Mẫu hậu hoàng thái hậu là gì

Hoàng thái hậu [chữ Hán: 皇太后; Kana: こうたいごうKōtaigō; Hangul: 황태후Hwang Tae Hu; tiếng Anh: Dowager Empress, Empress Dowager hay Empress Mother], thường được gọi tắt là Thái hậu [太后], là một tước vị được quy định dành cho mẹ của Hoàng đế hoặc cho chính thê của tiên đế [hoặc thái thượng hoàng] trong các khối đồng văn Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam.

Nội dung chính Show

Thứ bậc Hoàng tộc, Quý tộc và Hiệp sĩ

Hoàng đế & Hoàng hậu
Nữ hoàng & Hoàng tếThái hoàng thái hậu
Hoàng thái hậu / Thái thượng hoàng hậu
Hoàng thái phiVương thái hậu / Vương đại phiQuốc vương & Vương hậu
Nữ vương & Vương phuThái tử & Thái tử phi
Thế tử & Thế tử tần
Công chúa & Phò mãĐại Thân vương & Đại Vương phi
Đại Công tước & Đại Công tước phu nhânThân vương & Vương phi
Phó vương & Phó vương phiQuận chúa & Quận mã
Huyện chúa & Huyện mãCông tước & Công tước phu nhânHầu tước & Hầu tước phu nhânBá tước & Bá tước phu nhânTử tước & Tử tước phu nhânNam tước & Nam tước phu nhânHiệp sĩ & Nữ Tước sĩ

Hộp này:

  • xem
  • thảo luận
  • sửa

Về ý nghĩa chuẩn thực sự, danh hiệu này được Hoàng đế đang tại vị tấn tôn cho người vốn là Hoàng hậu của Hoàng đế tiền nhiệm. Vào thời kì đầu như nhà Hán, các mẹ ruột của Hoàng đế kế nhiệm vốn là Hoàng hậu từ trước, do vậy việc tấn tôn theo đó tiến hành quy củ, chỉ có người từng là Hoàng hậu mới có tư cách tấn tôn Hoàng thái hậu. Dần về sau, như nhà Đường và nhà Tống, lại có hiện tượng Hoàng hậu là mẹ cả [Đích mẫu] của Hoàng đế đang tại vị, còn mẹ ruột [Sinh mẫu] vốn chỉ là phi tần. Vào lúc này, danh vị Hoàng thái hậu gần như chỉ dành cho Đích mẫu. Trong trường hợp tồn tại cả hai người, nếu Đích mẫu đã mất thì mới có thể tấn tôn Sinh mẫu. Sang thời nhà Minh và nhà Thanh, sinh mẫu cũng có thể được đồng tôn danh hiệu Hoàng thái hậu nhưng với những hạn chế đặc thù nhất định.

Chữ 「Thái; 太」, cũng giống chữ 「Đại; 大」, đều mang ý nghĩa to lớn, cộng thêm tư tưởng "Lấy hiếu vị Thiên" đã khiến địa vị của các Thái hậu rất đặc biệt trong triều đình của các quốc gia Đông Á, bao trùm và có khả năng ảnh hưởng đến Hoàng đế. Điều này đã khiến xuất hiện các hiện tượng Thái hậu chuyên quyền, Lâm triều công khai nhiếp chính, có ảnh hưởng sâu rộng trong văn hóa và lịch sử, mà điển hình là Từ Hi Hoàng thái hậu.

Mục lục

  • 1 Lịch sử
  • 1.1 Từ nguyên
  • 1.2 Phân biệt với Vương thái hậu
  • 2 Chế độ
  • 2.1 Tấn tôn
  • 2.2 Lâm triều xưng chế
  • 3 Các vấn đề khác
  • 3.1 Biệt xưng
  • 3.2 Biến thể
  • 3.3 Cá biệt
  • 3.4 Chuyển nghĩa từ phương Tây
  • 4 Nhân vật nổi tiếng
  • 4.1 Trung Quốc
  • 4.2 Việt Nam
  • 4.3 Nhật Bản
  • 5 Xem thêm
  • 6 Tham khảo

Lịch sửSửa đổi

Từ nguyênSửa đổi

Khái luận về xuất xứ của danh xưng Thái hậu được đề cập trong Sự vật khởi nguyên [事物紀原] của Cao Thừa [高承] thời nhà Tống:「"Sử ký - Tần bản kỷ viết: Chiêu vương mẫu Mị thị, hiệu Tuyên Thái hậu. Từ đó Vương mẫu đều gọi như vậy"; 《史記秦本紀》曰:昭王母羋氏,號宣太后。王母於是始以為稱。」

Theo đó, thời Tiên Tần, khi Tần Chiêu Tương vương tôn mẹ là Mị thị làm Tuyên Thái hậu, thì khi đó mới có danh vị Thái hậu dùng để gọi mẹ của quân vương. Về sau, Triệu Hiếu Thành vương cũng theo cách của nhà Tần, tôn xưng mẹ ruột Hiếu Uy Thái hậu.

