Lãn ông là ai

Danh y Lê Hữu Trác, còn được biết tới với biệt hiệu Hải Thượng Lãn Ông, được mệnh danh là vị Đại danh y trong bầu trời y học Việt Nam. Những thành tựu của ông đã góp phần cho sự phát triển của nền y học Việt Nam. Dù trải qua hàng trăm năm vẫn vẹn nguyên giá trị và tính ứng dụng. Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn đọc hiểu thêm về cuộc đời, sự nghiệp và thành tựu của vị Đại danh y này.

Danh y Lê Hữu Trác còn được biết tới với đại danh Hải Thượng Lãn Ông

Danh y Lê Hữu Trác [1720 – 1791] là người con sinh ra và lớn lên tại mảnh đất Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, Tỉnh Hải Dương [nay thuộc tỉnh Hưng Yên, huyện Yên Mỹ]. Ông sinh nhằm ngày 12 tháng 11 năm 1720 [tức năm Canh Ngọ]. Theo nhiều tài liệu cổ ghi chép lại, ông có tên gọi khác là Lê Hữu Huân [theo “Hải Dương phong vật chí”] nhưng đến nay, người đời vẫn quen thuộc gọi ông với cái tên Hải Thượng Lãn Ông.

Nhiều người cho rằng, đại danh Hải Thượng Lãn Ông [có nghĩa là ông già lười ở Hải Thượng] là do sự kết hợp giữa hai chữ cái đầu tiên của tên tỉnh và tên phủ [Tỉnh Hải Dương, Phủ Thượng Hồng]. Cũng có tài liệu cho rằng, chữ “lười” ám chỉ sự chán ghét công danh, không màng mưu lợi, quyền chức của vị danh y này.

Tượng đài của Danh y tại Hoa viên Nghĩa trang Chánh Phú Hoà

Danh y Lê Hữu Trác là người con út trong gia đình có 7 anh em. Chính vì vậy, người trong gia đình thường gọi ông là Cậu Chiêu Bảy. Gia đình ông vốn nổi tiếng bởi truyền thống đỗ đạt khoa bảng, rất nhiều người làm quan to trong triều đình. Trong đó cả 6 người anh của ông đều thi đỗ khoa cử, tiến sĩ. Cha của ông là Lê Hữu Mưu, thuở trẻ đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ, được nhà vua phong chức Ngự sử, tước Bá. Chú là Lê Hữu Kiều cũng là Đại triều thần của nhà Lê.

Ngay từ nhỏ, Lê Hữu Trác đã bộc lộ tài năng thiên bẩm trong việc học hành, tinh thông sách sử nên được cha cho lên Kinh kỳ theo học. Tại đây ông nổi tiếng với trí tuệ hơn người thi đậu liền Tam trường. Ông còn cùng các bạn học lập hội “Thi xã” bên Hồ Tây để hằng ngày đối thơ, xướng họa. Tính cách ông hào sảng, thích giao du nên không chỉ được bạn đồng niên mà cả chúa Trịnh cũng hết lòng yêu quý. Tuy nhiên, không lâu sau đó vào năm ông 19 tuổi, cha ông mất [năm 1739] nên phải về nhà chịu tang, vừa lo kế nghiệp gia đình vừa lo hậu sự cho cha. 

Một năm sau đó [tức 1740], giữa thời buổi loạn lạc, Trịnh – Nguyễn – Tây Sơn tranh giành quyền lực, muôn dân lầm than, bạo loạn xảy ra khắp nơi ông đã quyết định gác lại sách vở, luyện tập võ thuật và binh thư, xung phong vào quân ngũ. Chỉ ít lâu sau, ông nhanh chóng nhận ra đây không phải là lẽ sống mà mình theo đuổi nên dù đã được đề bạt nhiều lần, ông kiên quyết từ chối. Cho tới năm 1746, sau khi người anh cả mất tại quê mẹ là huyện Hương Sơn, Nghệ An [nay là Hà Tĩnh] ông đã viện cớ xin rời khỏi quân ngũ về chăm mẹ già và các cháu nhỏ mồ côi.

