Đặc điểm của triết học Tây Âu phục hưng

[Last Updated On: 21/07/2021]

Nếu triết học Tây Âu trung đại bị chi phối bởi chủ nghĩa duy tâm, coi trọng lòng tin tôn giáo, đề cao vai trò của Thượng đế, coi thường lý trí khoa học, hạ thấp vai trò của con người và giới tự nhiên…, là công cụ tinh thần của Nhà thờ và nhà nước phong kiến thống trị con người; thì triết học Tây Âu thời Phục hưng đã bắt đầu coi trọng lý trí, đề cao con người và giới tự nhiên ; về cơ bản, nó là ngọn cờ lý luận của các lực lượng xã hội tiến bộ trong cuộc đấu tranh chống ý thức hệ phong kiến lỗi thời, nhằm thiết lập ý thức hệ mới – ý thức hệ tư sản.

Trải qua một quá trình xung đột gay gắt giữa các tư tưởng duy vật và khoa học của các lực lượng tiến bộ trong xã hội với các tư tưởng duy tâm và thần học thể hiện lợi ích của giai cấp phong kiến và Nhà thờ, chủ nghĩa duy vật từng bước được khôi phục lại. Tuy nhiên, do sự ảnh hưởng rất lớn của thần học nên chủ nghĩa duy vật thời kỳ này không triệt để, nó mang tính tự nhiên thần luận; nó chỉ chống lại Nhà thờ nếu Nhà thờ xuyên tạc những lý tưởng xã hội cao đẹp, những quan niệm khoa học đúng đắn; thậm chí, nó còn dựa vào Thượng đế để chống lại những biểu hiện phi nhân tính trong đời sống, phi khoa học trong nghiên cứu.

Các tư tưởng cơ bản của triết học thời Phục hưng có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển tiếp theo của triết học Phương Tây là quan niệm mới về con người tự nhiên, – tư tưởng đề cao con người và sự nghiệp giải phóng con người, thuyết nhật tâm; về khoa học và vai trò của nó trong đời sống của nhân loại...

Nicôlai đờ Cudơ [Nicolas de Cuze, 1401-1464] cho rằng, vũ trụ là vô tận, còn Trái Đất chỉ là một hành tinh bình thường; Thượng đế hòa lẫn với giới tự nhiên, quá trình phát triển ngày càng hoàn thiện của thế giới cũng là quá trình Thượng đế ngày càng biểu hiện ra thành giới tự nhiên. Vì sự phát triển của Thượng đế là vô cùng tận nên các phạm trù hữu hạn của con người không thể hiện được bản chất vô hạn của Thượng đế; Con người không chỉ là một sinh vật cấp cao bằng xương bằng thịt, mà còn là một sản phẩm tối cao của Thượng đế, con người đã và đang thường xuyên tác động vào các sự vật tự nhiên và cải biến nó. Thậm chí, ông còn coi bản thân con người là Thượng đế.

Là một danh họa, Lêôna đờ Vanhxi [Léonard de Vinci, 1452-1519] luôn coi trọng nghệ thuật – hoạt động sáng tạo của con người. Theo ông, chỉ có nghệ thuật mới có thể giúp con người nhận thức được các đặc tính về chất của các sự vật, chỉ có nghệ thuật mới mang lại cho chúng ta một bức tranh sinh động về thế giới; còn khoa học chỉ có khả năng khám phá ra các đặc tính về lượng của các sự vật, phát hiện ra các qui luật chung của thế giới mà thôi.

Thuyết nhật tâm đã được Nicôlai Côpécníc [Nicolas Copernic, 1473-1543] xây dựng có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của triết học và khoa học. Nó đánh đổ thuyết địa tâm của Ptôlêmê [Ptolémée] được nhà thờ ủng hộ, đồng thời giải phóng khoa học tự nhiên ra khỏi sự thống trị của thần học, mở đầu cho công cuộc cách mạng hóa toàn bộ khoa học. Giócđanô Brunô [Giordano Bruno, 1548-1600] không chỉ bảo vệ thuyết nhật tâm

Côpécníc, mà còn đưa ra quan điểm duy vật mới về vũ trụ. Phạm trù trung tâm trong triết

học của ông là Cái duy nhất [Unô] phản ánh sự thống nhất giữa Thượng đế với Giới tự nhiên -một thế giới độc lập không được sáng tạo. Nói ngắn gọn, Unô là “Giới tự nhiên – Thượng đế“. Mặc dù đồng nhất Thượng đế với Giới tự nhiên nhưng thực ra ông chỉ thừa nhận Thượng đế trên danh nghĩa. Ông cho rằng mọi sự vật trong thế giới là các dạng biểu hiện cụ thể của Unô; bản thân các sự vật luôn luôn biến đổi còn Unô thì bất biến.