Vào thời nhà Tần, Tần Thủy Hoàng quy định danh vị Hoàng đế, thì mẹ của Hoàng đế gọi là [Hoàng thái hậu]. Song mẹ của Thủy Hoàng là Triệu Cơ khi ấy qua đời trước khi ông xưng Đế, và Thủy Hoàng chỉ có thể truy tôn bà làm Đế Thái hậu [帝太后]. Từ thời nhà Hán, tôn vị quy định của Hoàng thái hậu rất chặt chẽ, và người đầu tiên trở thành Hoàng thái hậu khi còn sống là Lữ hậu, Hoàng hậu của Hán Cao Tổ Lưu Bang.

Phân biệt với Vương thái hậuSửa đổi

Tước vị [Hoàng thái hậu] là dành riêng cho mẹ của Hoàng đế, còn Vương thái hậu là dành cho mẹ của các quân chủ mang tước Vương. Cả hai tước hiệu đều có thể gọi tắt thành Thái hậu, song khoảng cách có rạch ròi.

Đối với phiên hệ tiếng Anh, tước hiệu [Hoàng thái hậu] là [Empress Dowager], [Dowager Empress] hoặc [Empress Mother]; còn Vương thái hậu là [Queen Dowager], [Dowager Queen] hoặc [Queen Mother]. Tuy vậy, các quốc gia phương Tây không thường xuyên sử dụng những cách gọi này, mà họ thường gọi vị goá phụ ấy bằng tên của người chồng, như Viktoria, Hoàng hậu Đức, vợ của Hoàng đế Friedrich III, trong thời gian làm quả phụ được gọi là [Kaiserin Friedrich; nghĩa là Hoàng hậu Friedrich]. Còn một cách khác đơn giản hơn, họ sẽ thường được gọi theo tên thật, bất chấp vai vế, như Mary xứ Teck của Vương quốc Liên hiệp Anh, từ khi chồng là George V của Anh qua đời, bà chỉ được gọi đơn giản là [Queen Mary], dù cho là thời hai người con trai lẫn người cháu nội, Elizabeth II.

Chế độSửa đổi

Tấn tônSửa đổi

Khi sách phong cho một Hoàng thái hậu, đó gọi là 「Tấn tôn; 晉尊」, có Sách bảo [册宝] do chính Hoàng đế dẫn đầu bá quan văn võ đến dâng tiến trong đại lễ tấn tôn. Quy định về tấn tôn Hoàng thái hậu cũng là một trong những đại lễ lớn nhất trong bất kì sách điển của bất kì triều đại Đông Á nào [thời Hậu Lê có Lịch triều hiến chương loại chí, thời nhà Nguyễn có Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ], cộng thêm quan niệm tôn trọng chữ hiếu ở các quốc gia Hán quyển Đông Á, cho nên có thể nói đây là một trong những sự kiện lớn của một triều đại.

Qua các triều đại, có rất nhiều trường hợp tôn vị Hoàng thái hậu. Tuy nhiên thông thường đều chia ra các quy định chính:

