Điểm mới trong chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai của Pháp ở Việt Nam là

Chủ trương này đã làm đổi diện mạo nông nghiệp Việt Nam, đem lại cho người Pháp lợi nhuận kếch xù nhưng cũng gây ra nhiều đau khổ cho người nông dân Việt Nam.

Chiếm đoạt đất đai, phát triển kinh tế đồn điền

Đó là mục đích chính trị lâu dài và là chính sách khai thác thuộc địa của người Pháp ở Việt Nam. Từ cuối thế kỷ XIX, ngay cả khi chưa bình định xong thì họ đã bằng nhiều thủ đoạn chiếm đoạt đất đai để lập đồn điền.

Cảnh khổ cực của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám. Ảnh tư liệu

Năm 1897, họ buộc triều đình Huế ký điều ước nhượng quyền khai khẩn đất hoang. Ngày 1/5/1900, chính quyền thực dân ra nghị định phủ nhận quyền sở hữu ruộng đất trong luật pháp phong kiến để dễ cướp đoạt ruộng đất của nông dân. Họ sử dụng khái niệm “đất hoang“, “đất vô chủ” đối với đất đai của nông dân đã bị họ đuổi đi để chiếm đoạt.

Ở Nam Kỳ, họ tổ chức nông dân vét sông, đào mương, khai khẩn thành ruộng rồi chiếm đoạt bằng hình thức mua của Nhà nước với giá rẻ mạt [80 đồng/1.000ha ruộng, tức là 192 franc năm 1900], hoặc được nhà nước cấp không.

Ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ, ruộng đất của những người tham gia các phong trào chống Pháp đều bị coi là vô chủ để mặc nhiên chiếm đoạt.

Từ năm 1886, mỗi người Pháp có thể được cấp không quá 10ha để làm nông mỗi lần xin. Nhưng từ các Nghị định ra ngày 6/10/1889 và ngày 15/10/1890 thì người Pháp được quyền xin và được cấp mỗi lần không quá 500ha. Do đó, đất đai bị chiếm đoạt ngày càng tăng một cách nhanh chóng. Năm 1890, cả nước bị chiếm 10.900ha, năm 1900 là 301.000ha.

Năm 1901, người Pháp lập được 244 đồn điền, phần lớn trồng lúa, ngoài ra có cao su, cà phê, chè và chăn nuôi gia súc. Rừng cũng bị họ chiếm đoạt để lập những khu lâm khẩn.

Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, quy mô và tốc độ tập trung đất đai càng phát triển. Các đồn điền mới ngày càng nhiều, đặc biệt là đồn điền trồng cao su.

Tính đến năm 1930, tổng số ruộng đất bị người Pháp chiếm đoạt đã lên đến 1,2 triệu ha. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc phát triển và giữ vai trò ngày càng quan trọng của kinh tế đồn điền ở Việt Nam thời thuộc Pháp.

Củng cố và phát triển hệ thống thủy nông

Nhằm phục vụ trực tiếp cho hoạt động quân sự và mở mang khai thác nông nghiệp thuộc địa, chính quyền thực dân đã quan tâm đến việc củng cố và phát triển hệ thống thủy nông và giao thông đường thủy.

Ở Nam Kỳ, từ năm 1867, họ thành lập một ủy ban thuộc Soái phủ Sài Gòn để nghiên cứu và tổ chức việc nạo vét, mở rộng hệ thống kênh rạch. Năm 1875, họ tiếp tục thành lập ủy ban thường trực về việc hoàn chỉnh hệ thống đường thủy từ Sài Gòn đi các tỉnh miền Tây.

Từ năm 1880 - 1890, tổng cộng đã đào được 2,1 triệu m3 đất kinh rạch, tăng được 169.000ha đất canh tác so với thời Nguyễn.

Năm 1895 - 1897, Tổng đốc Trần Bá Lộc được chính quyền thực dân cho tự đầu tư đào kênh Tổng Đốc Lộc dài 45km, rộng 10m.

Quá trình đào kênh ở Nam bộ có sự chuyển biến lớn khi Paul Doumer làm Toàn quyền Đông Dương [1897 - 1902]. Ngày 8/9/1900, một hội đồng gồm các kỹ sư công chính, các tỉnh trưởng, đại diện các điền chủ người Pháp được thành lập để hoạch định chương trình đào kênh cho đồng bằng sông Cửu Long. Năm 1901, thành lập Công ty đào sông và các việc công chính Đông Dương.

