Cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra đầu tiên ở hà nội, hoàn kiếm, hà nội

Mục lục

Điều kiện ra đờiSửa đổi

Nguyên nhânSửa đổi

Sau thời kỳ Thập tự chinh, những chiến binh trở về mang theo những vật phẩm quý giá và mới lạ với xã hội châu Âu thời bấy giờ như nước hoa, các loại gia vị mới, các sản phẩm bằng thép,... Việc này thúc đẩy việc trao đổi mua bán của các thương nhân châu Âu.[4] Vào thế kỷ 15, kinh tế hàng hóa ở Tây Âu đã khá phát triển, nhu cầu về thị trường tăng cao. Giai cấp tư sản Tây Âu muốn mở rộng thị trường sang phương Đông, mơ ước tới những nguồn vàng bạc từ phương Đông.

Tại Tây Âu, tầng lớp quý tộc cũng tăng lên, do đó nhu cầu về các mặt hàng đặc sản, cao cấp có nguồn gốc từ phương Đông như tiêu, quế, trầm hương, lụa tơ tằm [dâu tằm tơ], ngà voi,... đã tăng vọt.

Trong khi đó, Con đường tơ lụa mà người phương Tây đã biết từ thời cổ đại lúc đó lại đang bị Đế quốc Ottoman theo đạo Hồi chiếm giữ khiến cho hoạt động giao thương của phương Tây không thể qua đây được, vì vậy chỉ có cách tìm một con đường đi mới trên biển.

Lúc đó người Tây Âu đã có nhiều người tin vào giả thuyết Trái Đất hình cầu. Họ cũng đã đóng được những con tàu buồm đáy nhọn, thành cao, có khả năng vượt đại dương, mỗi tàu lại đều có la bàn và thước phương vị, điều đó đã tăng thêm sự quyết tâm cho những thủy thủ dũng cảm.[4]

Những phong trào tri thức tại Châu ÂuSửa đổi

Những phong trào tri thức tại Châu Âu đã tạo ra nền tảng kiến thức cho các cuộc cách mạng công nghiệp ở châu lục này.

Những cuộc phát kiến địa lý lớn thế kỉ 15–16Sửa đổi

Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha là hai nước đi đầu trong phong trào phát kiến địa lý. Năm 1415 một trường hàng hải do Hoàng tử Henrique sáng lập và bảo trợ. Từ đó, hàng năm người Bồ Đào Nha tổ chức những cuộc thám hiểm men theo bờ biển phía tây châu Phi.[5]

Năm 1486, đoàn thám hiểm Bồ Đào Nha do Bartolomeu Dias chỉ huy đã tới được cực nam châu Phi, họ đặt tên mũi đất này là mũi Hảo Vọng.[5][6]

Năm 1497, Vasco da Gama đã dẫn đầu đoàn thám hiểm Bồ Đào Nha tới được Ấn Độ. Ông được phong làm Phó vương Ấn Độ[7]

Người Tây Ban Nha lại đi tìm Ấn Độ theo hướng Mặt Trời lặn. Năm 1492, một đoàn thám hiểm do Cristoforo Colombo chỉ huy đã tới được quần đảo miền trung châu Mĩ, nhưng ông lại tưởng là đã tới được Ấn Độ.[4] Ông gọi những người thổ dân ở đây là Indians. Sau này, một nhà hàng hải người Ý là Amerigo Vespucci mới phát hiện ra Ấn Độ của Colombo không phải là Ấn Độ mà là một vùng đất hoàn toàn mới đối với người châu Âu. Amerigo đã viết một cuốn sách để chứng minh điều đó. Vùng đất mới đó sau này mang tên America.[4]

Năm 1519–1522, Ferdinand Magellan đã dẫn đầu đoàn thám hiểm Tây Ban Nha lần đầu tiên đi vòng quanh thế giới. Một hạm đội gồm 5 tàu với 265 người đã vượt Đại Tây Dương tới bờ biển phía đông của Nam Mỹ. Họ đã đi theo một eo biển hẹp gần cực nam châu Mỹ và sang được một đại dương mênh mông ở phía bên kia. Suốt quá trình vượt đại dương mênh mông đó, đoàn tàu buồm của Magellan hầu như không gặp một cơn bão đáng kể nào. Ông đặt tên cho đại dương mới đó là Thái Bình Dương. Magellan đã thiệt mạng ở Philippines do trúng tên độc của thổ dân. Đoàn thám hiểm của ông cũng chỉ có 18 người sống sót trở về được tới quê hương. 247 người thiệt mạng trên tất cả các vùng biển và các hòn đảo trên thế giới vì những nguyên nhân khác nhau. Những thành công lớn nhất mà chuyến đi đạt được là lần đầu tiên con người đã đi vòng quanh thế giới.