  • Hoàng đế là Đích xuất: tức là Hoàng đế kế nhiệm có mẹ đẻ vốn là Hoàng hậu.Vào lúc này, nếu mẹ của Hoàng đế còn sống thì tôn làm Hoàng thái hậu, nếu không còn thì tôn người mẹ kế - Hoàng hậu kế tiếp của Hoàng khảo Tiên đế - làm Hoàng thái hậu. Một số phi tần từng nhận phủ dưỡng Hoàng đế được tôn Hoàng thái phi hoặc thậm chí là Hoàng thái hậu [như trường hợp Dương Thục phi nhà Tống, hay Khang Từ Hoàng thái hậu nhà Thanh].
  • Hoàng đế là Thứ xuất: tức là Hoàng đế kế nhiệm có mẹ chỉ là phi tần mà không phải Hoàng hậu.Vào lúc này, Hoàng đế sẽ tấn tôn mẹ đẻ làm Hoàng thái phi, còn mẹ đích làm Hoàng thái hậu. Nếu mẹ đích đã qua đời, thì vị mẹ đẻ đó mới có thể trở thành Hoàng thái hậu [như Tiêu Thái hậu, Vương Thái hậu và Trịnh Thái hậu nhà Đường; Linh Nhân Thái hậu nhà Lý]. Về sau, nhà Minh và nhà Thanh quy định rõ hơn: mẹ đẻ có thể tôn luôn làm Hoàng thái hậu nhưng có những quy chế về tôn xưng huy hiệu để phân biệt với Đích Thái hậu và Đế mẫu. Theo đó, nhà Minh ban đầu quy định chỉ có Đích Thái hậu mới có tôn hiệu [giữa Thượng Thánh Tôn Thái hậu và Ngô Thái hậu thời Minh Đại Tông], về sau chỉ đơn giản là tôn hiệu khác biệt [giữa Nhân Thánh Trần Thái hậu và Từ Thánh Lý Thái hậu thời Minh Thần Tông]. Nhà Thanh ban đầu cũng như vậy mà noi theo, tấn tôn Đích mẫu là Nhân Hiến Hoàng thái hậu và Đế mẫu là Từ Hòa Hoàng thái hậu. Sau đó dưới thời Từ An Hoàng thái hậu và Từ Hi Hoàng thái hậu mới lập nên Mẫu hậu Hoàng thái hậu và Thánh mẫu Hoàng thái hậu đặc thù.Trường hợp đồng tôn như thế này từng xảy ra cuối thời nhà Nguyễn, giữa Phụ Thiên Thuần Hoàng hậu và Hựu Thiên Thuần Hoàng hậu thời Khải Định, nhưng vốn Phụ Thiên Thuần hoàng hậu là đích mẫu, nên tấn tôn Hoàng thái hậu trước, còn Hựu Thiên Thuần hoàng hậu chỉ là Hoàng thái phi, chừng 8 năm sau đó thì mới chính thức đồng tôn với danh hiệu khác biệt là Khôn Nguyên Hoàng thái hậu và Khôn Nghi Hoàng thái hậu.
  • Hoàng đế từ dòng bên nhập tự: tức là Hoàng đế kế nhiệm có cha là hoàng tử, hoặc hoàng thân mà vốn là anh em trai của Hoàng đế tiền nhiệm.Vào lúc này, Hoàng đế kế nhiệm có nhiệm vụ tôn Hoàng hậu [hoặc dưỡng mẫu phi] của Hoàng đế tiền nhiệm làm Hoàng thái hậu, chứng nhận việc "nhập tự", do đó về căn bản không thể tấn tôn cho mẹ đẻ vì Hoàng đế đã trở thành con của Hoàng đế tiền nhiệm về mặt pháp lý rồi. Điều này xảy ra rất nhiều, như Hán Tuyên Đế [nhận Hiếu Chiêu Thượng Quan hoàng hậu]; Hán Ai Đế [nhận Triệu Phi Yến]; Thanh Đức Tông [nhận Từ An Hoàng thái hậu và Từ Hi Hoàng thái hậu]; Nguyễn Cung Tông và Nguyễn Cảnh Tông [nhận Trang Ý Hoàng thái hậu].
  • Hoàng đế cùng vai vế với Tiên đế: tức là Hoàng đế kế vị có vai vế là anh/em trai hay thậm chí là chú/ bác với Hoàng đế tiền nhiệm.Vào lúc này, Hoàng đế kế nhiệm sẽ dựa theo thứ bậc mà tấn tôn mẹ đẻ làm Hoàng thái hậu, còn vị Hoàng hậu của Tiên đế [nếu có] thì không thể tấn tôn làm Hoàng thái hậu mà được gia tôn thêm mỹ hiệu, được lấy từ thụy hiệu hay niên hiệu của Tiên đế [như Khai Bảo Hoàng hậu nhà Tống], hay nơi vị Hoàng hậu ấy đang ở [như Khiêm Hoàng hậu nhà Nguyễn], hoặc là 2 từ mỹ hiệu do đích thân Hoàng đế kế nhiệm thảo luận và tấn tôn [như Ý An Hoàng hậu nhà Minh; Gia Thuận Hoàng hậu nhà Thanh].

Tại Nhật Bản, thời Thiên hoàng Daigo trở về trước, danh hiệu Hoàng thái hậu thường nhất định chỉ dùng cho Hoàng hậu của Thiên Hoàng, hoặc là Chuẩn mẫu của Thiên Hoàng kế nhiệm [như Anh Chiếu Hoàng thái hậu, chuẩn mẫu của Thiên hoàng Minh Trị]. Những mẹ sinh của Thiên Hoàng không phải là Hoàng hậu, hoặc chỉ là xuất thân bình dân thì đều chỉ có thể tấn tôn danh vị là 「Hoàng thái phi; 皇太妃」 và 「Hoàng thái phu nhân; 皇太夫人」.