Bước ngoặt của cuộc đời danh y Lê Hữu Trác xảy đến khi ông mắc trận ốm nặng. Dù đã được người nhà săn sóc và đưa đi chữa trị khắp nơi nhưng đến 2, 3 năm vẫn không có tiến triển. Sau đó có người mách, ông nhờ người đưa tới nơi của thầy thuốc tên Trần Độc ở xã Trung Cần, huyện Thanh Chương [nay là xã Nam Trung, Nam Đàn, Nghệ An]. Trần Độc vốn thi đỗ cử nhân, xong từ chối vinh hoa chốn quan trường để về quê chữa bệnh. Tiếng lành đồn xa nên ông được rất nhiều người trong vùng tín nhiệm.

Trong suốt 1 năm chữa bệnh tại đây, Lê Hữu Trác thường hay nghiên cứu sách y học “Phùng thị cẩm nang” của Trung Hoa. Với trí thông minh và khả năng hiểu sâu sắc vấn đề, ông nhanh chóng nắm bắt được chân lý trong sách và nhen nhóm đam mê học về y thuật. Trần Độc nhận thấy sự tinh thông và quyết tâm của ông, nên bày tỏ mong muốn truyền nghề.

Ở tuổi 30, danh y Lê Hữu Trác trở lại quê mẹ ở Hương Sơn, khước từ lời mời của chúa Trịnh quyết ở lại đây chuyên tâm chữa bệnh cứu người, lấy tên Hải Thượng Lãn Ông. Tuy nhiên tại đây neo người bầu bạn, lại không có nhiều thầy giỏi để ông học hỏi, Lê Hữu Trác quyết định lên kinh đô học tập, mong tìm kiếm thêm kiến thức y học mênh mông. 

Sau khoảng thời gian học tập, ông trở lại quê mẹ để chữa bệnh cứu người. Với tài năng học rộng, chẩn bệnh giỏi, bốc thuốc hay, lại không màng tới tiền tài danh lợi, ông đã chữa khỏi bệnh cho rất nhiều người dân. Có người bệnh nhiều năm không khỏi ông cũng chữa được. Chỉ qua một thập kỷ miệt mài cống hiến, tên tuổi của ông nhanh chóng vang danh khắp vùng Hương Sơn và đến tận kinh thành. 

Không dừng lại ở đó, Hải Thượng Lãn Ông còn mở thêm Hội y nhằm quy tụ các danh y từ khắp nơi đến để bầu bạn, tâm sự và chia sẻ kiến thức, học hỏi lẫn nhau. Ông cũng mở các lớp dạy y, đào tạo thế hệ thầy thuốc trẻ. Các lớp học của ông thu hút rất đông học viên tới theo học. Là một người thầy thuốc đồng thời cũng là một người thầy giáo, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác luôn căn dặn với học trò như với chính mình về nhân cách của người thầy thuốc chân chính. Trước hết, ông đề cao tính y đức, sau là tuân thủ 8 chữ “Nhân – Minh – Đức – Trí – Lượng – Thành – Khiêm – Cần” [nhân ái – sáng suốt – đức độ – tốt bụng – chân thành – khiêm tốn – cần cù]. Bên cạnh đó, đặc biệt tránh lười nhác, keo kiệt, vụ lợi, dối trá, ngu si, bất nhân, sân si, thất đức.

Năm 1782, khi đã 62 tuổi, ông nhận lệnh Chúa Trịnh hồi kinh chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Vốn được lòng Trịnh Sâm, ông bị không ít ngự y trong thành ghen ghét. Hải Thượng Lãn Ông vốn không hề nảy sinh thù ghét, chỉ cố gắng hoàn thành nhiệm vụ và mau chóng thoát khỏi chốn kinh thành. Tuy nhiên không lâu sau đó, Trịnh Sâm lâm bệnh, Trịnh Cán ốm yếu dai dẳng. Ông đành miễn cưỡng lên chữa bệnh. Dù đã được chữa khỏi nhưng do tuổi cao sức yếu, chỉ ít lâu sau Trịnh Sâm băng hà, con trai là Trịnh Cán lên kế vị. Nhân lúc triều đình đang có người tiến cử thái y mới, Hải Thượng Lãn Ông viện cớ tuổi già thoái lui về quê.

