Mở bài về phong cách nghệ thuật

Mở bài về phong cách nghệ thuật

 

Nghị luận phong cách chính là người hay nhất

  • Dàn ý nghị luận Phong cách chính là người
  • Phong cách chính là người - Mẫu 1
  • Phong cách chính là người - Mẫu 2
  • Phong cách chính là người - Mẫu 3
  • Phong cách chính là người - Mẫu 4
  • Phong cách chính là người - Mẫu 5
  • Phong cách chính là người - Mẫu 6
  • Phong cách chính là người - Mẫu 7

 

Dàn ý nghị luận Phong cách nghệ thuật

I. Mở bài:

- Phong cách chính là nét độc đáo và phần đóng góp riêng của nhà văn cho đời sống văn học.

- Phong cách của nhà văn được thể hiện trên cả hai phương diện: nội dung và nghệ thuật.

II. Thân bài:

- Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay chỉ làm theo một vài kiểu mẫu…

+ Văn chương chỉ dung nạp những ai biết đào sâu suy nghĩ, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có” với nhà văn Nam Cao, ông đòi hỏi ở mỗi người cầm bút một sự sáng tạo riêng cho mình, để lại cho văn học những gì là của riêng mình.

 

+ Nhà văn Pháp Buy-phông thì quan niệm “Phong cách chính là người”.

- Phong cách bao gồm cả phương diện nội dung và nghệ thuật:

+ Trong câu nói của Buy-phông, “Phong cách” là những nét độc đáo của riêng mỗi nhà văn thể hiện trong văn học. Đó là “những nguồn chưa ai khơi” nhưng nhà văn đó đã khơi tìm và hưởng được sự ngọt mát của nó.

+ Cần hiểu rằng, phong cách của nhà văn được thể hiện trên cả hai phương diện: nội dung và nghệ thuật. Trong nội dung, phong cách nhà văn in đậm trong quan niệm về cuộc sống con người, việc lựa chọn đề tài, xây dựng chủ đề, cách lý giải vấn đề về cuộc sống con người…

- Độc đáo về nội dung thể hiện ở quan niệm về cuộc sống và con người từ việc lựa chọn đề tài, xác định chủ đề, cách lý giải những vấn đề về cuộc sống và con người…

Phong cách của nhà văn in đậm lên từng trang viết. Đến lượt mình, phong cách văn học của mỗi tác giả lại in sâu vào lòng người đọc tạo nên mối đồng cảm sâu sắc giữa những nhà văn, nhà thơ và những độc giả chân thành.

- Độc đáo về nghệ thuật thể hiện ở phương thức biểu hiện, ở việc lựa chọn các thủ pháp nghệ thuật, tổ chức kết cấu, sử dụng ngôn ngữ….

- Điều thú vị khi đọc tác phẩm văn học là phát hiện được những nét độc đáo trong phong cách của mỗi nhà văn.

 

III. Kết bài:

- Đưa ra một nhận định đúng đắn, Buy-phông định hướng cho những nhà văn hay những người ôm mộng văn chương phải biết định hình cho mình một phong cách riêng nổi bật. Đó phải là phong cách của riêng anh để người đọc nhận ra đó là anh chứ không phải là người khác. Đến lượt mình, mỗi độc giả cần là một người đọc thông minh biết tìm tòi, suy nghĩ phát hiện nét phong cách riêng của mỗi nhà văn.

 

MS142 – Chứng minh phong cách nghệ thuật của một số nhà thơ, nhà văn tiêu biểu

Đăng bởi · Ngày 28/11/2017

 

 

 

Phong cách là chỗ độc đáo về tư tưởng cũng như nghệ thuật có phẩm chất thẩm mĩ

 

Xuất bản ngày 17/09/2019 - Tác giả: Tâm Phương

Lập dàn ý và bài văn mẫu nghị luận về ý kiến: Phong cách là chỗ độc đáo về tư tưởng cũng như nghệ thuật có phẩm chất thẩm mĩ thể hiện trong sáng tác của những nhà văn ưu tú.

 

 

Mục lục nội dung

  • 1. Dàn ý chi tiết
  • 2. Bài văn mẫu nghị luận

 

Mục lục bài viết

 

Đề bài:Sách Lí luận văn học [tập 3, Phương Lựu chủ biên – NXB ĐHSP, 2011] viết:

"Phong cách là chỗ độc đáo về tư tưởng cũng như nghệ thuật có phẩm chất thẩm mĩ thể hiện trong sáng tác của những nhà văn ưu tú."