Tuy nhiên, sau khi Thiên hoàng Daigo đăng vị, dưỡng mẫu của ông là Đằng Nguyên Ôn Tử [藤原温子] được nhậm Trung cung chức, tuy chỉ được tôn làm Hoàng thái phu nhân, nhưng thực chất địa vị của bà khi đó đã ngang với Hoàng thái hậu. Từ đó về sau, kể cả sinh mẫu của Thiên Hoàng vốn không phải Hoàng hậu khi trước cũng đều có thể trở thành Hoàng thái hậu. Dẫu vậy, hoàng thất Nhật Bản vẫn khắc khe với sinh mẫu của Thiên Hoàng ở địa vị thấp, thậm chí không thể tấn tôn mà chỉ dùng biệt đãi, như mẹ đẻ của Thiên hoàng Minh Trị là Tòng nhất vị Nakayama Yoshiko [中山慶子Trung Sơn Khánh Tử].

Trong hoàng thất Nhật Bản không chuộng định huy hiệu, nên khi xảy ra trường hợp cần phải đồng tôn thì luôn có những điểm dị thường để tránh trùng lặp. Ví dụ là thời kì Thiên hoàng Montoku, mẹ của ông Đằng Nguyên Thuận Tử [藤原順子] vốn là Hoàng hậu của Thiên hoàng Ninmyō và là Đế mẫu, hoàn toàn xứng đáng được tôn Hoàng thái hậu. Nhưng khi đó trong cung đã có Thái hoàng thái hậu Quất Gia Trí Tử [橘嘉智子] và Hoàng thái hậu Chính Tử Nội thân vương [正子內親王], nên Thuận Tử chỉ có thể được tôn làm Hoàng thái phu nhân. Sau khi Thái hoàng thái hậu Quất Gia Trí Tử qua đời, Thiên hoàng Montoku mới ở năm Tề Hành nguyên niên [854] tiến hành tấn tôn Hoàng thái hậu Chính Tử Nội thân vương làm Thái hoàng thái hậu, đưa mẹ đẻ Đằng Nguyên Thuận Tử chính thức nhận danh hiệu Hoàng thái hậu.

Lâm triều xưng chếSửa đổiXem thêm thông tin: Nhiếp chính

Khi Hoàng đế còn quá nhỏ tuổi, người mẹ của vị Hoàng đế ấy thường sẽ có quyền nhiếp chính trong một khoảng thời gian nhất định đến khi Hoàng đế đến tuổi trưởng thành. Hiện tượng mẹ của quân chủ nhiếp chính bắt đầu từ khi Tuyên Thái hậu Mị Bát Tử, sinh mẫu của Tần Chiêu Tương vương, người được tôn làm Thái hậu và tham gia triều chính, mở đầu hiện tượng Thái hậu chuyên quyền trong suốt chiều dài lịch sử các quốc gia Đông Á.

Sách Hậu Hán thư có bình rằng:

自古雖主幼時艱,王家多釁,必委成冢宰,簡求忠賢,未有專任婦人,斷割重器。唯秦羋太后(即宣太后)始攝政事,故穰侯權重於昭王,家富於嬴國。

.

Từ xưa khi các Vương còn nhỏ tuổi, cơ nghiệp vương thất gặp nguy, tất sẽ ủy thác cho Trủng tề, lại cầu danh hiền, chứ không có chuyện dựa dẫm vào đàn bà, có nguy cơ làm đứt đoạn giang sơn. Chỉ duy có Mị Thái hậu nước Tần, khơi mào cho chuyện nhiếp chính sự, khiến Nhương hầu [Ngụy Nhiễm] quyền ngang với Chiêu vương, thế lực áp đảo tại đất họ Doanh.

 Hậu Hán thư - Phạm Diệp

Sang thời nhà Hán, Lữ Thái hậu nhân lúc Hán Huệ Đế bạo bệnh băng hà, Hoàng đế Lưu Cung còn nhỏ mà tự mình chính thức lâm triều, ra chiếu chỉ tự xưng mình là 「Chế; 制」, mở đầu cho một hiện tượng mà các sử gia gọi là 「Lâm triều xưng chế; 临朝称制」 của các vị Hoàng thái hậu. Vào thời điểm đó, các Thái hậu có thể lên triều nghị chính một cách công khai như các vị Hoàng đế quân chủ.

惠帝崩,太子立为皇帝,年幼,太后临朝称制,大赦天下。

.

Huệ Đế băng, Thái tử tức vị Hoàng đế. Niên ấu, Thái hậu lâm triều xưng chế, đại xá thiên hạ.

