Giáo trình đánh giá nhân cách nguyễn đức sơn pdf

Giáo trình TLH XH - Th.S Vũ Mộng Đóacái này đăng để premium thôi nhadsdsdsdsdsdsdsdwq9u9ernj vjbskgsmbvhuuirhiuqwgkjkwfbejcbsvuiwhiuefhiwewfgwugruwbfbsbf duwaihf aufafj à iiwr mnfkfifhisjfjk a0irpqoir

  • XHH NHẬP MÔN - TRẦN HỮU Quang
  • [123doc] - tim-hieu-tuong-tac-bieu-tuong-pptcái này đăng để premium thôi nhadsdsdsdsdsdsdsdwq9u9ernj vjbskgsmbvhuuirhiuqwgkjkwfbejcbsvuiwhiuefhiwewfgwugruwbfbsbf duwaihf aufafj à iiwr mnfkfifhisjfjk a
  • GT học phần Chủ nghĩa xã hội khoa học [K] Tr 67 -Tr144
  • GT học phần Kinh tế chính trị MNL[K] Tr đầu- Tr100

Preview text

TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI

TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI

Tác giả: TRẦN QUỐC THÀNH - NGUYỄN ĐỨC SƠN

LỜI NÓI ĐẦU

Tâm lý học xã hội là một ngành của Tâm lý học và mang đậm hơi thở của đời sống xã hội. Lịch sử Tâm lý học xã hội cho thấy, những vấn đề nổi bật của các giai đoạn xã hội lịch sử đều được phản ánh trong Tâm lý học xã hội ở các mức độ khác nhau. Không ít những vấn đề mang tính cấp thiết của xã hội được tiến hành nghiên cứu trong Tâm lý học xã hội ngay từ khi chúng bắt đầu xuất hiện. Những nghiên cứu về phong cách lãnh đạo và công bằng xã hội những năm 1930 - 1940; về sự a dua vào những năm 1950, về sự xâm kích những năm 1960; về giới tính, về dân tộc những năm 1960 - 1970; về chủng tộc những năm 1980 và về những vấn đề Tâm lý xã hội xuyên văn hóa vào những năm 1990 đến nay là sự phản ánh sắc nét những diễn biến và sự kiện lịch sử xã hội. Đồng thời với tính thời sự, những vấn đề mang tính cơ bản và ổn định của Tâm lý học xã hội như vấn đề nguồn gốc của các hành vi xã hội, các quy luật và các cơ chế của sự hình thành các hiện tượng tâm lý xã hội, bản thân các hiện tượng tâm lý xã hội với các đặc điểm và diễn biến của nó ngày càng được quan tâm. Như một quy luật, xã hội ngày càng phát triển, nhận thức của con người ngày càng được mở rộng và nâng cao thì nhu cầu tìm hiểu bản chất của các quá trình xã hội mà con người tham gia vừa là chủ thể và khách thể càng lớn. Chính vì những lý do như vậy mà sự quan tâm đến Tâm lý học xã hội ngày càng nhiều hơn.

Đối với những người làm công tác giảng dạy, việc tiếp cận những vấn đề của Tâm lý học xã hội là hết sức có ý nghĩa. Bởi vì, dù là có ý thức hay không có ý thức, công việc của họ gắn liền với các hiện tượng tâm lý xã hội, chịu sự chi phối của các quy luật tâm lý xã hội. Hơn nữa, nhiều khi chính người làm công tác giảng dạy lại phải chủ động để tạo ra một số hiện tượng

tâm lý xã hội trong công việc của mình như làm việc với nhóm sinh viên, đồng nghiệp hay phải đối diện với các hiện tượng tâm lý xã hội cần giải quyết như dư luận xã hội, bầu không khí tập thể...

Tuy vậy, đây là công việc khó khăn vì chính sự đa dạng và da chiều của các hiện tượng tâm lý xã hội không cho phép có được các khái quát khoa học dễ dàng. Bên cạnh đó, việc thiếu vắng các nghiên cứu trong lĩnh vực này ở Việt Nam, cũng như sự non trẻ của bộ môn khoa học này ở nước ta chắc chắn làm cho việc biên soạn khó đáp ứng được đòi hỏi của người đọc. Tài liệu khó tránh khỏi những khiếm khuyết và hạn chế. Vì vậy, các tác giả rất mong được sự đóng góp ý kiến để có thể chỉnh sửa, bổ sung giúp tài liệu trở nên có ích và đầy đủ hơn.