Từ chương trình này, hàng loạt kênh cũ được nạo vét, kênh mới được đào thêm để có diện mạo hệ thống cơ bản như ngày nay. Đặc biệt, từ đây diện tích canh tác đã được tăng lên rất nhiều. Riêng kênh Rạch Giá - Hà Tiên hoàn thành năm 1929 đã mở rộng khai thác trên 220.000ha của khu tứ giác Long Xuyên.

Ở Bắc Bộ và Trung Bộ, việc xây dựng, khai thác thủy lợi của Pháp bắt đầu muộn hơn, chỉ từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất [1897 - 1914].

Đến năm 1930, ở Bắc và Trung Bộ, Pháp mới chỉ đầu tư xây dựng và cải tạo 5 công trình thủy nông với tổng diện tích tưới thiết kế là 118.500ha. Cho đến năm 1945, các công trình thủy nông ở Bắc Bộ có công suất thiết kế tưới tiêu, hoặc ngăn mặn cho 298.000ha, ở Trung Bộ, các công trình tưới là 124.000ha.
Tuy còn hạn chế nhưng các công trình thủy lợi đã khai thác, đưa vào canh tác các vùng đất rộng lớn và quy tụ dân cư ở Nam Bộ, nâng cao hiệu quả sử dụng ruộng đất ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ.

Thay đổi cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi

Với mục tiêu khai thác lợi nhuận từ nông nghiệp, ngay từ đầu người Pháp đã chú trọng làm thay đổi nền nông nghiệp vốn chủ yếu chuyên canh cây lúa. Khi mới thôn tính ba tỉnh miền Đông, ngày 23/3/1864, người Pháp đã xây dựng Vườn Bách Thảo tại Sài Gòn để làm nơi nuôi thú và ươm cây, nghiên cứu và thực nghiệm di thực giống mới vào Việt Nam. Một số vườn ươm ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ cũng được thiết lập.

Người Pháp đã thành lập Viện khảo sát nông lâm Đông Dương [IRAFI], Túc mễ Đông Dương; Xây dựng một số cơ sở thí nghiệm về hóa học nông nghiệp, côn trùng học, thổ nhưỡng học ở cả ba miền… Từ đó một số giống cây trồng mới như cao su, cà phê, khoai tây, vú sữa, mía Indonesia, Ấn Độ, giống cam, quýt của Bắc Phi, Địa Trung Hải; khoai tây Pháp… đã được di thực vào Việt Nam, thực nghiệm và đưa ra trồng đại trà. Nhiều giống gia súc mới cũng được nhập vào như ngựa, cừu, bò sữa, gà tây…

Họ còn áp dụng nhiều kỹ thuật nông nghiệp của châu Âu như đưa phân bón hóa học vào sản xuất, nhất là ở các đồn điền trồng cây công nghiệp; Đưa vào một số nông cụ cầm tay của người Âu như cuốc, xẻng, xà beng, cưa tay… Đặc biệt, họ đã trang bị một số động cơ hơi nước, động cơ nổ, máy kéo, tàu cuốc.

Nhờ có thủy lợi và vận dụng kỹ thuật mới, năng suất lúa trung bình trên toàn xứ Đông Dương đã tăng gấp 5 lần [từ 2,3 tạ/ha lên 10,7 tạ/ha] so với cuối thế kỷ XIX.

Diện tích trồng cao su ở các đồn điền cũng tăng từ 18.000ha năm 1925 lên 27.328ha năm 1937 và 133.000ha năm 1942. Sản lượng và diện tích trồng cao su của Đông Dương vào hàng thứ 2 thế giới. Tiếp đến là cây cà phê với tổng diện tích khoảng 10.000ha, cây chè khoảng 26.000ha, cây thuốc lá khoảng 11.950ha [năm 1938]. Ngoài ra còn có các đồn điền trồng trồng mía, dừa, lạc, thầu dầu, dâu, hạt tiêu… Các đồn điền chăn nuôi được xây dựng, riêng ở Bắc Kỳ, sau chiến tranh thế giới I, có 98 đồn điền, diện tích gần 155.000ha, nuôi khoảng 30.000 con gia súc.

Nền nông nghiệp cổ truyền độc canh cây lúa của Việt Nam đã thay đổi, nhiều loại cây công nghiệp dài ngày, nhiều giống gia súc mới đã xuất hiện và đem lại hiệu quả cao.