 Hán thư - Cao hậu kỷ

Vốn dĩ, "Lâm triều" ý là xử lý quốc chính, tương đương Thiên tử lâm triều, còn "xưng chế" là tiến hành quyền quản lý quốc chính như Thiên tử. Trong Hậu Hán thư, cuốn thứ 3 - "Túc Tông Hiếu Chương hoàng đế bản kỷ", có ghi lại rằng:「"Đế thân xưng chế lâm quyết, như Hiếu Tuyên Cam Lộ Thạch Cừ cố sự, tác Bạch Hổ nghị tấu"; 帝親稱制臨決,如孝宣甘露石渠故事,作白虎議奏。」. Như vậy, "Lâm triều" tức là đăng vị giải quyết quốc sự, mà hậu phi cung tần vốn dĩ không có quyền tham chính, nếu như có quyền đó, thì tức là "xưng chế", hàm ý hành xử đều tương đương quyền lực của Hoàng đế.

Đến thời của Võ Tắc Thiên, bà ngồi sau một bức mành [Hán ngữ gọi "Liêm tử"; 帘子] để nghe triều thần nghị luận việc nước sau lưng Đường Cao Tông, thì mới khai sinh ra một khái niệm gọi là 「Thùy liêm; 垂帘」, có nghĩa là "Buông rèm", cho phép Hoàng hậu có thể ở sau Hoàng đế mà dự thính cùng thảo luận chính sự. Điều này có ghi trong Cựu Đường thư:

時帝風疹不能聽朝,政事皆決於天后。自誅上官儀後,上每視朝,天后垂簾於御座後,政事大小皆預聞之,內外稱為「二聖」。帝欲下詔令天后攝國政,中書侍郎郝處俊諫止之。

.

Khi vua [tức Đường Cao Tông] bị bệnh không thể nghe triều, chính sự toàn quyết do Thiên hậu [tức Võ Tắc Thiên]. Từ khi giết Thượng Quan Nghi, mỗi lần coi triều, Thiên hậu đều buông rèm ngồi ở sau bảo tọa, chính sự lớn nhỏ đều nghe biết hết, đương thời xưng gọi 「Nhị Thánh」. Vua sau đó hạ chiếu lệnh Thiên hậu Nhiếp quốc chính, Trung thư Thị lang Hách Xử Tuấn ngăn cản.

 Cựu Đường thư - Cao Tông kỷ

Sang thời nhà Tống, đời Tống Nhân Tông, có Chương Hiến Lưu Thái hậu từng được di chiếu 「Quân quốc trọng sự, quyền thủ xử phân; 軍國重事,權取處分」, đứng đầu nhóm người được quyền quản lý chính sự. Vào lúc ấy, việc nhiếp chính này của Lưu Thái hậu tiến hành Thùy liêm ở Thừa Minh điện [承明殿], Hoàng đế ở bên Tả, Thái hậu ở bên Hữu, vẫn dùng việc [Thùy liêm] để giải quyết sự vụ[1][2]. Sang thời Tống Anh Tông, trong thời gian cai trị đầu tiên thì ông từng liên tiếp bạo bệnh, khi ấy Từ Thánh hậu từng ở sau mành mà nhiếp chính quốc gia trọng sự, đây là lúc chính thức ghi nhận việc Thái hậu tham chính bằng cách buông rèm là 「Thùy liêm thính chánh; 垂帘听政」. Việc này được sách Đông đô sự lược [東都事略] chép rất rõ:

英宗暴得疾,慈圣后垂帘听政。

.

Anh Tông bạo bệnh, Từ Thánh hậu thùy liêm thính chính.

 Đông đô sự lược

Từ đó, các đời Hoàng thái hậu hoặc Hoàng hậu, nữ quyến nhiếp chính đều ngồi sau bức mành nghe việc, làm cho cụm từ "Thùy liêm thính chánh" từ đó ám chỉ việc phụ nữ tham dự triều chính. Theo quy chế thời Bắc Tống, nghi thức của Thái hậu nhiếp chính đều tương tự Hoàng đế[3], Thái hậu hạ thánh chỉ thì tự xưng là 「Dư; 予」, trên triều đường thì tự xưng 「Ngô; 吾」, mà không thể tự xưng từ chỉ chuyên dùng cho Hoàng đế là 「Trẫm; 朕」.

Nho gia Tuân Tử, đem nữ chủ, trá thần, tham lại xưng là 「Tam loạn; 三亂」[4], do đó ảnh hưởng đến cách nhìn nhận về sau của việc nữ chủ tham gia chính sự, điển hình là từ thời Nam Tống, đã lấy Tân Nho học của Chu Hi vốn chịu ảnh hưởng từ lý thuyết của Tuân Tử để phán ánh gay gắt việc nữ chủ lâm triều và độc bá triều cương. Các triều đại về sau dần hạn chế việc cho phép Thái hậu tham gia chính sự, khi các Hoàng đế còn nhỏ thì các hội đồng nhiếp chính lập ra đều có Thân vương và quan đại thần đứng đầu phụ chính, điển hình như chế độ của nhà Minh và nhà Thanh.