Anh [chị] hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm rõ cách hiểu của mình qua một vài sáng tác [thuộc văn học lãng mạn Việt Nam 1930-1945] của một tác giả mà anh [chị] đã học, đọc thêm.

Dàn ý chi tiết:

I. Mở bài:

- Dẫn dắt, nêu vấn đề cần nghị luận

- Trích dẫn ý kiến:"Phong cách là chỗ độc đáo về tư tưởng cũng như nghệ thuật có phẩm chất thẩm mĩ thể hiện trong sáng tác của những nhà văn ưu tú."

– Khái niệm phong cách nghệ thuật là một phạm trù thẩm mỹ, chỉ sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng, của các phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn, trong tác phẩm riêng lẻ, trong trào lưu văn học hay trong văn học dân tộc

– Trong nhận định trên, khái niệm phong cách được đề cập là phong cách nghệ thuật của một nhà văn, không phải bất cứ nhà văn nào cũng có phong cách. Chỉ có những nhà văn có tài năng, có bản lĩnh [nhà văn ưu tú] mới có được phong cách riêng độc đáo.

– Nhà văn có phong cách nhà văn chính là nhà văn phải đem lại một tiếng nói mới cho văn học, đó là sự độc đáo mà đa dạng, bền vững mà luôn đổi mới. Đặc biệt nó phải có tính chất thẩm mĩ nghĩa là đem lại cho người đọc sự hưởng thụ thẩm mĩ dồi dào. Phong cách không chỉ là dấu hiệu trưởng thành của một nhà văn mà khi đã nở rộ thì nó còn là bằng chứng của một nền văn học đã trưởng thành.

– Phong cách nghệ thuật có cội nguồn từ cá tính sáng tạo của nhà văn. Cá tính sáng tạolà sự hợp thành của những yếu tố như thế giới quan, tâm lí, khí chất, cá tính sinh hoạt… Phong cách của nhà văn cũng mang dấu ấn của dân tộc và thời đại.

– Có thể nhận ra phong cách của nhà văn trong tác phẩm. Có bao nhiêu yếu tố trong tác phẩm thì có bấy nhiêu chỗ cho phong cách nhà văn thể hiện. Cụ thể:

+ Qua cái nhìn, cách cảm thụ giàu tính khám phá nghệ thuật đối với cuộc đời

+ Qua giọng điệu riêng, gắn liền với cảm hứng sáng tác

+ Nét riêng trong sự lựa chọn, xử lý đề tài, xác định chủ đề, xác định đối tượng miêu tả…

+ Tính thống nhất, ổn định trong cách sử dụng các phương thức và phương tiện nghệ thuật

- Các biểu hiện của phong cách văn học không tồn tại tách rời mà bao hàm lẫn nhau hay tồn tại thông qua nhau. Tất cả tạo thành một nguyên tắc xuyên suốt trong việc xây dựng hình thức nghệ thuật, đem lại cho hiện tượng văn học một tính chỉnh thể toàn vẹn.

- Làm rõ cách hiểu của bản thân qua một vài sáng tác [thuộc văn học lãng mạn Việt Nam 1930-1945] của một tác giả đã học, đọc thêm.

Học sinh có thể chọn một vài tác phẩm của một cây bút lãng mạn [thơ hoặc văn xuôi]: Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Thạch Lam, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử, Huy Cận…. Tuy nhiên học sinh phải đảm bảo yêu cầu:

+ Tác phẩm, tác giả được chọn để minh hoạ là văn học lãng mạn thuộc giai đoạn 1930-1945.

+ Phần minh hoạ phải bám sát vấn đề lí luận đã lí giải, phải làm nổi bật nét độc đáo [cái mới] mà tác giả đem đến cho văn học, nghĩa là cách cảm nhận độc đáo về thế giới và hệ thống bút pháp phù hợp với cách cảm nhận ấy được tác giả thể hiện như thế nào trong tác phẩm.

+ Quá trình lấy dẫn chứng, học sinh phải nhìn nhận tác phẩm theo nguyên tắc chỉnh thể [vì các biểu hiện của phong cách văn học không tồn tại tách rời mà bao hàm lẫn nhau hay tồn tại thông qua nhau].