Trong suốt những năm làm thầy thuốc và đào tạo học trò, Danh y Lê Hữu Trác vẫn luôn mong muốn truyền lại y lý cho thế hệ sau thông qua những cuốn sách. Bộ “Hải Thượng Y tông tâm lĩnh” được ông dày công biên soạn, ghi chép và chắt lọc lại những chân lý ông đã lĩnh hội được từ các đại danh y đời trước và mất gần 10 năm [1760 – 1770] để hoàn thành. Đây là cuốn sách chứa đựng những gì tinh túy nhất trong sự nghiệp của người thầy thuốc vĩ đại này và là tài sản vô giá của nền y học Việt Nam. 

Bộ “Hải Thượng Y tông tâm lĩnh” được ông dày công biên soạn suốt hàng chục năm

Toàn bộ cuốn sách bao gồm 28 tập, 66 quyển về các chuyên ngành nội khoa, sản khoa, phụ khoa, da liễu, nhãn khoa. Đồng thời ông còn phê phán và chỉ ra những điểm không phù hợp khi áp dụng trong điều trị cho người Việt Nam. Trong gần 20 năm sau đó, ông vẫn tiếp tục biên soạn và cho ra đời nhiều tập sách quý giá nữa như “Y hải cầu nguyên” [1782], “Thượng kinh ký sự” [1783] trong đó phê phán nhiều thói quen xa hoa, những điều “mắt thấy tai nghe” khi ông lên kinh khám bệnh cho Thái tử, “Vận khí bí điển” [1786].

Hải Thượng Lãn Ông qua đời hưởng thọ 71 tuổi vào ngày 15 tháng 1 âm năm 1791. Để tưởng nhớ và tri ân công lao của ông, cứ vào ngày này hằng năm, người dân và người làm nghề y lại cùng nhau tề tựu tại Nhà tưởng niệm Đại danh y ở Liêu Xá dâng hương.

Dâng hương tưởng niệm danh y Lê Hữu Trác

Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác chính là người thầy vĩ đại truyền cảm hứng không nhỏ tới các thế hệ trong tương lai. Đồng thời để lại kho tàng y học vô giá, đặt nền móng quan trọng cho sự phát triển của y học nước nhà. Mong rằng qua bài viết trên đây, bạn đọc đã có thêm những hiểu biết về cuộc đời và sự nghiệp của vị Thánh Y này.

Hải Thượng Lãn Ông là vị danh y nổi tiếng, là người thầy y đức của nền y học Việt Nam. Không chỉ tinh thông y thuật, Lãn Ông còn là người học cao, hiểu biết sâu rộng về văn chương, dịch lý.

Cũng chính vì sự uyên bác ấy, ông được vinh danh là Danh nhân Việt Nam thế kỷ XVIII và nhận được sự kính trọng của đông đảo nhân dân.

Hải Thượng Lãn Ông là ai?

Danh y Lê Hữu Trác [1720 – 1791] là người con sinh ra và lớn lên tại mảnh đất Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, Tỉnh Hải Dương [nay thuộc tỉnh Hưng Yên, huyện Yên Mỹ]. Ông sinh nhằm ngày 12 tháng 11 năm 1720 [tức năm Canh Ngọ].

Theo nhiều tài liệu cổ ghi chép lại, ông có tên gọi khác là Lê Hữu Huân [theo “Hải Dương phong vật chí”] nhưng đến nay, người đời vẫn quen thuộc gọi ông với cái tên Hải Thượng Lãn Ông.