Tác dụng của những cuộc phát kiến địa lýSửa đổi

Các nhà thám hiểm bằng những chuyến đi thực tế đầy dũng cảm của mình đã chứng minh cho giả thuyết Trái Đất hình cầu. Họ còn cung cấp cho các nhà khoa học rất nhiều hiểu biết mới về địa lý, thiên văn, hàng hải, sinh vật học,...

Sau những cuộc phát kiến này, một sự tiếp xúc giữa các nền văn hóa trên thế giới diễn ra do các cá nhân có nguồn gốc văn hóa khác nhau như các giáo sĩ, nhà buôn, những người khai phá vùng đất mới, những quân nhân...[8]

Một làn sóng di cư lớn trên thế giới trong thế kỉ 16–18 với những dòng người châu Âu di chuyển sang châu Mĩ, châu Úc.[8] Nhiều nô lệ da đen cũng bị cưỡng bức rời khỏi quê hương xứ sở sang châu Mĩ.[9][10]

Hoạt động buôn bán trên thế giới trở nên sôi nổi, nhiều công ty buôn bán tầm cỡ quốc tế được thành lập.

Những cuộc phát kiến địa lý này cũng gây ra không ít hậu quả tiêu cực như nạn cướp bóc thuộc địa, buôn bán nô lệ da đen và sau này là chế độ thực dân.[11]

Thắng lợi của phong trào cách mạng tư sản [thế kỷ 16–18]Sửa đổi

Sự phát triển của thị trường trên quy mô toàn thế giới đã tác động tới sự phát triển của nhiều quốc gia, trước hết là các nước bên bờ Đại Tây Dương, sự thay đổi về mặt chế độ xã hội sẽ diễn ra là điều tất yếu. Giai cấp tư sản ngày càng lớn mạnh về mặt kinh tế nhưng họ chưa có địa vị chính trị tương xứng, chế độ chính trị đương thời ngày càng cản trở cách làm ăn của họ. Thế kỉ 16-18 đã diễn ra nhiều cuộc cách mạng tư sản ở Tây Âu và Bắc Mỹ.

Bước chuyển đó đã được thực hiện qua hàng loạt những cuộc cách mạng tư sản như: Cách mạng tư sản Hà Lan [1566-1572], Cách mạng tư sản Anh [1640-1689], Chiến tranh giành độc lập ở Bắc Mỹ [1775–1783], Cách mạng tư sản Pháp [1789–1799],...

Các cuộc biến động xã hội đó tuy cách xa nhau về không gian, thời gian cũng cách xa nhau hàng thế kỉ nhưng đều có những nét giống nhau là nhằm lật đổ chế độ lạc hậu đương thời, tạo điều kiện cho kinh tế tư bản phát triển. Với sự thắng lợi của các cuộc cách mạng tư sản và sự ra đời của các quốc gia tư bản, công nghiệp thương nghiệp đã có điều kiện phát triển mạnh mẽ. Lịch sử nhân loại đang bước sang một giai đoạn văn minh mới.

Dấu mốc và thành tựu nổi bậtSửa đổi

Ngành dệt may: Lúc bấy giờ, các nhà máy dệt đều phải đặt gần sông để lợi dụng sức nước chảy. Năm 1784, James Watt phụ tá thí nghiệm của một trường đại học đã phát minh ra máy hơi nước. Nhờ phát minh này, nhà máy dệt có thể đặt bất cứ nơi nào. Năm 1785, linh mục Edmund Cartwright cho ra đời một phát minh quan trọng trong ngành dệt là máy dệt vải. Máy này đã tăng năng suất dệt lên tới 40 lần.

Máy se sợi của Edmund Cartwright

Ngành luyện kim: Năm 1784, Henry Cort đã tìm ra cách luyện sắt “puddling”. Mặc dù phương pháp của Henry Cort đã luyện được sắt có chất lượng hơn nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về độ bền của máy móc. Năm 1885, Henry Bessemer đã phát minh ra lò cao có khả năng luyện gang lỏng thành thép, khắc phục được những nhược điểm của chiếc máy trước đó.

Ngành giao thông vận tải: Chiếc đầu máy xe lửa đầu tiên chạy bằng hơi nước vào năm 1804. Đến năm 1829, vận tốc xe lửa đã lên tới 14 dặm/giờ. Thành công này đã làm bùng nổ hệ thống đường sắt ở Châu Âu và Mỹ. Năm 1807, Robert Fulton đã chế ra tàu thủy chạy bằng hơi nước thay thế cho những mái chèo hay những cánh buồm.