Các vấn đề khácSửa đổi

Biệt xưngSửa đổi

Cũng như Hoàng hậu, trong ngôn ngữ cổ Trung Quốc có rất nhiều cách gọi ám chỉ Thái hậu. Những từ tiêu biểu:

  • Từ cung [慈宮] hay Thánh từ [聖慈] hoặc Từ giá [慈駕]: thường ám chỉ nơi ở và đức thánh sáng ngời, cụm "Thánh từ" có trong câu ["Thánh minh Từ tường"; 圣明慈祥][5][6]. Văn sách tôn hiệu thường sử dụng biệt xưng này nhất. Còn "Từ giá" ám chỉ đến đoàn Lỗ bộ - gồm kiệu, xe và cờ lọng, được dành riêng cho Thái hậu khi xuất hành.
  • Thánh mẫu [聖母]: biệt xưng phổ biến trong văn thư dành cho sinh mẫu của Hoàng đế[7][8]. Không nhất thiết chỉ dùng cho Hoàng thái hậu, đôi khi chỉ là sinh mẫu đã mất hoặc những người chưa từng là Hoàng hậu. Đời nhà Thanh thời Đồng Trị Đế, triều đình tôn Quý phi Na Lạp thị làm [Thánh mẫu Hoàng thái hậu].
  • Mẫu hậu [母后]: biệt xưng phổ biến trong văn thư dành cho Hoàng thái hậu. Chủ yếu dùng đến khi Hoàng thái hậu không phải sinh mẫu của Hoàng đế. Đời nhà Thanh thời Đồng Trị Đế, triều đình tôn Hoàng hậu Nữu Hỗ Lộc thị làm [Mẫu hậu Hoàng thái hậu].
  • Thánh nhân [聖人]: cách gọi đời nhà Tống, chỉ chung Hoàng hậu lẫn Thái hậu[9][10].
  • Đông triều [東朝]: xuất phát từ Sử ký Tư Mã Thiên, ám chỉ Trường Lạc cung vốn dành cho Thái hậu nhà Hán[11].
  • Quốc mẫu [國母]: biệt xưng dành cho Hoàng hậu, Hoàng thái hậu. Ý là ["Toàn quốc chi mẫu"; 全國之母][12].
  • Từ Ninh [慈寧]: biệt xưng Hoàng thái hậu triều Thanh, vì nói đến Từ Ninh cung.
  • Từ Hồ [慈壺] và Từ Vi [慈闈]: biệt xưng văn thư cổ cho sinh mẫu của Hoàng đế. Không nhất thiết là Hoàng thái hậu.
  • Hoàng tỷ [皇妣]: chỉ dùng trong tế văn của các Hoàng hậu và Hoàng thái hậu, thậm chí là Thái hoàng thái hậu. Chữ [妣] có nghĩa là "Người mẹ [hoặc bà] đã mất"[13], chỉ dùng cho Hoàng hậu hoặc Hoàng thái hậu là đích mẫu và sinh mẫu, và phải có quan hệ huyết thống chính pháp. Nếu là Hoàng đế nhập Tự [dòng thứ kế thừa và nhận Tiền nhiệm Hoàng đế làm cha], thì không thể dùng chữ này để gọi mẹ ruột. Tương tự cha ruột của họ cũng không thể dùng chữ [Khảo; 考].

Biến thểSửa đổi

Thời Tây Hán, các hoàng tử đều có đất phong và nhận tước Vương, thì mẹ của các hoàng tử đó được gọi là Vương quốc Thái hậu [王國太后]. Sang thời Đông Hán, danh hiệu "Vương quốc Thái hậu" được thay thế bằng phong vị Vương quốc Thái phi [王國太妃], và từ đó danh hiệu "Thái hậu" chỉ dùng để gọi mẹ các Hoàng đế. Vào lúc Hán Huệ Đế băng, Hoàng thái hậu Lữ Trĩ lập Lưu Cung kế vị. Vào lúc đó, tuy Hiếu Huệ Trương hoàng hậu là Mẫu hậu của Tân Hoàng đế, Trương hậu vẫn giữ danh vị Hoàng hậu mà không phải Hoàng thái hậu. Từ đó cũng là trường hợp Đế mẫu hiếm hoi không được tấn tôn Hoàng thái hậu trong lịch sử.