Các tác giả

Chương 1. TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI LÀ MỘT KHOA HỌC

Nội dung cơ bản:

  • Bản chất của các hiện tượng tâm lý xã hội: hiện tượng tâm lý xã hội, bản chất, chức năng, phân biệt các hiện tượng tâm lý xã hội với các hiện tượng xã hội;
  • Đối tượng, nhiệm vụ của Tâm lý học xã hội: các quan điểm về đối tượng của Tâm lý học xã hội, đối tượng của Tâm lý học xã hội, nhiệm vụ của Tâm lý học xã hội; Lịch sử hình thành của Tâm lý học xã hội: các tiền đề cho sự ra đời của Tâm lý học xã hội, Tâm lý học xã hội ra đời như là khoa học độc lập, các hình thái đầu tiên của Tâm lý học xã hội; Tâm lý học xã hội trong hệ thống các khoa học: quan hệ của Tâm lý học xã hội với các khoa học khác;
  • Phương pháp nghiên cứu của Tâm lý học xã hội.

I. BẢN CHẤT CỦA CÁC HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ XÃ HỘI

1. Các hiện tượng tâm lý xã hội là gì? Khi nói tới đời sống tâm lý của con người, người ta thường đề cập đến các hiện tượng xúc cảm, tình cảm, đến các quá trình nhận thức như tư duy,

các cá nhân khác ra sao, các mối quan hệ như quan hệ liên nhân cách, sự hấp dẫn lẫn nhau và sự xung đột diễn ra như thế nào trong các nhóm... Các hiện tượng tâm lý xã hội đó diễn ra không phải một cách ngẫu nhiên mà theo các quy luật nhất định. Tâm lý học xã hội chịu trách nhiệm phát hiện các quy luật chi phối hành vi và hoạt động của con người khi con người tham gia vào nhóm xã hội cũng như các đặc trưng tâm lý của chính các nhóm xã hội đó.

Như vậy, Tâm lý học xã hội nghiên cứu các quy luật và cơ chế của các hiện tượng tâm lý xã hội nảy sinh trong các tương tác xã hội.

2. Bản chất và chức năng của các hiện tượng Tâm lý xã hội Trước khi đề cập đến bản chất của hiện tượng tâm lý xã hội, điều đầu tiên chúng ta phải khẳng định rằng: cá nhân không tồn tại tự nó, tách rời với những cá nhân khác. Cá nhân tồn tại phát triển trong các mối quan hệ xã hội và chính vì thế mỗi cá nhân là “tổng hòa của các mối quan hệ xã hội” [C. Mác]. Tham gia vào hệ thống các mối quan hệ xã hội khác nhau tức là cá nhân tham gia vào các nhóm xã hội. Các nhóm đó hiện diện mọi nơi và chính là môi trường xã hội của cá nhân. Đó có thể là gia đình - một dạng nhóm đặc biệt, lớp học, cơ quan, bạn bè... Tâm lý học xã hội gọi chung đó là các nhóm xã hội. Hoạt động trong các nhóm xã hội đó cá nhân tác động đến các cá nhân khác đồng thời chịu sự tác động của các cá nhân khác. Sự tác động qua lại đó ảnh hưởng đến hành vi cá nhân và làm nảy sinh những hiện tượng tâm lý chung. Đó là các hiện tượng tâm lý nhóm, rộng hơn gọi là các hiện tượng tâm lý xã hội. Nói như vậy để thấy rằng các hiện tượng tâm lý xã hội nảy sinh trong môi trường xã hội, trong sự tác động qua lại giữa các thành viên. Do vậy bản chất của các hiện tượng tâm lý xã hội phải gắn liền với sự tác động qua lại này.

Từ những phân tích trên có thể thấy rằng tâm lý xã hội là những hiện tượng tâm lý chung của một nhóm xã hội cụ thể nảy sinh trong quá trình tác động qua lại, giao tiếp và hoạt động cùng nhau của các cá nhân trong nhóm. Các hiện tượng tâm lý xã hội đó điều chỉnh, điều khiển hoạt động cùng nhau của các thành viên và của nhóm xã hội. Mặt khác cũng phải thấy rằng các

hiện tượng tâm lý xã hội có quan hệ đặc biệt và khó có thể tách rời với các hiện tượng tâm lý cá nhân. Các hiện tượng tâm lý xã hội không tồn tại lơ lửng đâu đó ngoài cá nhân mà chúng hiện diện ở cá nhân, thúc đẩy cá nhân hành động, ví dụ sự a dua, sự hoảng loạn, các trào lưu, thị hiếu... Việc nhận biết các hiện tượng tâm lý xã hội cũng chỉ có thể diễn ra trên cơ sở của nhiều cá nhân. Tuy vậy các hiện tượng tâm lý đó không hoàn toàn là các hiện tượng tâm lý cá nhân có thể kiểm soát mà nó từ “bên ngoài” thâm nhập vào cá nhân, vừa được biểu hiện với sắc thái của cá nhân vừa có tính tương đồng với các cá nhân khác trong cùng mối quan hệ tương tác. Có thể coi mối quan hệ giữa các hiện tượng tâm lý cá nhân và tâm lý xã hội là mối quan hệ giữa cái chung và riêng.