Chuyển đổi tính chất của nền nông nghiệp

Từ nhiều chính sách khuyến khích phát triển, nhất là kinh tế đồn điền, tính chất của nền nông nghiệp đã dần thay đổi. Quy mô tập trung đất đai ngày càng lớn, sản phẩm dành cho xuất khẩu ngày càng nhiều và chiếm giữ vị trí ngày càng quan trọng trong nền kinh tế.

Về sản lượng lúa, tính riêng năm 1913, cả nước thu hoạch khoảng 3.818.000 tấn lúa, trong đó 1.286.804 tấn đem đi xuất khẩu. Trong những năm 20, lúa đạt từ 60 - 70% giá trị xuất khẩu. Năm 1880, sản lượng gạo xuất khẩu là 240.000 tấn thì đến năm 1928 đã lên 1.700.000 tấn, số lượng xuất khẩu gạo trong thập niên 20 tăng 26%, Việt Nam trở thành nước cung cấp gạo lớn thứ hai cho thị trường thế giới. Việt Nam cũng trở thành nhà xuất khẩu ngô thứ hai thế giới.

Ngành kinh tế cao su ở Đông Dương chủ yếu là ở Việt Nam phát triển đã đưa lượng cao su xuất khẩu năm 1939 tăng gấp 7 lần năm 1928, giá trị xuất khẩu năm 1929 là 11.000.000 franc đến năm 1939 tăng lên 96.000.000 franc; tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu của Đông Dương: năm 1936 chiếm 14,3%, năm 1937: 18%, năm 1938: 21,4%, năm 1939 lên tới 27,4%. Xuất khẩu cao su đã góp phần cho cán cân ngoại thương ở Việt Nam có thặng dư lớn.

Chủ nghĩa tư bản Pháp xuất hiện, thể hiện rõ nhất là kinh tế đồn điền đã dẫn đến sự phá vỡ kết cấu kinh tế nông nghiệp truyền thống đi liền với xuất hiện và ngày càng mở rộng các thành phần kinh tế mới tư bản chủ nghĩa.

Sự thay đổi về kinh tế, biến đổi về giáo dục, văn hóa… đã trở thành tiền đề để xuất hiện các giai cấp công nhân, tư sản, tầng lớp trí thức tiểu tư sản trong xã hội Việt Nam. Do bị thực dân Pháp áp bức bóc lột, mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn dân tộc ngày càng sâu sắc đã tạo nên sự chuyển biến tư tưởng để hình thành nên các tổ chức, phong trào yêu nước và cách mạng trong nửa đầu thế kỷ XX.

Nội dung cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của Pháp tại Việt Nam? Đánh giá cuộc khai thác thuộc địa lần I tới Việt Nam?

Cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX thực dân pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, trong đó có Việt Nam. Cuộc khai thác này đã gây ra những chuyển biến và tác động tới kinh tế, chính trị và xã hội ở Việt Nam rất lớn. Vậy nội dung và chuyển biến của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của Pháp tại Việt Nam ra sao? Hãy theo dõi ngay dưới đây nhé.

Tư vấn pháp luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài: 1900.6568

1. Nội dung cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của Pháp tại Việt Nam:

1.1. Tổ chức bộ máy Nhà nước:

Như chúng ta đã biết thì xã hội và kinh tế chuyen biến rất mạnh mẽ trong cuộc khai thác này, sau khi đàn áp xong những cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam, thực dân Pháp bắt tay vào khai thác thuộc địa lần thứ nhất [1897 – 1914]. Pháp thành lập Liên bang Đông Dương, đứng đầu là viên toàn quyền người Pháp.

– Tổ chức bộ máy nhà nước từ trên xuống do Pháp chi phối. Việt Nam bị chia làm 3 xứ với 3 chế độ cai trị khác nhau: Nam Kì [thuộc địa], Trung Kì [bảo hộ], Bắc Kì [nửa bảo hộ]. Xứ và các tỉnh đều do viên quan người Pháp cai trị.

– Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu, làng xã.

=> Nhìn chung bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương đều do thực dân Pháp chi phối nhằm tăng cường ách áp bức, kìm kẹp, để tiến hành khai thác Việt Nam, làm giàu cho tư bản Pháp.

* Nhận xét

– Chính sách của Pháp trong việc tổ chức bộ máy nhà nước vô cùng chặt chẽ, với tay xuống tận nông thôn.

– Kết hợp giữa thực dân và phong kiến cai trị.

1.2. Chính sách kinh tế để phục vụ khai thác thuộc địa lần thứ nhất:

– Nông nghiệp:

+ Đẩy mạnh cướp đoạt ruộng đất. Ở Bắc Kì đến năm 1902, có tới 182.000 hécta ruộng đất bị Pháp chiếm.