Đọc thêm:

  • Yếu tố quan trọng bậc nhất của truyện ngắn là những chi tiết cô đúc
  • Nghị luận Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật

Bài văn mẫu nghị luậnPhong cách là chỗ độc đáo về tư tưởngtrong sáng tác của những nhà văn ưu tú

IX Tuocgiochu đã từng quan niệm, cái quan trọng trong tài năng văn học là tiếng nói không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kỳ người nào khác. Đúng như vậy, văn học là bộ môn nghệ thuật đề cao cái nhìn chủ quan, đề cao cá tính sáng tạo của tác giả, mỗi tác phẩm mà họ viết ra hàm chứa chính tư tưởng, cá tính và phong cách của họ. Thể hiện được điều đó trong một tác phẩm văn học. Nhưng không phải dễ dàng, nó thực sự chỉ nằm ở những nhà văn có tài năng và tâm huyết. Bàn về điều này, sách lý luận văn học của Phương Lựa chủ biên đã viết phong cách là chỗ độc đáo về tư tưởng cũng như nghệ thuật có phẩm chất thẩm mỹ, thể hiện trong sáng tác của những nhà văn ưu Tú. Thể hiện rõ nhất cho những ý kiến đó chính là những sáng tác của Thạch Lam một nhà văn hiện thực và lãng mạn
Xê khốp đã cho rằng: “Nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó không bao giờ là nhà văn cả, nếu anh không có giọng riêng, anh ta khó trở thành nhà văn hiện thực”. Quả thực phong cách nghệ thuật là một phạm vi quan trọng trong văn chương đó chính là chỗ độc đáo về tư tưởng hay nói cách khác phong cách nghệ thuật là một phạm trù thẩm mỹ, chỉ sự thống nhất tương đối của hệ thống hình tượng, biểu hiện nghệ thuật nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn. Trong tác phẩm riêng lẻ, trào lưu văn học hay trong văn học dân tộc, nhận định của Phương Lựu khái niệm phong cách được đề cập là phong cách nghệ thuật của nhà văn. Không phải bất cứ nhà văn nào cũng có phong cách chỉ có những nhà văn có tài năng, có bản lĩnh như nhà văn ưu tú mới có được phong cách riêng độc đáo. Những nhà văn phong cách chính là đem lại một tiếng nói mới trong văn học, đó là sự độc đáo mà đa dạng bền vững luôn đổi mới. Đặc biệt nó phải có tính chất thẩm mỹ dồi dào, phong cách không chỉ biểu hiện sự trưởng thành của nhà văn khi tài năng nở rộ mà còn là bằng chứng của một nền văn học đã trưởng thành.

Phong cách nghệ thuật, có cội nguồn từ cá tính sáng tạo của mỗi nhà văn. Cá tính sáng tạo là sự hợp thành của những yếu tố như thế giới quan, tâm lý, khí chất, cá tính sinh hoạt phong cách từ đó mà trưởng thành nên cũng mang dấu ấn của dân tộc và thời đại. Có thể dễ dàng nhận ra rằng phong cách của nhà văn trong tác phẩm có bao nhiêu yếu tố trong tác phẩm thì có bấy nhiêu chỗ cho phong cách nhà văn thể hiện.

 

Cụ thể là qua cách nhìn, cách cảm thụ giàu tính khám phá nghệ thuật đối với cuộc đời qua giọng điệu riêng gắn liền với cảm hứng sáng tác. Phong cách còn được biểu hiện qua nét riêng trong sự lựa chọn xử lý, đề tài xác định, chủ đề, đối tượng miêu tả, cuối cùng phong cách thể hiện ở tính thống nhất, ấn định trong cách sử dụng các phương thức và phương tiện nghệ thuật. Các biểu hiện của phong cách văn học không tồn tại, tách rời mà hàm chứa lẫn nhau, tất cả tạo thành một nguyên tắc xuyên suốt trong việc xây dựng hình tượng nghệ thuật, đem lại cho hiện tượng văn học một chỉnh thể vẹn toàn. Và những tác phẩm của Thạch Lam cụ thể là truyện ngắn của ông đã mang phong cách ấn tượng, sâu sắc khó quên trong người đọc.

Đến với phong cách Thạch Lam, người ta sẽ không quên được việc lựa chọn cốt truyện của ông. chuyện của ông thường không có cốt truyện, không giàu sự tình, hành động mà chỉ đi sâu vào tâm trạng, không khí. Biểu hiện rõ cho điều đó chính là truyện ngắn “Hai đứa trẻ” chuyện nhẹ nhàng chỉ như một bài thơ nhưng khó quên dưới ngòi bút của Thạch Lam. Con người nhịp điệu cuộc sống hiện ra đều phải hồi hộp chờ đợi tất cả thoang thoảng, man mác và vẩn vơ theo tâm trạng nhân vật Liên.