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất diễn ra vào cuối thế kỷ XVIII, đẩu thế kỷ XIX, gắn liền với các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật lẩn thứ nhất, mở đầu từ ngành dệt ở Anh, sau đó lan tỏa sang nhiều ngành sản xuất khác và tới nhiều nước khác, trước hết là Mỹ, các nước châu Âu và Nhật Bản. Mở đầu cuộc cách mạng này, nền sản xuất hàng hóa trong ngành dệt ban đầu dựa trên công nghệ thủ công giản đơn, quy mô nhỏ, lao động chân tay chuyển sang sử dụng các phương tiện cơ khí và máy móc trên quy mô lớn nhờ áp dụng các sáng chế kỹ thuật trong sản xuất công nghiệp.
Trong số những thành tựu kỹ thuật có ý nghĩa then chốt trong giai đoạn này trước hết phải kể đến sáng chế “thoi bay” của Giôn Kây vào năm 1733 có tác dụng tăng năng suất lao động lên gấp đôi. Năm 1764, Giôn Ha-gơ-rếp sáng chế xe kéo sợi, làm tăng năng suất gấp 8 lần. Năm 1769, Ri-sác Ác-rai cải tiến công nghệ kéo sợi bằng súc vật, sau đó là bằng sức nước Năm 1785, Ét-mun Các-rai sáng chế máy dệt vải, tăng năng suất dệt lên tới 40 lần. Năm 1784, Giêm Oát sáng chế máy hơi nước, tạo động lực cho sự phát triển máy dệt, mở đầu quá trình cơ giới hóa ngành công nghiệp dệt.
Năm 1784, Hen-ry Cót tìm ra phương pháp luyện sắt từ quặng. Năm 1885, Hen-ry Bét-xen-mơ sáng chế lò cao có khả năng luyện gang lỏng thành thép đáp ứng được về yêu cầu rất lớn khối lượng và chất lượng thép đế chế tạo máy móc thời kỳ đó. Năm 1814, chiếc đầu máy xe lửa đầu tiên chạy bằng hơi nước ra đời, khai sinh hệ thống đường sắt ở châu Âu và châu Mỹ. Năm 1807,
Rô-bớt Phu-tông chể tạo thành công tàu thủy chạy bằng hơi nước.
Sau những bước khởi đầu ở nước Anh, cách mạng công nghiệp đã nhanh chóng lan rộng ra phạm vi thế giới và trở thành hiện tượng phổ biến đồng thời mang tính tất yếu đối với tất cả các quốc gia tư bản.

Bản chất cách mạng của giai cấp công nhân qua 4 cuộc cách mạng công nghiệp

Lâm Quốc Tuấn - Đặng Viết Đạt[Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh]
Đánh giá tác giả:
06:05 thứ sáu ngày 01/05/2020
Tăng kích thước font chữ Giảm kích thước font chữ In bài viết Gửi bài viết
Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết về Cách mạng công nghiệp 4.0 Thích ứng để phát triển Bài 4: Mốc son chói lọi của thời đại

[HNM] - Nhân loại đã và đang trải qua 4 cuộc cách mạng công nghiệp. Qua mỗi lần như vậy, giai cấp công nhân có những biến đổi sâu sắc. Như C.Mác và Ph.Ăngghen đã đánh giá: “Giai cấp công nhân là người đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ với mức độ xã hội hóa, quốc tế hóa ngày càng cao”, vì vậy, bản chất cách mạng của giai cấp công nhân tiếp tục được khẳng định trong Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay.

1. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản [1848], C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”. Nghĩa là, các nền đại công nghiệp sản sinh và phát triển giai cấp vô sản - giai cấp công nhân hiện đại. Tuy nhiên, cũng chính các cuộc cách mạng công nghiệp đã và đang làm thay đổi cấu trúc của giai cấp công nhân.

Peter Drucker [1909-2005] - người được coi là cha đẻ của ngành Quản trị kinh doanh hiện đại, đã viết: “Không có giai cấp nào trong lịch sử lại tăng nhanh hơn "công nhân cổ xanh" và không có giai cấp nào trong lịch sử lại giảm nhanh hơn giai cấp đó”. Sự suy giảm về số lượng của giai cấp công nhân, đặc biệt là "công nhân cổ xanh" bắt nguồn từ sự suy giảm của lực lượng lao động sản xuất hàng hóa truyền thống. Đó là chuyển dịch cơ cấu kinh tế và sự thay thế sức lao động con người bằng máy móc.