Brunô đã tiếp cận được quan niệm về tính thống nhất vật chất của vũ trụ. Theo ông, mọi sự vật đều nằm trong vũ trụ, và vũ trụ nằm trong tất cả mọi vật; Chúng ta ở trong vũ trụ, và ngược lại, vũ trụ nằm trong chúng ta. Vũ trụ vô tận có vô số thế giới tồn tại; Trái Đất cũng chỉ là một hạt bụi trong vũ trụ mênh mông không có tâm. Sự vật nói riêng, vũ trụ nói chung được cấu thành từ các đơn tử – các phần tử nhỏ nhất của vật chất có năng lực tinh thần tạo ra sinh khí làm cho mọi vật liên hệ, vận động, thay đổi, cái này mất đi, cái khác ra đời. Vạn vật, mà trước hết là hai cái đối lập nhau – cái lớn nhất và cái nhỏ nhất trong vũ trụ, luôn thống nhất và chuyển hóa lẫn nhau. Ngoài đơn tử – cái nhỏ nhất trong triết học, Brunô còn thừa nhận cái nhỏ nhất trong toán học – điểm, trong vật lý – nguyên tử. Còn cái lớn nhất trong triết học là Giới tự nhiên vô tận. Đơn tử và Giới tự nhiên hoàn toàn thống nhất với nhau.

Mục đích nhận thức của triết học là phát hiện ra tính thống nhất này, tức là khám phá ra bí mật của thế giới. Để nhận thức đúng thế giới cần phải biết nghi ngờ, mà trước hết là nghi ngờ các giáo lý hoang đường của tôn giáo. Sự nghiên cứu triết học phải bắt đầu từ nghi ngờ. Nghi ngờ cả cái mà người ta tin. Phải dựa vào lý trí và trên cơ sở thực nghiệm để tìm ra chân lý, mà chống lại niềm tin mù quáng. Ông chỉ thừa nhận chân lý của lý trí mang tính khách quan do khoa học và cuộc sống đem lại mà bác bỏ chân lý của lòng tin… Do triết học duy vật của Brunô chống lại chủ nghĩa kinh viện, vạch trần sự dối trá lừa bịp của Giáo hội nên tòa án Giáo hội đã thiêu sống ông.

Galilêô Galilê [Galiléo Galilée, 1546-1642] là người mở đầu cho sự phát triển của khoa học thực nghiệm. Nhờ kính viễn vọng mà ông phát hiện ra các vật thể vật chất trên Mặt Trăng, khám phá về sao Kim, Mặt Trời, các vệ tinh sao Mộc… chứng minh cho tính đúng đắn thuyết nhật tâm Côpécníc và tính thống nhất vật chất của vũ trụ. Galilê cho rằng giới tự nhiên và kinh thánh là hai “cuốn sách” không liên quan với nhau, trong đó, mỗi “cuốn sách” đều cần cho con người ở một khía cạnh nhất định. Nếu kinh thánh gần gũi với cuộc sống hằng ngày của con người bởi tính dễ hiểu với những điều răn dạy thông thường, thì khoa học giúp con người khám phá những quy luật của giới tự nhiên, nhận thức bản chất đích thực của chúng. Trong lĩnh vực hoạt động khoa học, kinh thánh không có vai trò gì cả. Để hiểu “cuốn sách” giới tự nhiên con người không chỉ đơn thuần dựa trên sự diễn giải câu chữ mà phải dựa vào thực nghiệm và tư duy lý tính. Từ những quan niệm trên, Galilê khẳng định tôn giáo và khoa khọc là hai lĩnh vực đời sống tinh thần cần thiết cho con người. Tuy nhiên, ông đặc biệt đề cao vai trò của khoa học, khẳng định sức mạnh trí tuệ của con người trong quá trình vô tận nhận thức thế giới và khẳng định rằng những gì chúng ta biết còn quá ít so với những gì mà ta chưa biết…

Những tư tưởng mới về con người, về tự nhiên, về khoa học và vai trò của nó trong đời sống con người được các trường phái triết học thời cận đại phát triển dựa trên cách tiếp cận của riêng mình. Sau đây là những trường phái tiêu biểu.