Các hiện tượng tâm lý xã hội hiện diện trong đời sống hàng ngày của chúng ta nhưng không phải lúc nào chúng cũng được nhận biết. Cá nhân có thể bị chi phối bởi các hiện tượng tâm lý xã hội một cách vô thức hay có ý thức. Học tập, rèn luyện để phát huy truyền thống đó là hành động có ý thức, nhưng bắt chước hành vi của người khác, theo trào lưu nhiều khi lại là vô thức. Bị ảnh hưởng của định kiến xã hội trong khi nhìn nhận đánh giá người khác, dân tộc khác mà nhiều khi cá nhân không nhận biết, trong khi hoàn toàn có ý thức thuyết phục người khác làm theo điều mình mong muốn. Nói cách khác, các hiện tượng tâm lý xã hội chi phối tâm lý của cá nhân và qua đó chi phối hoạt động sống của cá nhân.

Ở phạm vi lớn hơn, các hiện tượng tâm lý xã hội chi phối các mối quan hệ xã hội trong các nhóm, các cộng đồng hay các dân tộc và cả xã hội loài người. Từ sự thân thiện hay xung đột giữa các cá nhân trong một nhóm xã hội, từ sự định kiến hay đồng nhất hóa với một dân tộc hay một cộng đồng, cá nhân thiết lập quan hệ với các cá nhân khác, nhóm thiết lập quan hệ với nhóm khác. Chính vì vậy mà các nhà nghiên cứu tập trung nghiên cứu khía cạnh tâm lý xã hội của các tầng lớp, các dân tộc nhằm tạo ra các cơ sở cho việc thiết lập và vận hành các mối quan hệ giữa các nhóm đó một cách hiệu

phẩm sớm trong lịch sử của Tâm lý học xã hội đã khẳng định: Một góc nhìn quan trọng mà nhờ đó có thể xem xét tất cả các hiện tượng liên quan đến đời sống cùng nhau của con người đó là góc nhìn Tâm lý học.

Cũng cần thấy rằng các hiện tượng tâm lý xã hội có tính độc lập tương đối với các hiện tượng xã hội. Với tư cách là các hiện tượng thứ phát, các hiện tượng tâm lý xã hội có thể tồn tại lâu hơn và tương đối bền vững, trong khi các hiện tượng xã hội lại dễ thay đổi. Các hiện tượng tâm lý xã hội diễn ra trong cộng đồng lại có tác động điều chỉnh hành vi của các cá nhân trong cộng đồng đó và thông qua đó tác động ngược trở lại đến các hiện tượng xã hội.

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA TÂM LÝ HỌC XÃ

HỘI

1. Các quan điểm về đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học xã hội Giống như mọi khoa học. Tâm lý học xã hội cần phải xác định rõ đối tượng nghiên cứu của mình. Cũng không phải là ngoại lệ, khi trong lịch sử phát triển của Tâm lý học xã hội, vấn đề đối tượng của khoa học này đã là vấn đề của nhiều cuộc tranh luận. Vấn đề xác định đối tượng của Tâm lý học xã hội lại càng trở nên khó khăn hơn bởi tính chất giao thoa và sự đa dạng của các vấn đề mà nó nghiên cứu. Có thể điểm qua những quan điểm khác nhau về đối tượng của Tâm lý học xã hội như sau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng, Tâm lý học xã hội phải nghiên cứu các hiện tượng tâm lý đám đông như tâm lý tầng lớp, cộng đồng xã hội, bao gồm: truyền thống đạo đức, tập quán; nghiên cứu các tập thể, các quan điểm xã hội. Những nghiên cứu sớm trong lịch sử Tâm lý học xã hội đều tập trung vào đối tượng đám đông. Các tác phẩm của G về tâm lý dân tộc, của G về tâm lý đám đông là minh họa cho quan điểm này.

Quan điểm thứ hai cho rằng, Tâm lý học xã hội phải nghiên cứu nhân cách: đặc điểm loại hình, vị trí, các mối quan hệ liên nhân cách trong đời sống xã hội. Quan điểm này xuất phát từ nghiên cứu nhân cách, đặt các nhân cách

trong mối quan hệ liên nhân cách. Cơ sở lý luận của nó chính là bản chất xã hội và giá trị xã hội của nhân cách.