Thời Hán Ai Đế Lưu Hân, do Ai Đế là nhận Hán Thành Đế làm hoàng phụ, trở thành Thái tử, nên khi lên ngôi ông nhận đích tổ mẫu là Vương Chính Quân làm Thái hoàng thái hậu và Hoàng hậu Triệu thị của Thành Đế làm Hoàng thái hậu. Nhưng ông vẫn tôn kính mẹ đẻ Đinh Cơ và bà nội là Phó Thái hậu, luôn tìm cách nâng địa vị của họ. Thời kì này vẫn chưa có hệ thống huy hiệu hoàn chỉnh, do vậy Hán Ai Đế đã liên tiếp nghĩ ra nhiều dị thể từ danh hiệu Hoàng hậu và Hoàng thái hậu vốn có, và cuối cùng tạo nên một thời kì mà trong cung có một lúc 4 vị Thái hậu với những danh hiệu chưa từng có:

  • Hoàng thái hậu Vương Chính Quân là 「Thái hoàng thái hậu; 太皇太后」;
  • Thành Đế hoàng hậu Triệu Phi Yến trở thành 「Hoàng thái hậu; 皇太后」;
  • Tổ mẫu Phó thị được tôn làm 「Cung Hoàng thái hậu; 恭皇太后」; sau là 「Đế thái thái hậu; 帝太太后」 rồi 「Hoàng thái thái hậu; 皇太太后」;
  • Sinh mẫu Đinh Cơ được tôn làm 「Cung Hoàng hậu; 恭皇后」, rồi là 「Đế thái hậu; 帝太后」;

Tại Hàn Quốc, nhà Cao Ly vẫn có ý ngang hàng với Trung Hoa khi ấy là nhà Tống, họ tôn các mẹ của Quân vương là Vương thái hậu như điển chế cổ. Sang đó nhà Triều Tiên xưng làm Quốc vương, và nhận làm chư hầu nhà Minh, nên mẹ của Quốc vương nhà Triều Tiên được gọi là Vương đại phi. Không giống như Trung Quốc, nhà Triều Tiên coi trọng đích-thứ, nếu Quốc vương kế vị là thứ xuất, thì mẹ ruột không thể tôn làm Vương đại phi, thậm chí cả truy phong cũng cấm, mà chỉ có thể duy trì phong hiệu cũ, hoặc gọi là 「Cung; 宮」. Khi Đế quốc Đại Hàn thành lập, lịch sử Hàn Quốc mới xuất hiện một vị Hoàng thái hậu đầu tiên và duy nhất, đó là Kế phi của Triều Tiên Hiến Tông là Hiếu Định Thành hoàng hậu Nam Dương Hồng thị, khi tấn tôn được gọi là 「Minh Hiến Thái hậu; 明憲太后; 명헌태후」

Trong khi đó, lịch sử Việt Nam thời Lê Trung hưng, các Chúa Trịnh chưởng quyền lấn át các Hoàng đế họ Lê, đã đặt ra danh vị để tỏ ra ngang hàng với Hoàng thất. Các Chúa Trịnh tôn mẹ mình là 「Vương thái phi; 王太妃」, bà của chúa là 「Thái tôn thái phi; 太尊太妃」. Một vài vị Vương thái phi có công dưỡng đối với Hoàng đế nhà Lê, hoặc vì cả nể chúa Trịnh, mà được tấn tôn với danh hiệu 「Quốc mẫu; 國母」 hay 「Quốc thái mẫu; 國太母」.

Trong lịch sử Nhật Bản, thời Thiên hoàng Go-Reizei, trong cung lập 1 lúc 3 vị chính phối, là Hoàng hậu Đằng Nguyên Hoan Tử [藤原歡子], Trung cung Đằng Nguyên Khoan Tử [藤原寬子] còn có Chương Tử Nội thân vương [章子內親王], được sắc phong danh hiệu Hoàng thái hậu. Đây trở thành trường hợp cực hiếm trong lịch sử khi danh vị Hoàng thái hậu lại phong cho một chính thất của Thiên Hoàng.

Cá biệtSửa đổi

Suốt thời Ngũ Hồ Thập lục quốc, nhiều quốc gia xưng Vương và họ tôn mẹ mình làm Vương thái hậu. Thời Bắc Ngụy, các vị Hoàng đế ngoài vị Hoàng thái hậu là mẹ đích [do quy định Tử quý mẫu tử nên mẹ ruột đều bị xử tử], thì người Nhũ mẫu chăm sóc các vị Hoàng đế từ bé cũng được hiển quý, gọi là 「Bảo Thái hậu; 保太后」.