VI. TRIẾT HỌC THỜI PHỤC HƯNG VÀ CẬN ĐẠI

  • Về kinh tế - xã hội: Xã hội Tây âu kể từ thế kỷ thứ 15 đến thế kỷ thứ 16 là thời kỳ chế độ phong kiến và nền sản xuất của nó trong quá trình tan rã. Phương thức sản xuất TBCN và giai cấp tư sản từng bước chiếm lĩnh chi phối đời sống xã hội. Đến thế kỷ thứ 17, nhiều cuộc cách mạng tư sản xuất hiện và thắng lợi, bước đầu xác lập quan hệ mới. Xã hội phong kiến nhường chỗ cho những tiền đề của xã hội tư bản chủ nghĩa.
  • Về tư tưởng: Tư tưởng thần quyền của thời Trung cổ từng bước bị đẩy lùi, thành tựu khoa học của xã hội Tây âu đã đạt được những bước phát triển mới. Chẳng hạn như thuyết “Nhật tâm” của Copernic là một phát minh có sức công phá dữ dội vào thành trì phong kiến và ý thức hệ của giai cấp quý tộc cầm quyền.
  • Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm từ thế kỷ 15 rất quyết liệt được biểu hiện trên hai lập trường. Các nhà duy tâm quay lưng lại với các thành tựu khoa học còn các nhà duy vật lại ủng hộ mạnh mẽ các thành tựu khoa học. Nói một cách hình ảnh là “phát minh của Copernic đã làm một cuộc cách mạng trên trời, một cuộc cách mạng trong tư tưởng để các thành tựu khoa học khác thực hiện cuộc cách mạng trong hiện thực”.
  • Đặc điểm 1 Triết học Tây âu thời Phục hưng và cận đại là nền triết học xem con người là vấn đề trung tâm của triết học, chủ trương giải phóng con người ra khỏi mọi sự ràng buộc của thượng đế. Do vậy nó chống lại thần học rất mạnh mẽ.
  • Các nhà Triết học thời Phục hưng và cận đại ủng hộ mạnh mẽ mọi thành tựu của khoa học, đồng thời họ đòi hỏi phải phục hưng lại các giá trị khoa học mà con người đã tạo dựng lên trong thời cổ đại.
  • Để né tránh sự kiểm duyệt của chính quyền đương thời. Triết học thời phục hưng và cận đại tồn tại với hai hình thức:
    • Phiếm thần luận: nó thừa nhận sự tồn tại của thượng đế và của chúa trời đồng thời thượng đế cũng là giới tự nhiên.
    • Tự nhiên thần luận: cho rằng thượng đế sáng tạo ra giới tự nhiên và xã hội nhưng khi đã hình thành thì tự nhiên và xã hội không còn phụ thuộc vào thượng đế nữa mà vận động theo quy luật của nó.

Do khoa học phát triển nên chủ nghĩa duy vật có nhiều hình thức phong phú, nhưng vì khoa học thời này chủ yếu là khoa học thực nghiệm nên chủ nghĩa duy vật cũng do đó mà mang tính siêu hình. Điều này thể hiện về mặt nhận thức luận là sự đối lập giữa cảm giác luận và duy giác luận, giữa quy nạp và diễn dịch.

2. Một số nhà triết gia tiêu biểu

a. Chủ nghĩa duy vật

Có nhiều triết gia, trong đó có thể kể đến những nhà triết học tiêu biểu từ thế kỷ 17 như Phranxi Becon, Hôpxơ và những nhà triết học thế kỷ 18 như Đi-đơ-rô, Hôn-bách.