Quan điểm thứ ba: nghiên cứu cả các quá trình tâm lý đại chúng, cả vị trí của cá nhân trong nhóm; những thay đổi hoạt động tâm lý của cá nhân trong nhóm do ảnh hưởng của sự tác động qua lại, các đặc điểm nhóm, các khía cạnh tâm lý của các quá trình xã hội. Các nhà tâm lý học xã hội theo quan điểm này tập trung vào việc nghiên cứu suy nghĩ, hành vi xã hội của cá nhân, tri giác xã hội, sự ảnh hưởng xã hội đối với các cá nhân.

2. Đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học xã hội Các quan điểm nêu trên cho thấy: đối tượng của Tâm lý học xã hội là rất rộng và phải xác định từ hai phía - cá nhân và nhóm xã hội. Từ đó, ngày nay một cách phổ biến, đối tượng của Tâm lý học xã hội được xác định như sau:

  • Các hiện tượng tâm lý chung của nhóm xã hội cụ thể nảy sinh trong quá trình giao tiếp và tác động qua lại giữa các cá nhân.
  • Cái chung, đặc trưng, cái bản chất trong tâm lý nhiều người trong các nhóm xã hội nhất định.
  • Những đặc trưng tâm lý cơ bản của các loại nhóm xã hội được tạo nên từ sự tác động qua lại.
  • Các quy luật nảy sinh hình thành, vận động và phát triển của các hiện tượng tâm lý xã hội và sự tác động qua lại.

Cách xác định như vậy cho phép bao quát một diện rộng các vấn đề mà Tâm lý học xã hội cần giải quyết. Đồng thời nó định hướng cho việc nghiên cứu các hiện tượng tâm lý không phải đơn thuần của cá nhân mà là các hiện tượng tâm lý nảy sinh trong đời sống xã hội của con người.

Từ cách xác định như vậy, trong quá trình phát triển của Tâm lý học xã hội, hàng loạt các phân ngành ra đời và tập trung sâu hơn vào các vấn đề trong từng lĩnh vực cụ thể như tâm lý học tôn giáo, tâm lý học dân tộc, tâm lý học giới tính...

tâm lý tộc người, tôn giáo, xuất hiện những khó khăn nhất định về phương pháp nghiên cứu.

  • Nghiên cứu thực tiễn: Có thể nói những vấn đề thực tiễn ngày càng được đặt ra hết sức đa dạng trước Tâm lý học xã hội và các chuyên ngành hẹp của nó. Việc ứng dụng các quy luật chung của Tâm lý học xã hội vào các lĩnh vực hẹp hơn trong đời sống xã hội liên tục làm nảy sinh các chuyên ngành mới với các vấn đề nóng hổi và phức tạp. Tâm lý học dân tộc đang rất được chú ý trong quá trình hội nhập và toàn cầu hóa với các vấn đề thực tiễn cần giải quyết: làm thế nào để gìn giữ bản sắc dân tộc, sự đồng nhất về văn hóa và tâm lý dân tộc có vai trò thế nào trong quá trình hội nhập? Tâm lý học tôn giáo với các vấn đề về niềm tin tôn giáo, tình cảm tôn giáo trong thời kì có sự tác động qua lại mạnh mẽ của các tôn giáo khác nhau sẽ như thế nào? Tâm lý học giới tính lại đối đầu với các vấn đề nóng bỏng: đâu là nguyên nhân tâm lý xã hội của các hiện tượng đồng giới? Hệ quả của các phong trào đồng giới đối với đời sống xã hội nói chung? Đặc trưng tâm lý xã hội của các nhóm đồng giới?... Cũng như vậy, Tâm lý học quản lý, Tâm lý học tổ chức và công nghiệp cũng đang đứng trước các vấn đề thực tiễn hết sức cấp bách. Việc giải quyết các vấn đề thực tiễn vừa là một nhiệm vụ xã hội đặc ra với Tâm lý học xã hội nói chung và các chuyên ngành của nó nói riêng vừa là nhiệm vụ bên ngoài, vừa là sự thúc đẩy bên trong của chính Tâm lý học xã hội. Giải quyết được các nhiệm vụ đó sẽ tạo ra sự phát triển cho chính Tâm lý học xã hội và khẳng định vị trí của Tâm lý học xã hội trong hệ thống các khoa học và trong đời sống xã hội.

III. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI

1. Các tiền đề cho sự ra đời của Tâm lý học xã hội Việc chỉ ra những dấu mốc cơ bản trong lịch sử của Tâm lý học xã hội nhằm tới hai mục đích. Thứ nhất, người nghiên cứu có được bức tranh chung về tiến trình ra đời và phát triển của Tâm lý học xã hội với tư cách là một ngành khoa học. Thứ hai, quan trọng hơn, nó giúp chỉ ra được bản chất của

Tâm lý học xã hội, về các vấn đề Tâm lý học xã hội giải quyết, về sự phát triển trong các quan niệm về đối tượng của Tâm lý học xã hội.