Nhiều người cho rằng, đại danh Hải Thượng Lãn Ông [có nghĩa là ông già lười ở Hải Thượng] là do sự kết hợp giữa hai chữ cái đầu tiên của tên tỉnh và tên phủ [Tỉnh Hải Dương, Phủ Thượng Hồng]. Cũng có tài liệu cho rằng, chữ “lười” ám chỉ sự chán ghét công danh, không màng mưu lợi, quyền chức của vị danh y này.

Danh y Lê Hữu Trác là người con út trong gia đình có 7 anh em. Chính vì vậy, người trong gia đình thường gọi ông là Cậu Chiêu Bảy.

Do dòng tộc vốn có truyền thống khoa bảng nên ngay từ nhỏ, Lê Hữu Trác đã sớm chăm chỉ đèn sách để kế nghiệp cha [ông Lê Hữu Mưu – Đệ tam giáp Tiến sĩ] và ông nội. Trong đó cả 6 người anh của ông đều thi đỗ khoa cử, tiến sĩ. Cha của ông là Lê Hữu Mưu, thuở trẻ đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ, được nhà vua phong chức Ngự sử, tước Bá. Chú là Lê Hữu Kiều cũng là Đại triều thần của nhà Lê.

Ngay từ nhỏ, Lê Hữu Trác đã bộc lộ tài năng thiên bẩm trong việc học hành, tinh thông sách sử nên được cha cho lên Kinh kỳ theo học. Tại đây ông nổi tiếng với trí tuệ hơn người thi đậu liền Tam trường. Ông còn cùng các bạn học lập hội “Thi xã” bên Hồ Tây để hằng ngày đối thơ, xướng họa. Tính cách ông hào sảng, thích giao du nên không chỉ được bạn đồng niên mà cả chúa Trịnh cũng hết lòng yêu quý.

Năm Kỷ Mùi 1739, khi đang giữ chức Ngự Sử tước Bá trong triều đình, cha Lê Hữu Trác qua đời. Lúc này, ông phải rời kinh thành để về quê nhà vừa chăm nom gia đình vừa đèn sách mong nối nghiệp cha, tiến thân bằng con đường quan lộ.

Nổi tiếng thông minh, được theo cha học từ sớm nên Lê Hữu Trác uyên bác ở nhiều lĩnh vực. Nhưng thế kỷ XVIII là giai đoạn xã hội vô cùng rối ren khi các cuộc khởi nghĩa nổ ra khắp nơi.

Một năm sau khi cha mất, Lãn Ông nghiên cứu binh thư, võ nghệ nhằm tòng quân. Ít lâu sau, Lê Hữu Trác nhận ra chiến tranh chỉ khiến con người thêm đau khổ, ông chán nản xuất ngũ trở về Hương Sơn với lý do chăm sóc mẹ già và cháu nhỏ và học nghề thuốc.

Trong suốt sự nghiệp chữa bệnh cứu người, Lê Hữu Trác luôn tận tụy, hết lòng vì người bệnh, không quản ngại nắng mưa. Vì vậy ông rất được nhân dân yêu quý, người đời kính trọng.

Sau nhiều năm cống hiến cho ngành y, Hải Thượng Lãn Ông qua đời năm 1791 tại Hà Tĩnh ở tuổi 71. Phần mộ của ông hiện ở khe nước cạnh chân núi Minh Từ huyện Hương Sơn.

Cơ duyên với nghề thuốc và sự nghiệp của Lê Hữu Trác

Sinh ra trong giai đoạn lịch sử đầy biến động, Hải Thượng Lãn Ông thấu hiểu nỗi cơ hàn của người dân khi vừa phải chịu nạn giặc, đói rét và bệnh tật.

Bước ngoặt của cuộc đời danh y Lê Hữu Trác xảy đến khi ông mắc trận ốm nặng. Dù đã được người nhà săn sóc và đưa đi chữa trị khắp nơi nhưng đến 2, 3 năm vẫn không có tiến triển. Sau đó có người mách, ông nhờ người đưa tới nơi của thầy thuốc tên Trần Độc ở xã Trung Cần, huyện Thanh Chương [nay là xã Nam Trung, Nam Đàn, Nghệ An].