Phranxi Bêcơn [1561 -1626]

Francis Bacon sinh ra trong một gia đình quý tộc Anh và làm quan đến chức Bộ trưởng. Ông được xem là người sáng lập ra chủ nghĩa duy vật Anh và khoa học thực nghiệm hiện đại. Kể từ khi Bacon xuất hiện thì nền khoa học của Anh đã chuyển sang một bước ngoặt mới. Ông đã để lại nhiều tác phẩm triết học lớn cho nhân loại như “Đại phục hồi các khoa học”. Triết học của ông hàm chứa các học thuyết sau đây: Học thuyết về thượng đế, học thuyết về tự nhiên, học thuyết về con người.

  • Vũ trụ quan: Bacon cho rằng mọi sự vật và hiện tượng vũ trụ đều được hình thành từ ba nhân tố: Vật chất, hình dạng và vận động. Ở đây Bacon kế thừa 3 nhân tố hợp lý của Aristote trong vũ trụ quan của mình nên ông là một triết gia duy vật.
    • Nhận thức luận của Bacon: Bacon cho rằng lịch sử nhận thức của con người có những sự nhầm lẫn đáng tiếc. Sự lầm lẫn đáng tiếc đó, Bacon gọi là ngẫu tượng. Từ quan điểm này, Bacon cho rằng xưa nay người ta nhận thức bằng các hình ảnh sau đây: Nhận thức theo kiểu con kiến: Đây là kiểu góp nhặt tri thức mà không hiểu và cũng không biết vận dụng sáng tạo
    • Nhận thức theo kiểu con nhện [chủ quan duy ý chí lấy mong muốn chủ quan của con người áp đặt vào hiện thực, không có tính khách quan]. Đây là kiểu nhận thức phổ biến của chủ nghĩa kinh viện.
    • Nhận thức theo kiểu con ong: Sự nhận thức của con ong này đem lại tri thức mới, khách quan mới [con ong không chỉ biết đem nhụy của hoa về một cách nguyên vẹn mà còn tinh chế nó thành mật ngọt cho đời]. Do vậy phải thay đổi nhận thức theo cách này. Ông đề cao phương pháp phân tích thực nghiệm.
  • Nhân sinh quan của Bacon: Bacon cho rằng con người là sản phẩm của tạo hoá, sản phẩm của tự nhiên nên nhận thức từ con người cũng chính là nhận thức tự nhiên. Tuy nhiên vê nhân sinh quan thì ông còn nhiều hạn chế vì cho rằng con người có nhiều hạng với nhiều dạng linh hồn khác nhau. Quan niệm này của Bacon chứng tỏ rằng ông thừa nhận sự bất bình đẳng về năng lực trí tuệ của con người.
  • Quan niệm của Bacon về triết học và khoa học tự nhiên:
    • Bacon khẳng định tri thức là sức mạnh. Ông cho rằng để cải tạo hiện thực thì con người phải sử dụng tri thức của triết học và khoa học tự nhiên. Muốn vậy, triết học và khoa học tự nhiên phải liên minh lại. Những tư tưởng này chứng tỏ rằng Bacon chủ trương con người sử dụng tri thức để cải tạo tự nhiên và đời sống của con người. Bacon cho rằng: “Tri thức không phải vi tri thức, khoa học không phải vì khoa học mà mọi tri thức phải ứng dụng vào thực nghiệm. Thực ra đây là quan niệm của Bacon muốn phê phán chủ nghĩa kinh viện chỉ biết lí luận suông.
    • Ông là nhà tư tưởng có công khai phá ra những vấn đề mới về vai trò của triết học và khoa học tự nhiên, về phương pháp mới trong tư duy. Triết học của ông đặt nền móng cho chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ 17-18. Mặc dù về mặt nhân sinh quan Bacon không tránh được những mặt hạn chế. Tuy nhiên sự hạn chế ấy không thể làm lu mờ địa vị của ông trong lịch sử triết học Tây âu thời cận đại.