Thời Hậu Đường, Hậu Đường Trang Tông có mẹ cả là Lưu thị, nhưng lại bất chấp lễ pháp, tấn tôn mẹ ruột Tào thị làm Hoàng thái hậu [sau là Trinh Giản hoàng hậu], còn Lưu thị chỉ là Hoàng thái phi. Đây là trường hợp độc nhất vô nhị trong lịch sử khi thứ bậc đích-thứ lẫn lộn đến cực điểm.

Thời nhà Liêu, Thừa Thiên Thái hậu vốn là em gái Liêu Nhân Tông. Khi Liêu Nhân Tông băng, con trai kế vị còn nhỏ, do đó trong di chiếu mệnh em gái Gia Luật thị có quyền nhiếp chính, xưng Thừa Thiên Thái hậu. Đó là vị Thái hậu duy nhất trong lịch sử Trung Quốc không phải mẹ của Hoàng đế, mà là cô của Hoàng đế.

Chuyển nghĩa từ phương TâySửa đổi

Trong văn hóa phương Tây, Hoàng thái hậu chỉ đơn giản là "Hoàng hậu của Hoàng đế tiền nhiệm", họ là một cựu Hoàng hậu hoặc là mẹ của Hoàng đế kế nhiệm, do vậy không có sự tấn tôn, mà chỉ có địa vị trong gia đình hoàng thất rất cao. Một điều rằng các [Empress Dowager] nhất định phải từng là Hoàng hậu [Empress consort], nếu chỉ là Đế mẫu [chưa từng làm Hoàng hậu] thì chỉ có tôn xưng kính nể, chứ không có danh hiệu, như mẹ của Hoàng đế Napoleon I của Đế quốc Pháp là Letizia Ramolino, đương thời bà chỉ được tôn xưng là 「Madame Mère de l'Empereur; Đức Hoàng mẫu bệ hạ」.

Thời Đế quốc Ottoman, mẹ của một Sultan được tôn là 「Valide Sultan; والده سلطان‎」, đây là một danh hiệu có nghĩa là "Mẹ của Sultan" và chỉ được dành cho người mẹ đang còn sống của vị Sultan trị vì. Địa vị của một Valide Sultan rất lớn không chỉ trong hậu cung của Sultan mà thậm chí là nền chính trị của toàn Đế quốc. Thời kỳ cuối cùng của Đế quốc Ottoman diễn ra dưới sự nhiếp chính của các Valide Sultan, khi các Sultan còn quá nhỏ, thì Valide Sultan đã dùng danh nghĩa nhiếp chính thao túng toàn diện nền chính trị.

Nhân vật nổi tiếngSửa đổi

Từ Hi Thái hậu - vị Nữ hoàng không ngai của Trung Quốc.

Đại Thắng Minh Hoàng Hậu Dương thị - vị Hoàng thái hậu đầu tiên trong lịch sử Việt Nam.

Hương Thuần Hoàng thái hậu - vị Hoàng thái hậu gần nhất trong lịch sử Nhật Bản. Bà là mẹ của Thiên hoàng Akihito.

Thái hậu là gì?

Thái hậu [chữ Hán: 太后; tiếng Anh: Queen Dowager, Queen Mother, Empress Dowager hoặc Empress Mother] một tước hiệu, danh từ để chỉ đến mẹ hoặc bà nội của vua tại các quốc gia Hán quyển gồm Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản và Hàn Quốc.

Vua gọi Thái Hoàng Thái hậu là gì?

Tước hiệu ["Thái hoàng thái hậu"] dùng để tôn vinh người bà nội của Hoàng đế, địa vị ở trên các Hoàng thái hậu. Tước vị này lần đầu xuất hiện vào thời Tây Hán, ghi nhận trường hợp Bạc Cơ, mẹ của Hán Văn Đế Lưu Hằng và bà nội của người kế nhiệm, Hán Cảnh Đế Lưu Khải.

Hoàng thái tử là gì?

Thái tử [chữ Hán: 太子], gọi đầy đủ là Hoàng thái tử [皇太子] hay Vương thái tử [王太子], danh vị dành cho Trữ quân kế thừa của Hoàng đế hoặc đôi khi một Quốc vương trong các quốc gia thuộc vùng văn hóa chữ Hán.

Hoàng hậu là gì của Hoàng thượng?

Trong ngôn ngữ Việt Nam, [Hoàng hậu] thường chỉ chung [vợ của Vua], từ Quốc vương đến Hoàng đế. Trên thực tế, vợ của Quốc vương gọi Vương hậu [王后], chữ 「Vương; 王」tiếng Trung đọc hơi giống chữ 「Hoàng; 皇」nên mới xảy ra hiểu lầm.

Chủ Đề