Năm 1897, Pháp ép triều Nguyễn kí điều ước “nhượng” quyền “khai khẩn đất hoang” cho chúng. Năm 1915, địa chủ người Pháp chiếm 470 000 ha để lập đồn điền ở Bắc và Trung Kì.

+ Phát canh thu tô.

– Công nghiệp: khai thác mỏ than và kim loại để xuất khẩu, đầu tư công nghiệp nhẹ như: sản xuất xi măng, gạch ngói, xay xát gạo, giấy, diêm…

– Giao thông vận tải: xây dựng hệ thống đường giao thông để tăng cường bóc lột và đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân

– Thương nghiệp: độc chiếm thị trường Việt Nam, đánh thuế nặng vào hàng hóa nước ngoài, trong khi đó hàng hóa Pháp bị đánh thuế rất nhẹ hoặc được miễn thuế.

– Pháp lại tăng thêm các loại thuế, thuế mới chồng thuế cũ, đặc biệt là thuế rượu, muối, thuốc phiện.

– Tác động tiêu cực:

+ Tài nguyên vơi cạn.

+ Nông nghiệp dẫm chân tại chỗ, không có sự phát triển.

+ Công nghiệp phát triển nhỏ giọt, thiếu hẳn công nghiệp nặng.

+ Việt Nam trở thành thị trường cung cấp nguyên – nhiên liệu và thị trường độc chiếm của Pháp.

– Tác động tích cực:

+ Phương thức sản xuất TBCN bước đầu được du nhập vào Việt Nam, nó mang lại nhiều tiến bộ hơn so với phương thức sản xuất phong kiến ⇒ đưa tới sự chuyển biến cơ bản về bộ mặt kinh tế tại một số khu vực [ví dụ: Hà Nội, Sài Gòn,…].

1.3. Chính sách văn hoá, giáo dục để phục vụ khai thác thuộc địa lần thứ nhất:

–  Duy trì nền giáo dục phong kiến.

–  Mở một số trường học và cơ sở y tế, văn hoá, đưa tiếng Pháp vào chương trình học bắt buộc ở bậc Trung học.

=> Những chính sách của thực dân Pháp đã tạo ra tầng lớp tay sai, kìm hãm nhân dân.

1.4. Những chuyển biến về xã hội thời kỳ pháp khai thác thuộc địa lần thứ nhất:

– Giai cấp địa chủ phong kiến: Từ lâu đã đầu hàng, làm tay sai cho thực dân Pháp. Tuy nhiên, có một bộ phận nhỏ có tinh thần yêu nước.

– Giai cấp nông dân: số lượng đông đảo nhất, họ bị áp bức bóc lột nặng nề, cuộc sống của họ khổ cực, nông dân sẵn sàng hưởng ứng, tham gia cuộc đấu tranh giành được độc lập và ấm no.

– Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX xuất hiện nhiều đô thị mới: Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn – Chợ Lớn…

– Tầng lớp tư sản: Là các nhà thầu khoán, chủ xí nghiệp, xưởng thủ công, chủ hãng buôn bán… bị chính quyền thực dân kìm hãm, tư bản Pháp chèn ép.

– Tiểu tư sản thành thị: Là chủ các xưởng thủ công nhỏ, cơ sở buôn bán nhỏ, viên chức cấp thấp và những người làm nghề tự do.

– Công nhân: Xuất thân từ nông dân, làm việc ở đồn điền, hầm mỏ, nhà máy, xí nghiệp, lương thấp nên đời sống khổ cực, có tinh thần đấu tranh mạnh mẽ chống bọn chủ để cải thiện điều kiện làm việc và đời sống.

=> Từ một nước phong kiến, Việt Nam trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến. Hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam: Nông dân với phong kiến; dân tộc ta với thực dân Pháp, ngày càng sâu sắc.

Trong bối cảnh đó đã xuất hiện xu hướng mới trong cuộc vận động giải phóng dân tộc.

2. Đánh giá cuộc khai thác thuộc địa lần I tới Việt Nam:

– Sau khi đã bình định được cơ bản Việt Nam, năm 1897, thực dân Pháp cử Pôn Đu-me sang làm Toàn quyền Đông Dương để hoàn thiện bộ máy thống trị và tiến hành công cuộc khai thác thuộc địa lần thức nhất lên các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam [1897 – 1914].