Hôpxơ [Triết gia người Anh, 1588 - 1679]

  • Phát triển chủ nghĩa duy vật của Becon, nhưng chủ nghĩa duy vật của Hopxơ có tính máy móc: Giới tự nhiên là máy lớn, con người là máy nhỏ, trái tim như lò xo. Về nhận thức, ông tiếp tục thuyết kinh nghiệm của Becon nhưng đã kết hợp được những yếu tố của cảm giác và duy giác. Về phương pháp ông thấy được vai trò của cả diễn dịch và quy nạp.
  • Đến thế kỷ 18, triết học duy vật được phát triển lên một bước mới. Các nhà duy vật này đấu tranh mạnh mẽ chống thần học. Tiêu biểu là các nhà triết học của phái Bách khoa toàn thư. Họ cho rằng thế giới là vật chất. Có sự thống nhất giữa vật chất và vận động. Vật chất là vô cùng tận, nó tồn tại một cách muôn màu muôn vẻ. Vận động có nguyên nhân bên trong của vật chất và vận động tuân theo những quy luật khách quan. Thời gian, không gian là phương thức tồn tại của vật chất. Con người là sản phẩm của tự nhiên, ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao. Nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc người. Các sự vật tồn tại khách quan, tác động vào giác quan tạo ra cảm giác. Đi-đơ-rô nêu vấn đế đấu tranh giữa các mặt đối lập, vấn đề vô hạn và có hạn.Tuy nhiên, các nhà duy vật này còn hạn chế ở chỗ phương pháp tư duy là siêu hình và duy tâm về xã hội.

Đi- đờ- rô [Denis Diderot, 1713- 1784]

  • Là nhà duy vật nổi tiếng, nhà tư tưởng của giai cấp tư sản cách mạng thế kỷ 18 và là nhà sáng lập phái “Bách khoa toàn thư” Thế giới quan của ông là duy vật. Ông cho rằng thế giới là vật chất tồn tai khách quan trong trạng thái thường xuyên vân động. Con người là sự thống nhất hữu cơ giữa linh hồn và thể xác, trong đó linh hồn là tổng thể các hiện tượng tâm lý, vì thế linh hồn sẽ không là cái gì cả nếu không có thân thể con người. Con người không phải là đặc ân của Thiên chúa. Sự hình thành và phát triển của nó như là một chuỗi biến dịch của vật chất. Linh hồn là các dạng tâm lý được hình thành trong sự phát triển của vật chất để tạo ra một vật thể có suy nghĩ. Chúa không có thật. Chúa do con người thần thánh hóa mà tạo ra. Ông là người chống Thiên chúa giáo mạnh mẽ. Ông viết ”Địa ngục, thiên đường quá xa xôi, trong khi những cái cần cho sự sống thì lại ở ngay trước mặt”.Tuy nhiên về mặt xã hội, ông lại là nhà duy tâm. Do chịu ảnh hưởng của Rousseau, Montesqueu, Didero cho rằng sự cần thiết của pháp luật và nhà nước phải phù hợp với yêu cầu của lý tính. Luật pháp là nền tảng của cuộc sống có đạo đức. [Thật ra ở góc cạnh này, Didero đã nhìn thấy vai trò to lớn của pháp luật trong việc xác lập thói quen đạo đức cho con người]

Hôn- Bách [Paul Henry HolBach, 1729- 1789]