Từ buổi chiều hết báo hiệu bằng tiếng trống cầm canh với những hoạt động hết sức quen thuộc và bình dị của con người. Gọi là truyện mà không có tình huống, không có sự kiện, đó chỉ là vài hành động của chị Tí, của bác Siêu, của Liên và An. Chủ yếu Thạch Lam khai thác truyện nhẹ nhàng, bay bổng, Chính điều đó làm nên nét riêng của tác phẩm.
Nếu như “Hai đứa trẻ” diễn ra trong một khoảng thời gian ngắn chỉ từ chiều cho đến đêm thì chuyện “Nhà mẹ Lê” lại diễn ra lâu hơn, dài hơn nhưng cũng như “Hai đứa trẻ”, “Nhà mẹ Lê” cũng là một truyện ngắn, ít tình tiết, ít mâu thuẫn. chuyện chỉ kể quang cảnh sinh hoạt của một xóm trọ tồi tàn, rách nát mà chú ý nhiều đến mẹ Lê. Đó là những mảnh đời nhỏ nhoi, hạnh phúc khi có được một bữa cơm no nê sum vầy. Nhưng niềm hạnh phúc đó có kéo dài được bao lâu bởi cái nghèo đã bám lấy họ từ khi sinh ra đến năm đói rét không có người mua kẻ bán, mùa màng kém đi. Nhà mẹ Lê vừa đói vừa rét khiến bà phải đi xin gạo, nhưng thật đau đớn khi gạo thì không xin được mà bà phải chết do chó cắn, bỏ lại bầy con nheo nhóc, nhỏ bé nơi căn lều rách nát, tồi tàn ấy. Không gay cấn, không hồi hộp nhưng khi đọc xong ta cứ ám ảnh, ta cảm thấy đau đớn quằn quại da diết khuôn nguôi. Nó cứ ám ảnh người ta bằng những dòng máu chảy trên đùi của mẹ Lê, những cái gào khi cơn sốt hoành hành và hình ảnh bầy con nheo nhóc. Càng đọc tác phẩm càng nghĩ Thạch Lam thật tài bởi phong cách viết truyện tưởng chừng như nghịch lý lại làm rung động biết bao con tim.

Đọc văn Thạch Lam phong cách của ông còn được thể hiện rõ ở tài phân tích tâm lí nhân vật, đến với “Hai đứa trẻ” nó được thể hiện ở những nét tinh tế nhẹ nhàng và cảm xúc tâm trạng tình cảm của Liên trước cảnh chiều về, đêm xuống và cảnh khuya khi tiếng trống thu không vang xa báo hiệu một ngày đã về. Liên cảm nhận được mọi cảnh vật xung quanh “phương tây” đỏ rực như lửa cháy những áng mây ánh hồng như hòn than sắp tàn, dãy tre làng đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời, một buổi chiều như một bức tranh lụa thật êm và thật đẹp, nhưng không hiểu sao trong Liên lại có cái buồn man mác, thấm dần vào tâm hồn. Đêm đến khi bóng tối bắt đầu len lỏi vào từng góc phố con đường ngõ xóm, Liên vẫn ngồi ngắm nhìn Phố huyện cảm nhận mùi ẩm ẩm của đất bốc lên đó là mùi riêng của quê hương, liên nhìn xung quanh thấy những đứa trẻ nhà nghèo lom khom nhặt nhạnh những gì còn có thể dùng được khi chợ tàn mà người bán hàng bỏ lại. Liên động lòng thương nhưng chính Liên cũng không có gì để cho bọn chúng, quả thực Liên thật nhân hậu và thương người. Càng về đêm Liên vẫn mơ màng ngồi trên chiếc chõng quan sát mọi thứ xung quanh bằng tình cảm yêu thương, đó là hình ảnh ánh sáng và bóng tối quen thuộc. Ánh sáng thì thật nhỏ bé, chỉ là tia sáng, hạt sáng, quầng sáng. Ánh sáng của vì sao làm cho Liên nhìn ra dãy ngân hà với ông Thần Nông và bầy vịt trời còn bóng tối thì bao la của vây khắp mọi nơi.