Trần Độc vốn thi đỗ cử nhân, xong từ chối vinh hoa chốn quan trường để về quê chữa bệnh. Tiếng lành đồn xa nên ông được rất nhiều người trong vùng tín nhiệm.

Đây cũng là khoảng thời gian mà Lê Hữu Trác bắt đầu “bén duyên” với nghề y, ông nghiên cứu nhiều tác phẩm y học của Trung Hoa và nhanh chóng nắm bắt được chân lý chữa bệnh.

Nhận thấy điều này, thầy thuốc Trần Độc đã bày tỏ mong muốn truyền nghề, đem hết những hiểu biết về y học cổ truyền dạy lại cho ông.

Năm Bính Tý 1756, Lê Hữu Trác đến kinh thành để tìm thầy học thêm nhưng không tìm được thầy giỏi nên đành trở về Hương Sơn. Tại đây, ông vừa học tập nghiên cứu vừa chữa bệnh cứu người. Sau 10 năm, tên tuổi của Lê Hữu Trác nổi tiếng khắp vùng Hoan Châu, khi ấy người ta gọi ông là Hải Thượng Lãn Ông – ông lười Hải Thượng.

Không dừng lại ở đó, Hải Thượng Lãn Ông còn mở thêm Hội y nhằm quy tụ các danh y từ khắp nơi đến để bầu bạn, tâm sự và chia sẻ kiến thức, học hỏi lẫn nhau. Ông cũng mở các lớp dạy y, đào tạo thế hệ thầy thuốc trẻ.

Các lớp học của ông thu hút rất đông học viên tới theo học. Là một người thầy thuốc đồng thời cũng là một người thầy giáo, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác luôn căn dặn với học trò như với chính mình về nhân cách của người thầy thuốc chân chính.

Trước hết, ông đề cao tính y đức, sau là tuân thủ 8 chữ “Nhân – Minh – Đức – Trí – Lượng – Thành – Khiêm – Cần” [nhân ái – sáng suốt – đức độ – tốt bụng – chân thành – khiêm tốn – cần cù]. Bên cạnh đó, đặc biệt tránh lười nhác, keo kiệt, vụ lợi, dối trá, ngu si, bất nhân, sân si, thất đức.

Năm 1782, Lãn Ông được triệu vào phủ Chúa Trịnh để chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Trong khoảng thời gian này, ông bị không ít ngự y ghen ghét đố kỵ nhưng không hề nảy sinh thù hận, chỉ cố gắng tập trung trị bệnh cho thế tử để mau chóng rời kinh thành.

Tuy nhiên không lâu sau đó, Trịnh Sâm lâm bệnh, Trịnh Cán ốm yếu dai dẳng. Ông đành miễn cưỡng lên chữa bệnh. Dù đã được chữa khỏi nhưng do tuổi cao sức yếu, chỉ ít lâu sau Trịnh Sâm băng hà, con trai là Trịnh Cán lên kế vị. Nhân lúc triều đình đang có người tiến cử thái y mới, Hải Thượng Lãn Ông viện cớ tuổi già thoái lui về quê.

Sau nhiều năm tận tụy cống hiến cho nền y học dân tộc, Hải Thượng Lãn Ông đã nghiên cứu rất nhiều lý luận Trung y kinh điển. Đây là tiền đề cho các phương pháp chữa bệnh của ông, đồng thời làm giàu thêm hệ thống tinh hoa lý luận của Đông y, góp phần quan trọng vào sự phát triển của nền y học nước nhà.

Các di sản về y dược của danh y Hải Thượng Lãn Ông

Nhờ tấm lòng y đức, sự tận tụy trong chữa bệnh cứu người Lê Hữu Trác rất được nhân dân xem trọng. Ông chính là người đúc kết tất cả các tinh hoa của y học cổ truyền Việt Nam và để lại nhiều tác phẩm có giá trị cho đến ngày nay. Nổi bật nhất là bộ sách Y tông tâm lĩnh và và Thượng Kinh Ký Sự.