Cũng giống như nhiều bộ môn khoa học khác, các tư tưởng riêng lẻ đề cập đến các hiện tượng tâm lý xã hội đã xuất hiện từ thời kì cổ đại, dưới hình thức chung nhất là các tư tưởng và các học thuyết triết học. Nguồn gốc của các tư tưởng đó chính là các hiện tượng tâm lý xã hội trong cuộc sống có thể được quan sát thấy như: sự cuồng loạn hay hoảng loạn của đám đông, sự thăng hoa trong các lễ tế thần, sự a dua theo các ý tưởng của đa số, sự tôn sùng của các cộng đồng đối với thủ lĩnh, với tô tem... Tất cả các hiện tượng tâm lý xã hội đó trong cuộc sống đã đặt các nhà triết học, các nhà tư tưởng trước những câu hỏi lớn: Điều gì thúc đẩy con người cùng tiến hành các hành động như vậy? Cái gì chi phối hành vi của một nhóm, một cộng đồng người? Trả lời các câu hỏi đó, các nhà triết học đã đưa ra những ý tưởng đầu tiên về các hiện tượng tâm lý xã hội. Rất nhiều nhà nghiên cứu đều nhìn thấy sự tồn tại của các tư tưởng Tâm lý học xã hội trong lòng các lý thuyết triết học cổ đại. Các ý tưởng về “tâm lý dân tộc” - sự khác biệt trong tâm lý của dân tộc này với dân tộc khác, các “bản năng đám đông” có thể tìm thấy trong các công trình của Arixtốt hay Platon. G cho rằng người đặt nền móng cho các vấn đề của Tâm lý học xã hội là Platon. Nói cách khác, các mầm mống của Tâm lý học xã hội đã được gieo từ thời kì cổ đại, trên chính mảnh đất là cuộc sống xã hội của con người.

Xã hội ngày càng phát triển hơn, các vấn đề liên quan đến mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, việc điều chỉnh hành vi xã hội cùng ngày càng trở nên cần thiết hơn. Cùng với sự đòi hỏi ngày càng cao, càng mang tính cấp thiết của xã hội và sự phát triển của các khoa học khác nhau, Tâm lý học xã hội trở thành một khoa học độc lập.

2. Tâm lý học xã hội trở thành một khoa học độc lập Theo quan điểm của Anđrêeva, khi xem xét vấn đề tâm lý học trở thành một khoa học độc lập như thế nào cần phải chú ý đến ba yếu tố: 1] Các yêu cầu đối với việc giải quyết các vấn đề Tâm lý học xã hội, xuất hiện trong các

đặc trưng của các dạng tác động qua lại lẫn nhau của con người, các ảnh hưởng lẫn nhau của chúng... Bên cạnh đó cũng phát hiện ra sự phụ thuộc trong việc điều chỉnh tâm lý và hành vi cá nhân vào các tác động điều khiển từ phía người khác. Tức là sự điều chỉnh từ phía xã hội. Nói cách khác, một cách tự nhiên, xuất hiện các vấn đề liên quan đến Tâm lý học xã hội ngay trong lòng Tâm lý học.

Các tri thức tâm lý - xã hội trong lòng lĩnh vực Xã hội học cũng dần được hình thành, nhưng theo một cách hoàn toàn khác. Gần như ngay từ thời gian đầu tồn tại của mình [giữa thế kỉ XIX] Xã hội học đi tìm kiếm các giải thích cho một loạt những sự kiện xã hội bằng các quy luật từ những lĩnh vực tri thức khác. Ví dụ Spencer vận dụng các quy luật sinh học để giải thích xã hội trong trường phái hữu sinh: quy luật đấu tranh sinh tồn hay tiến hóa xã hội. Song việc quy giản sinh học không thể lý giải đúng đắn các quá trình xã hội và không thể giải thích được bản chất của các quá trình xã hội đã buộc các nhà nghiên cứu phải tìm kiếm các quy luật của Tâm lý học để giải thích cho các quá trình xã hội. Nguồn gốc của các hiện tượng xã hội được cho là nằm trong tâm lý của con người. Khía cạnh tâm lý trong mỗi hiện tượng xã hội trở thành sự quyết định về mặt tâm lý đối với các hiện tượng xã hội. Ví dụ, theo quan điểm nhà xã hội học người Pháp G thì các sự kiện xã hội cơ bản bao hàm không phải trong phạm vi một bộ óc, mà trong sự tiếp xúc của một vài bộ óc, là đối tượng tâm lý học “liên trí óc” phải nghiên cứu. Mô hình tổng thể của một sự kiện xã hội được vẽ ra như là mối tương quan của hai cá nhân, trong đó một người bắt chước người khác.