  • Hôn- Bách là đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật vô thần Pháp thế kỷ 18. Vốn là dòng dõi Nam tước ở Đức, sau khi tốt nghiệp Đại học ở Đức, Ông sang Pháp sống cho đến cuối đời. Ông là trụ cột của phái khai sáng đương thời cùng tham gia tích cực vào phái Bách khoa toàn thư. Ông có uy tín lớn trong giới khoa học nên được bầu làm thành viên đại diện của viện Hàn lâm khoa học Nga.
  • Thế giới quan của Hôn- Bách được dựng nên từ vật chất. Trong tác phẩm “Hệ thống tự nhiên hay là quy luật của thế giới vật lý và của thế giới tinh thần”, Ông đã chỉ ra rằng thế giới này không có gì khác hơn là thế giới vật chất. Vật chất luôn vận động và chuyển hóa nhau theo quy luật nhân quả. Bước đầu ông đã nêu lên định nghĩa vật chất “là tất cả những cái tác động bằng cách nào đó vào các giác quan của chúng ta”. “Nếu người ta hỏi chúng ta vật chất ở đâu mà ra thì chúng ta trả lời rằng ở đâu và bao giờ cũng có vật chất”. “Nếu hỏi rằng tại sao vật chất lại vận động thì chúng ta trả lời rằng vì vận động là tất yếu của sự tồn tại và bản thân của vật chất”.Theo ông con người là sản phẩm của giới tự nhiên nó cũng phải chịu mọi sự tác động như các sản phẩm khác của tự nhiên.
  • Về nhận thức, Hôn- Bách là nhà duy cảm. Ông phủ nhận linh hồn bất tử vì “Bộ não chính là linh hồn”. Chân lý là sự phù hợp giữa ý niệm và sự vật. Ông là nhà triết học viết và chống tôn giáo hay nhất: “Thần học là khoa học mang màu sắc thần thánh và dạy chúng ta suy nghĩ về những cái mà chúng ta không hiểu và làm cho chúng ta mất quan niện rõ ràng về những điều mà hoàn toàn chúng ta có thể hiểu được”. “Tôn giáo dù ở chín tầng trời thì cũng chỉ là những sản phẩm chính những sinh linh mang kiếp người tạo ra”. Hôn- Bách là người thấy rõ nguồn gốc của tôn giáo, đó là sự bất lực của con người trước sức mạnh của tự nhiên và những áp lực của xã hội, đồng thời ông cũng thấy được mối quan hệ giữa giáo hội và chính trị. Các tác phẩm của ông về “Đạo Cơ đốc bị bóc trần” [1761], “Hệ thống tự nhiên hay là quy luật của thế giới vật lý và của thế giới tinh thần” [1768] đều bị Nghị viện Paris thời đó lên án và buộc phải đốt năm 1770.

b. Chủ nghĩa duy tâm và các triết gia tiêu biểu

Descartes [1596 - 1650]

  • Trong giai đoạn tiền tư bản chủ nghĩa, Nước Pháp vẫn còn theo chế độ quân chủ chuyên chế và sự thống trị của Thiên chúa giáo.
  • Descartes cho rằng bản nguyên thế giới vừa là vật chất, vừa là tinh thần: Ông xây dựng vật lý học cho rằng thế giới chỉ do yếu tố vật chất, đồng thời ông cũng xây dựng môn siêu hình học, thừa nhận yếu tố tinh thần là bản nguyên của thế giới.
  • Về nhận thức, ông đề cao vai trò của lý tính: “Tôi tư duy, tức là tôi tồn tại”; đề cao phương pháp diễn dịch; đề ra nguyên tắc nghi ngờ; tiêu chuẩn của chân lý là sự rành mạch, rõ ràng của tư duy. Với mệnh đề “Je pens, je suis” Descartes là người đột phá vào thành trì thế giới quan của chủ nghĩa kinh viện. Hegel đánh giá Descartes đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lịch sử tư tưởng triết học và “cùng với Descartes, một thời đại mới của triết học bắt đầu”

Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: Bercelin, Hium

  • Bercelin là một giáo chủ đã đi nhiều nơi trên thế giới để truyền đạo, đã viết nhiều tác phẩm nhằm chống chủ nghĩa duy vật. Ông lợi dụng chủ nghĩa duy vật để cứu vãn chủ nghĩa duy tâm. Bercelin cho rằng những phức hợp cảm giác làm cho người ta có khái niệm về sự vật, cảm giác cấu thành sự vật, cảm giác ấy là tư tưởng, là cảm giác của con người nào đấy, là cảm giác của cái tôi - duy ngã.
  • Về nhận thức, cả Bercelin và Hium đều phủ nhận tính khách quan của chân lý và không thừa nhận sự tồn tại khách quan của sự vật.

Tóm lại, triết học thời kỳ này cũng như triết học các thời kỳ trước, là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Cuộc đấu tranh này do quy luật kinh tế - xã hội- chính trị quy định. Đại biểu cho chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là hai lực lượng xã hội đối lập: một bên là phong kiến và chủ nghĩa duy tâm phục hồi còn một bên là lực lượng xã hội tiến bộ với chủ nghĩa duy vật và khoa học.

Tác phẩm, tác giả, nguồn

  • Giáo trình Triết học Mác Lênin
  • Đại học An Giang

Video liên quan

Chủ Đề