Y tông tâm lĩnh

Y tông tâm lĩnh bao gồm 28 tập và 66 quyển với đầy đủ các mặt về y học: Y lý, Y thuật, Y đức, Dược và Di dưỡng. Tác phẩm kế thừa quan điểm chữa bệnh của Thiền Sư Tuệ Tĩnh “Nam dược trị Nam nhân” với sự bổ sung hơn 300 vị thuốc Nam, thu thập hơn 2854 bài thuốc lưu truyền trong dân gian.

Y tông tâm lĩnh được soạn thảo trong 10 năm, là sự kết tinh tài năng, kinh nghiệm và quan điểm chữa bệnh của Hải Thượng Lãn Ông. Trong đó, quyển Y dương án là tác phẩm kể lại các ca cứu chữa thành công cũng như một số nội dung tranh luận với thầy thuốc nước ngoài.

Điều này giúp hậu thế hiểu rõ hơn về con người cũng như tài năng chữa bệnh của vị danh y dân tộc thế kỷ XVIII.

Cho đến nay, bộ sách Hải Thượng y tông tâm lĩnh đã được cụ Hoàng Văn Hòe [một chiến sĩ của phong trào Cần Vương] dịch, xuất bản lần đầu trước năm 1970.

Ngoài ra, bộ sách cũng có hệ thống bản khắc in trên gỗ thị từ thời vua Tự Đức đang được trưng bày tại Bảo tàng Bắc Ninh. Bản in gỗ có tất cả 2209 mặt, mỗi mặt có 16 dòng và mỗi dòng có 21 chữ.

Thượng kinh ký sự

Bên cạnh Y tông tâm lĩnh với các nội dung xuất sắc về y học, Lê Hữu Trác còn thể hiện tài năng văn chương xuất sắc khi viết cuốn Thượng kinh ký sự dưới dạng nhật ký. Trong Thượng kinh ký sự viết bằng chữ Hán, ông đã ghi chép lại những sự kiện tại phủ Chúa khi được mời ra kinh thành chữa bệnh.

Đây được xem là tác phẩm văn học quý giá, có nhiều ý nghĩa lịch sử khi phần nào khái quát được bối cảnh, đời sống xa hoa trụy lạc tại phủ Chúa Trịnh những năm cuối thế kỷ XVIII.

Một số tác phẩm tiêu biểu khác

Hải Thượng Lãn Ông vừa chu toàn chữa bệnh, vừa dạy dỗ môn đồ, vừa viết sách. Ông cho rằng y lý là bao la, nếu không ghi chép, xếp loại sẽ rất dễ tản mạn. Do vậy, bên cạnh những tác phẩm nổi tiếng kể trên, Lê Hữu Trác còn để lại nhiều tác phẩm như:Y hải cầu nguyên [1782], Vận khí bí điển [1786], Lĩnh Nam bản thảo,…

Đây đều là những tác phẩm mang nhiều ý nghĩa về mặt văn học, lịch sử. Sự ra đời của chúng góp phần làm đa dạng thêm tinh hoa văn hóa dân tộc, mang đến nguồn tri thức quý cho thế hệ sau.

Đền thờ Danh y Lê Hữu Trác

Để tưởng nhớ công ơn và những đóng góp của vị danh y, nhân dân đã xây dựng khu di tích Hải Thượng Lãn Ông tại làng Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Khu tưởng niệm được tôn tạo vào cuối thế kỷ XVIII, sau đó được trùng tư vào các năm 1990 và 2006.

Đây là quần thể di tích nơi lưu giữ những tư liệu quý về Lê Hữu Trác, bao gồm các di tích:

Nhà tưởng niệm Hải Thượng Lãn ÔngNhà thờ Đại tôn họ Lê HữuKhu mộ Tổ họ Lê HữuNhà thờ Hoàng giáp Lê Hữu Danh

Video liên quan

Chủ Đề