Thạch Lam Thật tài tình khi không chỉ miêu tả sự tinh tế trong tâm hồn nhân vật, mà còn bộc lộ được sự yêu thương qua nhân vật của mình. Đối với Liên, cô đã bộc lộ tình cảm của mình khi thấy mọi sự cố gắng của tất cả mọi người, vì cuộc sống mưu sinh hình ảnh mẹ con chị Tí với gánh hàng nước vẫn mở, hình ảnh bác Sẩm với gia đình bên manh chiếu rách, hình ảnh gánh phở ế khách của bác Siêu, tất cả đều làm cho Liên động lòng thương cảm thêm một chút gia vị cho tâm hồn Liên.

Hình ảnh con tàu đêm đến sẽ khiến cho những con người nơi đây kiếm thêm chút gì đó và Liên cũng thế, Liên đợi đoàn tàu cũng vì nghe lời mẹ dặn chờ xem còn khách không để bán hàng thế nhưng mấy năm nay mùa màng kém, có bán thì cũng chẳng được là bao. Liên đợi tàu vì lý do khác, đó là vì muốn nhìn thấy một hoạt động sôi nổi nhất trong ngày để xua đi cái yên tĩnh đến đáng sợ nơi phố huyện này. Đoàn tàu từ quá khứ tươi đẹp sung sướng của Liên mang theo ánh sáng sặc sỡ và âm thanh nhộn nhịp đánh thức tâm hồn nhạy cảm trong đêm. Liên mơ tưởng xa xăm Hà Nội vui vẻ sáng rực rỡ và huyên náo, mơ tưởng tới những thứ quả đắt tiền, những cốc nước xanh đỏ những buổi đi chơi dạo hồ hóng mát thật đẹp đẽ và ý nghĩa biết bao. Giờ đây Liên sống trong một thế giới khác – một ao đời phẳng lặng đoàn tàu chỉ đến và qua mau, trả lại cho phố huyện cái yên tĩnh vốn có và trả lại cho Liên một tâm hồn, một trái tim được buồn như bao ngày.

Đến với “Nhà mẹ Lê” cảm xúc của nhân vật được bộc lộ rõ khi thời khắc rời xa cuộc đời đến gần bị chó tây cắn. Mẹ lên cơn sốt mê sảng cứ giật lên từng đợt, cùng với trận sốt kinh hoàng. Trong cơn mê sảng đó bà nhớ lại những ngày hạnh phúc trong cuộc đời, những ngày đủ ăn, đủ mặc được đi làm thuê, lấy tiền lấy gạo về nuôi con. Bà cảm thấy sung sướng khi con được ăn no được sum vầy. Đọc truyện ta như mỉm cười cùng với bà, hạnh phúc cùng với người phụ nữ bất hạnh nhưng thật thà và nhân hậu này rồi sau cái sung sướng, sau cái hạnh phúc kia trong đầu bà lại nghĩ đến cái cảnh sang trọng trong nhà ông Bá, nhớ đến cái trò nghịch ngợm của cậu Phúc, nhớ đến con chó tây nhe răng ra cắn bà, cái đó đã đáng sợ rồi nhưng nó không đáng sợ bằng cái rét hoành hành con bà. Nghĩ là xé lòng, ta cảm được tấm lòng bao dung của một người mẹ, kể cả lúc rời xa cõi đời, rời xa cuộc sống, càng nghĩ càng đau thi thoảng bà lại kêu lên “Trời ơi sao tôi khổ thế này”. Tiếng kêu thất thanh đó vừa làm giật mình lũ con, vừa làm chảy nước mắt trong tim bao nhiêu người. Càng đọc, càng ngẫm ta lại càng thương vì cảm xúc của mẹ Lê thật sâu đậm và mãnh liệt.
Đọc truyện Thạch Lam, một nhà văn lãng mạn nên thư pháp đối lập tương phản được ông sử dụng khá phổ biến và thành công trong các truyện ngắn của mình. Đến với “Hai đứa trẻ” điều đó được thể hiện rõ qua sự tương phản, giữa ánh sáng và bóng tối nơi phố huyện. Ánh sáng thì leo lét, tù mù chỉ là những tia sáng của vì sao trên trời, ánh sáng của đèn dầu qua phiên nứa, vệt sáng của những con đom đóm. Nhưng ngược lại, với ánh sáng là bóng tối nó bủa vây bao trùm khắp toàn bộ Phố huyện, tối hết cả con đường vào làng, ra sông hay là sự tương phản của quá khứ tươi đẹp với hiện thực tối tăm của Liên. Khi thầy chưa mất việc Liên còn sống trong no đủ, được hưởng thụ không thiếu thứ gì. Nhưng giờ đây tuổi thơ của cô đã bị buộc chặt với căn hàng nhỏ xíu nơi phố huyện nghèo này, rồi đó là sự đối lập của ánh sáng đoàn tàu với ánh sáng, phố huyện giữa sự huyên náo vui vẻ với sự tĩnh lặng bằng phẳng giữa cái cao cả và bần hàn, giữa thành thị và nông thôn, giữa thiên nhiên và con người, tất cả làm cho truyện trở nên sinh động hơn, ấn tượng hơn và ý nghĩa hơn đối với người đọc.

