ, có mặt phẳng và chân đứng để bay đồ đạc, thức ăn, để làm việc... Thí dụ bàn viết, bàn ăn."

Có lẽ, trong lịch sử văn minh nhân loại, bàn mới đầu dùng để ăn và xuất hiện trước tiên ở châu Âu. Vì vậy, trong nhiều ngôn ngữ châu Âu, từ cái bàn thường gắn với ý nghĩa bữa ăn, ẩm thực, khách ăn... Thí dụ ngồi vào bàn có nghĩa là ngồi ăn [tiếng Pháp: être à table, tiếng Anh: to be at table , như ta nói ngồi vào mâm, ngồi xuống chiếu]. Theo nhà sử học lỗi lạc Pháp Fernand Braudel, trước khi có cái bàn có chân, chỉ có ghế dài và ghế đẩu. Một hình thức bàn thô sơ là một phần thùng rượu, rồi đặt tấm ván lên. Có khả năng là cái ghế dài kê trước lò sưởi đã buộc phải có chiếc bàn hình chữ nhật hẹp, những người ăn chỉ ngồi một bên bàn, áp bụng vào bàn, xoay lưng vào lửa".

Họa sĩ Phạm Tăng, sau mấy chục năm sống ở châu Âu về, khi đi dạo khu phố cổ Hà Nội, thỉnh thoảng ngừng lại nhìn các phụ nữ ngồi xổm mua bán, ăn uống ở vỉa hè. Anh bảo tôi: "Có lẽ thế ngồi xổm là một nét văn hoá của dân tộc Việt Nam?". Thực ra thế ngồi xổm không thấy ở châu Âu, nhưng tồn tại ở nhiều nước châu Á... Braudel cho là từ vị thế ngồi xổm chuyển sang ngồi ghế đẩu là một biến chuyển văn hoá. Rồi từ đó, sang cái bàn thấp và bàn cao. Có hai kiểu sống: sống ngồi bệt xuống đất như ở châu Á [Việt Nam ta xưa và hiện ở nông thôn, ăn để mâm trên chiếu] và dùng đồ đạc thấp [cái kỷ là loại bàn thấp, ta còn có cái chõng. Phương Tây sử dụng đồ đạc cao: bàn cao, ghế cao, ghế tựa. Ghế tựa châu Âu nhập vào Trung Quốc vào thế kỷ 2-3 sau CN và đầu tiên chỉ dành cho nhà vua [ngai vua], rồi quý tộc.

Hội nghị bàn tròn tại Pari. Ảnh: TL

Như vậy, bàn ghế thấp cao, ngồi bệt hay cao cũng do tập quán Đông Tây. Cái bàn mang một ý nghĩa tượng trưng khác khi nó trở thành cái bàn tròn: Vua Anh Arthur, một nhân vật bán huyền thoại gốc người Celte [thế kỷ 5] họp các hiệp sĩ quanh một cái bàn tròn để tỏ ra có sự bình đẳng hoàn toàn, không phân biệt cao thấp. Vậy mà ý nghĩa bàn tròn ấy vẫn chưa được chấp nhận là bình đẳng hoàn toàn trong một Hội nghị quốc tế ở thế kỷ 20!

Ông Trần Quang Cơ, một nhà ngoại giao có tài, vừa tặng tôi cuốn sách Mặt trận ngoại giao thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, một tài liệu công phu có đủ sự việc biến diễn theo ngày tháng từ 1960-1975. Tôi rất ngạc nhiên và lý thú đọc về sự việc cái bàn của Hội nghị đàm phán Paris đã tiêu mất mấy tháng để tranh cãi. Để hiểu rõ hơn về vấn đề cái bàn, tôi đã gặp anh Huỳnh, cán bộ tham mưu ngoại giao đầy kinh nghiệm trong phái đoàn ta suốt Hội nghị Paris. Anh giải thích như sau:

Từ ngày 10/12/1968, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam quyết định cử đoàn đại biểu chính thức của Mặt trận đi dự Hội nghị Paris do ông Trần Bửu Kiếm, ủy viên Đoàn chủ tịch Uỷ Ban trung ương Mặt trận làm Trưởng đoàn, bà Nguyễn Thị Bình và ông Trần Hoài Nam làm phó Trưởng đoàn. Mọi việc tưởng như thuận lợi, thực ra vấn đề còn rắc rối. Quan điểm của Mỹ là nhận họp với Chính phủ Cách mạng nhưng tránh không để quốc tế cho là Mỹ công nhận Chính phủ này, cho nên trước sau vẫn đề nghị gọi là Hội nghị hai phía [Mỹ &VN cộng hoà/ Bắc Việt & Mặt trận Giải phóng]. Quan điểm của ta là có 4 đoàn thì cứ gọi là Hội nghị 4 bên. Mỹ không chịu nên ta bảo mỗi bên cứ gọi theo cách của mình. Vấn đề phức tạp thêm khi bố trí bàn họp. Mỹ kiên trì định kiến Không để quốc tế hiểu là Mỹ công nhận Chính phủ Cách mạng miền Nam qua cách bố trí ngồi họp. Thoạt tiên họ đưa ra một cái bàn chữ nhật, phía Mỹ và chính quyền Sài Gòn ngồi một phía, hai thành phần đối lập một phía. Vì chúng ta không chấp nhận, họ lại liên tiếp đưa ra ba kiểu ngồi khác, ta cũng không nghe. Cuối cùng họ đưa ra kiểu bàn tròn có một băng to bằng thảm đỏ ở giữa, sau lại thay băng thảm bằng một vạch nhỏ. Họ cũng đề nghị không có cờ, không có biển ghi tên các đoàn... Các nhà đương cục Pháp và đại diện Liên Xô làm con thoi giữa các đoàn với thiện chí làm cho các bên xích lại gần nhau.

Đến ngày 15/1/1969 thì đại diện Liên Xô đưa ra được gợi ý dung hòa: Sẽ có một bàn tròn phẳng, sẽ có hai bàn hình chữ nhật kê cách bàn tròn 0,45 m ở hai phía đối diện nhau, dành cho thư ký. Các bên chấp nhận phương án này.

Ôi! Có chuyện cái bàn ngồi họp mà mất bao nhiêu thời gian của bao nhiêu nước! Sao không bỏ quách văn hoá bàn, chính trị bàn mà thực hiện văn hoá chiếu như ở ta? Nhưng chỉ e cái chiếu lại phức tạp hơn, vì chiếu trải ở đình làng, chiếu trên chiếu dưới, thời phong kiến các cụ tranh nhau thủ lợn phao câu chăng dẫn đến ẩu đả là gì?

Hữu Ngọc


Video liên quan

Chủ Đề