Như vậy, trong quá trình phát triển của hai bộ môn khoa học: Tâm lý học và Xã hội học, hiện rõ sự dịch chuyển theo chiều gặp nhau kết thúc bằng việc hình thành các vấn đề đã trở thành đối tượng của một bộ môn khoa học mới.

3. Các hình thái lịch sử đầu tiên của tri thức Tâm lý học xã hội Từ những thúc đẩy trực tiếp nêu trên, sự ra đời của Tâm lý học xã hội trở thành hiện thực vào giữa thế kỉ XIX. Các hình thái đầu tiên của riêng tri

thức tâm lý - xã hội được khai sinh. Những hình thức đầu tiên này chủ yếu là các lý thuyết trừu tượng, mang tính mô tả mà chưa dựa trên các nghiên cứu thực tế. Tuy vậy chúng đã tạo ra hình hài của một bộ môn khoa học mới. Từ tất cả sự da dạng của những lý thuyết Tâm lý học xã hội đầu tiên thường người ta chọn ra ba lý thuyết đáng kể nhất: tâm lý học dân tộc, tâm lý học đám đông và lý thuyết bản năng của hành vi xã hội.

Tâm lý học dân tộc như là một trong các dạng đầu tiên của các lý thuyết tâm lý học xã hội được hình thành vào giữa thế kỉ XIX tại nước Đức. Những người trực tiếp sáng lập nên tâm lý học các dân tộc là nhà triết học M [1824 - 1903] và nhà ngôn ngữ học G [1823 - 1893]. Vào năm 1859 tạp chí Tâm lý học các dân tộc và ngôn ngữ được ra mắt và đăng bài báo “Bàn về tâm lý học các dân tộc”. Nhiệm vụ của Tâm lý học xã hội là “nhận biết về mặt tâm lý bản chất của tinh thần dân tộc, phát hiện các quy luật diễn ra các hoạt động tinh thần của dân tộc”. Sau đó các tư tưởng tâm lý học dân tộc được phát triển trong các quan điểm của V [1852 - 1920]. Lần đầu tiên Wundt xây dựng lập trường của mình vào năm 1863 trong “Các bài giảng về tâm hồn con người và động vật”. Tư tưởng được phát triển chủ yếu vào năm 1900 trong tập đầu tiên của bộ sách mười tập Tâm lý học các dân tộc. Wundt cho rằng Tâm lý học cần phải cấu thành từ hai phần: Tâm sinh lý học và Tâm lý học các dân tộc. Trong đó, Tâm lý học dân tộc cần phải áp dụng các phương pháp khác, đó chính là phân tích các sản phẩm văn hóa: ngôn ngữ, truyền thuyết, phong tục, nghệ thuật.

Các đại diện nổi bật khác của Tâm lý học xã hội thời kì đầu là G và G với lý thuyết về tâm lý học đám đông - một trong các lý thuyết tâm lý xã hội đầu tiên. Lý thuyết này được sinh ra tại Pháp trong nửa cuối của thế kỉ XIX. Các cội nguồn của nó xuất phát từ quan niệm về quy luật bắt chước của G [1843 - 1904]. Theo quan điểm của Tarde trong “Những quy luật của sự bắt chước”, hành vi xã hội không có lời giải thích nào khác ngoài việc sử dụng ý tưởng về sự bắt chước ông cho rằng Tâm lý học hàn lâm chính thống, định hướng thiên về trí tuệ, đã không thành công khi bỏ qua các thành phần

rất phiến diện, vì bản thân “đám đông”, hay “đại chúng” chỉ được mô tả trong một tình huống hành vi duy nhất của nó - tình huống hỗn loạn. Mặc dù quan niệm tâm lý học đám đông không có ý nghĩa quan trọng đối với số phận tương lai của Tâm lý học xã hội, nhưng dù sao thì các vấn đề được nghiên cứu trong khuôn khổ quan niệm này cũng đáng lưu ý, kể cả vào thời điểm ngày nay.

Quan niệm thứ ba, đứng vào hàng những công trình tâm lý - xã hội độc lập đầu tiên là lý thuyết bản năng của hành vi xã hội của nhà tâm lý học người Anh Mc [1871 - 1938], chuyển đến Mỹ vào năm 1920 và về sau làm việc ở đó. Công trình của Mc Nhập môn Tâm lý học xã hội ra đời vào năm 1908 và năm đó được coi là năm khẳng định cuối cùng của Tâm lý học xã hội như là một bộ môn tồn tại độc lập. Cũng trong năm đó ở Mỹ xuất bản cuốn sách của nhà xã hội học E Tâm lý học xã hội và như vậy, rất trùng hợp, khi cả nhà tâm lý học và nhà xã hội học trong cùng một năm xuất bản giáo trình hệ thống đầu tiên của cùng một bộ môn. Song, năm đó chỉ có thể rất tượng trưng được coi là khởi đầu của thời kì mới trong Tâm lý học xã hội vì ngay từ năm 1897 Jđuin đã đăng công trình Những nghiên cứu về Tâm lý học xã hội mà cũng có thể coi như cuốn sách chỉ dẫn hệ thống đầu tiên.