– Trong thời điểm đó, thực dân Pháp bắt đầu việc áp đặt một bộ máy cai trị tuyệt đối lên cả ba nước Đông Dương, đứng đầu là Toàn quyền Đông Dương, chúng chia Đông Dương thành 5 kỳ với sự quản lý của người Pháp với Bắc Kỳ [Thống sứ], Trung Kỳ [Khâm sứ], Nam Kỳ [Thống Đốc], Lào [Khâm sứ], Campuchia [Khâm sứ], dưới bộ máy chính quyền cấp kỳ là Bộ máy chính quyền cấp tỉnh [do người Pháp cai quản], dưới bộ máy chính quyền cấp tỉnh là Bộ máy chính quyền cấp phủ, huyện, châu, rồi đến làng, xã [bản xứ].

Sở dĩ năm 1897 là thời điểm mà thực dân Pháp chọn để bắt đầu công cuộc khai thác thuộc địa ở Đông Dương là vì cuối thế kỷ XIX thực dân Pháp mới dập tắt được các cuộc khởi nghĩa vũ trang của nhân dân Việt Nam căn bản hoàn thành công cuộc bình định Việt Nam bằng quân sự và đặt xong bộ máy thống trị tại Việt Nam. Thực dân Pháp đã có thời kỳ tạm thời hòa bình sau hàng chục năm chiến tranh, chúng đã yên tâm bước bước vào khai thác thuộc địa ở Đông Dương. Do đó, sự thất bại của phong trào Cần Vương vào năm 1896 đã đưa phong trào khởi nghĩa của nhân dân ta đi vào bế tắc, từ đó tạo điều kiện cho Pháp làm chủ Việt Nam, biến Đông Dương nói chung và cả Việt Nam nói riêng thành thuộc địa của mình.

Có thể nói chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của Pháp có ảnh hưởng rất nhiều tới xã hội Việt Nam thời bấy giờ. Bên cạnh những tác động tiêu cực thì nó cũng có những tác động tích cực như:

Tác động tiêu cực

+ Nguồn tài nguyên bị vơi cạn và thất thoát nhiều

+ Nền nông nghiệp không có sự phát triển, bị dậm chân tại chỗ

+ Thiếu hẳn công nghiệp phát triển nặng, còn những ngành công nghiệp khác phát triển nhỏ giọt

+ Việt Nam trở thành thị trường chuyên cung cấp nhiên – nguyên liệu và thị trường độc chiếm của thực dân Pháp.

Tác động tích cực

Phương thức sản xuất Tư bản Chủ nghĩa đã bước đầu du nhập vào Việt Nam. Điều này đem lại nhiều phương pháp tiến bộ, khoa học hơn so với phương thức phong kiến. Từ đó đưa tới sự chuyển biến cơ bản về bộ mặt kinh tế tại một số khu vực như Sài Gòn, Hà Nội,…

Như vậy, căn cứ dựa trên các sự kiện và thông tin chúng tôi đưa ra như trên ta thấy ở cuộc khai thác này thì pháp cần phải đàn áp được những phong trào đấu tranh vũ trang của ta vào cuối thế kỉ thứ XIX đầu thế kỉ XX, hoàn thành công cuộc bình định Việt Nam bằng quân sự và đặt xong bộ máy cai trị tại Việt Nam thì thực dân Pháp mới bắt đầu tiến hành công cuộc khai thác thuộc địa của mình. Nếu như Pháp thực hiện luôn công cuộc khai thác thuộc địa sau khi đánh chiếm thành công nước ta thì có thể công cuộc khai thác sẽ không đạt được mục đích.

Không có một bộ máy cai trị với những chính sách bịp bợm, liệu Pháp có thể dễ dàng trấn áp quần chúng? Không thể bình định được những cuộc khởi nghĩa, thì liệu Pháp có đủ lực lượng và của cải để có thể tiến hành công cuộc khai thác của mình? Tất nhiên là không. Một nước tư bản thực dân như Pháp sẽ nhìn rõ những điểm mình cần làm trước khi thực hiện công cuộc khai thác của mình. Mặc dù mang lại những cải cách to lớn về nhiều mặt, song vẫn có những tồn tại mặt hại song song mặt lợi trong thời kì Pháp thuộc. Mặc dù vậy, công cuộc khai thác này chỉ tiến hành được 7 năm thì phải dừng lại vì chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ ở Châu Âu.

Trên đây là thông tin do chúng tôi cung cấp với nội dung ” Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của Pháp tại Việt Nam” và các thông tin khác có liên quan tới vấn đề này. Hi vọng sẽ hữu ích đối với bạn đọc nhất nhé.

Video liên quan

Chủ Đề