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất [1784-1871] đã làm lay chuyển tận gốc trật tự kinh tế cũ tồn tại và phát triển hàng trăm năm trước đó. Chính sự phát triển vượt bậc của thương mại và công nghiệp đã làm sụp đổ từng mảng lớn hình thái kinh tế - xã hội phong kiến. Tự do hóa thương mại, tự do hóa sản xuất và đặc biệt là tự do hóa lao động đã tạo ra những đô thị công nghiệp khổng lồ, kéo theo là những làn sóng chuyển dịch dân cư quy mô lớn từ khu vực nông thôn ra thành thị, tạo ra sự phát triển không ngừng của giai cấp công nhân. Đến cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ hai [1871-1914] với dây chuyền sản xuất hàng loạt tiếp tục đẩy nhanh tiến trình phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng trên toàn thế giới.

Nhưng rồi cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba [1969-2000] với nền sản xuất tự động hóa dựa vào máy tính, thiết bị điện tử và internet đã đẩy mạnh sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ chủ yếu sản xuất công nghiệp sang phát triển dịch vụ và thương mại. Và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư [còn gọi là Cách mạng công nghiệp 4.0], diễn ra từ những năm 2000, dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp tất cả các công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất [trí tuệ nhân tạo - AI, công nghệ in 3D, công nghệsinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, robot...], đang làm biến đổi mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội toàn cầu.

Giáo sư Klaus Schwab [người sáng lập và là Chủ tịch điều hành Diễn đàn Kinh tế thế giới - WEF] đã khẳng định: “Chúng ta đang tiến tới một cuộc cách mạng công nghệ, công nghiệp làm thay đổi cơ bản lối sống, phong cách làm việc và cách thức giao tiếp. Xét về phạm vi, mức độ và tính phức tạp, sự dịch chuyển này không giống với bất kỳ điều gì mà con người từng trải qua”. Vậy những nguyên nhân khách quan này liệu có làm thay đổi bản chất cách mạng của giai cấp công nhân?

Trên thực tế, chỉ những công nhân làm việc trực tiếp trong các dây chuyền sản xuất công nghiệp giảm sút về số lượng, nhưng những người lao động trong các ngành dịch vụ gắn liền với công nghiệp và hoạt động theo lối công nghiệp lại tăng. Do đó, số lượng giai cấp công nhân không hề suy giảm bởi những lao động được trả công ăn lương trong nhiều ngành dịch vụ vẫn là công nhân, theo nghĩa họ phải bán sức lao động để kiếm thu nhập vàlà người trực tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp với mức độ xã hội hóa ngày càng cao.

Như vậy, các cuộc cách mạng công nghiệp không làm giảm số lượng và tỷ trọng giai cấp công nhân trong cơ cấu lao động của nền kinh tế nhưng chắc chắn đã làm thay đổi sâu sắc thành phần, cơ cấu của giai cấp công nhân. Nếu như đa số công nhân thế kỷ XVIII, XIX là công nhân các ngành công nghiệp, mà chủ yếu là lao động cơ khí, thì nay đã xuất hiện công nhân của những ngành ứng dụng công nghệ cao. Tỷ trọng của đội ngũ công nhân trong nền công nghiệp tự động hóa, trí thức hóa ngày càng gia tăng. Có thể thấy rõ, quan điểm Mác xít cho rằng “giai cấp công nhân là người đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ với mức độ xã hội hóa, quốc tế hóa ngày càng cao” vẫn giữ nguyên giá trị.

2. Phải khẳng định rằng, các cuộc cách mạng công nghiệp không làm thay đổi bản chất của giai cấp công nhân mà tiếp tục củng cố và làm gia tăng các đặc tính này. Công nhân vẫn luôn là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, nắm giữ và vận dụng khoa học - kỹ thuật hiện đại trong lao động sản xuất, trở thành lực lượng đi đầu trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Cách mạng công nghiệp 4.0 không chỉ có máy móc được kết nối với nhau mà còn tạo ra các “chuỗi sản xuất và phân phối toàn cầu”, “chuỗi giá trị toàn cầu” với các nhà máy thông minh, trong đó các hệ thống ảo và thực tế [Virtual Reality System] có thể phối hợp một cách linh hoạt. Các nhà máy, xí nghiệp chuyển sang sản xuất tự động hóa, với sự trợ giúp của robot, khiến cho trình độ, kỹ năng của giai cấp công nhân ngày càng được nâng cao. Cũng từ đây, tính kỷ luật, liênkết, xã hội hóa ngày một gia tăng bởi phân công lao động trong các dây chuyền sản xuất công nghiệp không còn là phân công giữa các bộ phận trong nhà máy, xí nghiệp mà là phân công lao động trong phạm vi quốc gia và quốc tế với các dây chuyền và chuỗi cung ứng hàng hóa toàn cầu. Điều này làm cho tính tổ chức kỷ luật, liên kết, xã hội hóa và tiên phong đi đầu trong các cuộc đấu tranh vì những mục tiêu xã hội tốt đẹp của giai cấp công nhân ngày càng cao, nghĩa là bản chất cách mạng của giai cấp công nhân ngày càng thêm sâu sắc.