Luận điểm đầu tiên của lý thuyết Mc là các bản năng bẩm sinh được coi là nguyên nhân của hành vi xã hội. Tư tưởng này là hiện thực hóa nguyên tắc chung hơn: sự hướng tới mục đích là thuộc tính của cả loài vật và con người. Chính nguyên tắc này đặc biệt có ý nghĩa trong quan niệm của Mc, đối trọng với chủ nghĩa hành vi [giải thích hành vi như là phản xạ đơn giản với kích thích bên ngoài]. Ông cho là tâm lý “hướng đích” hay “hormic” [từ Hi Lạp horme - hướng tới, khát vọng, khí thế]. Các bản năng của mỗi người xuất hiện nhờ kết quả của một sự chuẩn bị tâm sinh lý nào đó - sự có mặt của các kênh nạp năng lượng thần kinh gắn theo di truyền. Các bản năng bao gồm các phần kích thích [dây thần kinh], trung tâm [xúc cảm] và li tâm [vận động]. Như vậy, tất cả những gì diễn ra trong phạm vi ý thức đều phụ thuộc trực tiếp vào sự khởi đầu vô thức. Thể hiện bên trong của bản

năng chủ yếu là các cảm xúc. Mối liên hệ giữa các bản năng và các cảm xúc mang tính chất hệ thống và được xác định. Mc đã liệt kê một số cặp bản năng và cảm xúc có liên quan với nhau: bản năng đấu tranh và tương ứng với nó là sự tức giận, sợ hãi; bản năng bỏ chạy và ý thức tự vệ; bản năng duy trì nòi giống và ghen tương; bản năng tìm kiếm và cảm giác sở hữu; bản năng xây dựng và cảm giác sáng tạo; bản năng bầy đàn và cảm giác thuộc một tổ chức nào đó. Từ các bản năng xuất phát tất cả các tổ chức xã hội: gia đình, buôn bán, các quá trình xã hội khác nhau mà trước hết là chiến tranh. Dù các tư tưởng của Mc rất phổ biến, chúng đóng vai trò tiêu cực trong lịch sử khoa học: việc diễn giải hành vi xã hội theo quan điểm của một sự hướng tới mục đích bột phát nào đó hơn thực hóa ý nghĩa của những ảnh hưởng phi lý, vô thức như là động lực không chỉ của cá nhân mà còn của cả loài người. Bởi vậy, cũng như trong Tâm lý học nói chung, vượt qua được các tư tưởng của lý thuyết bản năng là một mốc quan trọng sau này trong sự phát triển của Tâm lý học xã hội khoa học.

Những quan niệm đầu tiên của Tân lý học xã hội có những ý nghĩa nhất định. Trước hết, ý nghĩa tích cực của chúng là đã tách biệt và đặt ra rõ ràng các vấn đề thực sự quan trọng, cần phải giải quyết: về tương quan của ý thức cá nhân và ý thức của nhóm, về các động lực của hành vi xã hội... Các quan niệm tâm lý - xã hội đầu tiên hãy còn yếu bởi việc chúng không dựa trên thực tế nghiên cứu nào, chúng hoàn toàn không dựa trên các công trình nghiên cứu. Song điều cơ bản đã hoàn thành: Tâm lý học xã hội đã được tuyên bố như là một bộ môn khoa học độc lập có quyền tồn tại. Bây giờ nó cần phải tạo ra cơ sở thực nghiệm cho mình vì nói chung tâm lý học đến thời điểm này đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm sử dụng phương pháp thực nghiệm. Giai đoạn trưởng thành sau đó của Tâm lý học xã hội như là một bộ môn khoa học chỉ có thể là giai đoạn thực nghiệm trong lịch sử phát triển của nó.