Nếu giai cấp công nhân trong các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây đã đứng lên kêu gọi và đoàn kết các giai cấp, tầng lớp khác đấu tranh để cải thiện tiền lương, cải thiện điều kiện lao động hay đi đầu trong các phong trào giải phóng dân tộc, giải phóng con người khỏi áp bức bất công, giành tự do, độc lập cho quốc giadân tộc, thì trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, họ vẫn tiếp tục đấu tranh cho các quyền tự do cơ bản của con người, đấu tranh để chống lại áp bức, bóc lột, bất công, qua đó thúc đẩy công bằng, bình đẳng và tiến bộ xã hội.

Những mục tiêu cao đẹp đó sẽ không tự động đạt được hay đi liền với các cuộc cách mạng công nghiệp, bởi các cuộc cách mạng công nghiệp một mặt đã đem lại cho con người điều kiện sống tiện nghi hơn, hiện đại hơn nhưng cũng tạo ra nhiều nguy cơ, thách thức trong xã hội, như: Phân hóa, phân tầng xã hội; bất bình đẳng xã hội; con người đối mặt với nhiều rủi ro về kinh tế, xã hội và môi trường. Đặc biệt, Cách mạng công nghiệp 4.0 có thể dẫn đến tình trạng bất cân xứng về quyền lực, ưu thế quyền lực thuộc về các cá nhân, tổ chức, quốc gia hiểu biết và kiểm soát công nghệ.

Vì vậy, xã hội hiện đại ngày nay vẫn cần lực lượng lao động cấp tiến để quản lý, thúc đẩy sáng tạo và đấu tranh cho những mục tiêu cao đẹp, đó là xây dựng một xã hội trong đó các quyền và tự do cơ bản của tất cả mọi người đều được tôn trọng và bảo đảm. Lực lượng lãnh đạo đó không ai khác chính là giai cấp công nhân, những người lao động được tôi luyện từ nền sản xuất đại công nghiệp hiện đại.

Cách mạng công nghiệp 4.0 với những tiền đề mà nó tạo ra sẽ cho thấy những bước tiến mới của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Hiện nay, hầu hết các quốc gia đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam, đều rất quan tâm và quyết tâm mạnh mẽ hướng tới Cách mạng công nghiệp 4.0. Đây cũng là một con đường để phát triển rút ngắn, để xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Không ai khác, chính giai cấp công nhân Việt Nam sẽ đi đầu trong Cách mạng công nghiệp 4.0. Sát cánh cùng họ là các giai cấp, tầng lớp khác sẽ cùng làm nên một hình ảnh mới của Việt Nam “sánh vai với các cường quốc năm châu”.

Bản chất cách mạng của giai cấp công nhân qua 4 cuộc cách mạng công nghiệp Đóng Tự trình chiếu Dừng trình chiếu
Tin liên quan Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết về Cách mạng công nghiệp 4.0

Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết số50/NQ-CPchương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27-9-2019 …

Tin liên quan Thích ứng để phát triển

[HNM] - Với chủ đề “Đọc sách, nâng cao trí tuệ, vượt qua nỗi lo dịch bệnh”, Hội sách trực tuyến quốc gia năm 2020 chào mừng Ngày …

Tin liên quan Bài 4: Mốc son chói lọi của thời đại

[HNM] - Đòi hỏi ra đời của một chính đảng cộng sản duy nhất để lãnh đạo phong trào cách mạng ở nước ta là tất yếu của lịch sử. Trước tất yếu …

Chia sẻ Facebook Chia sẻ Google Plus Chia sẻ Twitter Chia sẻ Zalo Tới khu vực bình luận In bài viết Gửi bài viết
Từ khóa: bản chất cách mạng giai cấp công nhân cách mạng công nghiệp

Video liên quan

Chủ Đề