IV. TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI TRONG HỆ THỐNG CÁC KHOA HỌC

1. Tâm lý học xã hội với Xã hội học và Tâm lý học

Khoa học tự nhiên, đặc biệt là khoa học Sinh lý thần kinh và Sinh học có vai trò to lớn đối với Tâm lý học xã hội. Nhiều nhà nghiên cứu Tâm lý học xã hội sử dụng các tri thức về hoạt động của hệ thần kinh nhằm lý giải các hiện tượng tâm lý đám đông như sự hoảng loạn, sự ám thị, sự lây lan xúc cảm, tình cảm, hay đi tìm các cơ chế hoạt động của não bộ để lý giải hiện tượng đồng cảm giữa con người với con người. Một loạt các lý thuyết của sinh học đã từng được sử dụng để giải thích các hiện tượng tâm lý xã hội như khái niệm “tâm lý bầy đàn”, “sự hấp dẫn bầy đàn”. Ngay cả việc nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội liên quan đến các nhóm giới tính: sự hấp dẫn giới tính, các hành vi của các giới khác nhau, cũng không hiếm khi các nhà nghiên cứu phải xuất phát từ các hiểu biết về cơ sở sinh học của chúng. Các kiến thức toán học cũng ngày càng được sử dụng rộng rãi hơn với hai xu hướng: dùng để mô hình hóa các hiện tượng tâm lý xã hội [mặc dù hướng này còn rất hạn chế] và hữu dụng hơn là xu hướng sử dụng các phép toán thống kê để phân tích sâu các hiện tượng tâm lý xã hội. Các phép tính tương quan, phân tích nhân tố, các kiểm định... được sử dụng rất phổ biến.

Với tư cách là khoa học về các quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy con người, triết học cung cấp các cơ sở phương pháp luận cho Tâm lý học xã hội. Từ việc lựa chọn đối tượng nghiên cứu, cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu đến việc phân tích, giải thích và khái quát kết quả nghiên cứu, các nhà Tâm lý học xã hội đều dựa trên lập trường triết học nhất định. Vấn đề đã và vẫn đang là trung tâm của các cuộc tranh luận liên quan đến vấn đề phương pháp luận là ảnh hưởng [tích cực hay tiêu cực] của việc một nhà Tâm lý học xã hội đứng trên một lập trường triết học nào đó để giải quyết một vấn đề tâm lý xã hội. Vấn đề này được gọi là vấn đề giá trị [tư tưởng] trong nghiên cứu Tâm lý học xã hội. Dù câu trả lời là thế nào đi nữa, không thể có nhà tâm lý học xã hội nào lại không đứng trên một lập trường triết học nhất định để giải quyết vấn đề tâm lý xã hội.

Để nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội, Tâm lý học xã hội sử dụng rất nhiều những thành tựu của các khoa học xã hội và nhân văn. Muốn chỉ ra

các đặc điểm tâm lý của nhóm lớn như dân tộc chẳng hạn, không thể thiếu các kiến thức của dân tộc học, lịch sử dân tộc, văn hóa học. Khá nhiều vấn đề mang tính giao thoa trong Tâm lý học xã hội và các khoa học xã hội nhân văn kể trên như vấn đề nhóm gia đình, vấn đề truyền thống của một cộng đồng hay vấn đề giới... Muốn làm rõ các hiện tượng tâm lý xã hội như dư luận xã hội, tâm trạng xã hội, không thể bỏ qua các vấn đề kinh tế học, chính trị học, quản trị học. Các khoa học xã hội nhân văn cung cấp các tư liệu đa dạng và nhiều chiều về con người trong các mối quan hệ xã hội khác nhau.

Ngược lại, các tri thức mà Tâm lý học xã hội phát hiện ra lại đóng vai trò quan trọng đối với các ngành khoa học xã hội và nhân văn khác. Chính việc ra đời của Tâm lý học xã hội là minh chứng cho sự cần thiết của nó trong việc giải quyết những vấn đề mà một số khoa học khác chưa giải quyết được một cách đầy đủ.

Tóm lại, Tâm lý học xã hội luôn bị đặt trước những đòi hỏi của đời sống xã hội trong việc giải quyết hàng loạt các vấn đề phức tạp và đa diện. Do vậy chỉ khi sử dụng các kiến thức của các khoa học khác có liên quan, Tâm lý học xã hội mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Đồng thời nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội, Tâm lý học xã hội cung cấp cho các khoa học khác những kiến thức để làm rõ hơn, đầy đủ hơn bản chất của các hiện tượng xã hội. Đây cũng chính là cơ sở của mối quan hệ ngày càng chặt chẽ giữa Tâm lý học xã hội và các khoa học khác.

V. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI

1. Các nguyên tắc phương pháp luận a] Nguyên tắc quyết định luận duy vật biện chứng Nguyên tắc này nhấn mạnh vai trò quyết định của các điều kiện vật chất, của các điều kiện thực tiễn đối với các hiện tượng tâm lý xã hội. Các hiện tượng tâm lý xã hội nảy sinh trên cơ sở của các điều kiện sống, điều kiện hoạt động của nhóm, của cộng đồng. Nguồn gốc của các hiện tượng tâm lý xã hội phải được tìm kiếm trong đời sống thực. Các hiện tượng tâm lý xã hội

Chủ Đề