Nhà mẹ Lê” thì khác dường như truyện ít hơn so với “hai đứa trẻ” đọc “nhà mẹ Lê” ta chỉ bắt gặp cảnh sống nghèo nàn rách rưới, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc với cảnh giàu sang quyền quý trong nhà ông Bá nào là cây cảnh, câu đối, thiếp vàng, sáng loáng. Sự đối lập đó, cho ta thấy cái bất bình về xã hội, cái tàn nhẫn về số phận mà mỗi người phải chịu. Ai cũng có thể dễ dàng nhận ra đó là sự đối lập giữa những con người lao động hiền lành như mẹ Lê với những kẻ độc ác tham lam như ông Bá, cậu Phúc…có thể thấy rằng ở mỗi truyện ngắn, nghệ thuật tương phản đối lập được sử dụng với tần số và cách thức khác nhau nhưng đều chung một điểm là với cú pháp này ý nghĩa của những nội dung ở mỗi câu truyện ngắn được tăng rất cao.

Cuối cùng phong cách của Nhà văn Thạch Lam còn được thể hiện ở những câu văn và miêu tả giàu chất thơ với giọng điệu tâm tình sâu sắc ở truyện ngắn “Hai đứa trẻ” bức tranh thiên nhiên hiện lên là một mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát với vòm trời huyền bí lấp lánh những vì sao, những con đom đóm lập lòe, những chi tiết nhỏ thơ mộng đã làm giảm bớt màu sắc ảm đạm, u tối của bức tranh đời nơi phố huyện yên tĩnh này. Chất thơ trong “Hai đứa trẻ” đã tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt của truyện ngắn này. Thạch Lam đã phát hiện ra được cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới – đó là cái đẹp kín đáo bị khuất lấp bởi đời sống nhọc nhằn mà chỉ tâm hồn tinh tế, hồn hậu mới có thể cảm nhận được hết chất thơ trong “Hai đứa trẻ” đem đến cho người đọc cái gì nhẹ nhàng, man mát mà rất mực yêu thương và đồng cảm.

Với “Nhà mẹ Lê” cũng vậy, những câu văn tâm tình sâu sắc, nhưng chất thơ đó lại được bộc lộ, lại đem đến cho người đọc cái vui sướng, hạnh phúc trong cái khổ đau cực vật chất, đời thường. Đó là “những đêm sáng trăng mùa hạ cả phố bắc chõng ngồi ngoài đường, dưới bóng trăng những đá giải đường đen và lấp lánh sáng. Mọi người gặp nhau nói chuyện, trẻ con nghịch chạy quanh các bà mẹ” một cái gì đó ấm cúng khác thường, cái chất thơ cái tâm tình trong truyện ngắn của Thạch Lam phản ánh đúng bản chất con người ông, điềm đạm và tinh tế và hơn thế chất thơ trong truyện ngắn của Thạch Lam còn thể hiện một trong những tôn chỉ của ông trong việc sáng tạo nghệ thuật. Đó là làm cho tâm hồn con người trở nên trong sáng và phong phú hơn.

Xuất hiện trên tao đàn văn học vào thời kỳ có nhiều biến động. Chỉ với 6 năm cầm bút, thế nhưng phong cách của Thạch Lam đã in đậm vào nền văn học dân tộc. Ý kiến của Phương Lựu không chỉ đúng với Thạch Lam, đúng với mọi tác giả mà còn đặt ra yêu cầu trong quá trình lao động nghệ thuật và phương thức nghệ thuật đối với nhà văn phải luôn có một phong cách riêng của mình. Cố gắng giữ vững phong cách đó bằng những tư tưởng cũng như nghệ thuật độc đáo, đưa tác phẩm của mình để khẳng định trước độc giả đối với người đọc trong quá trình tiếp thu các tác phẩm của một tác giả phải nhìn nhận phong cách của tác giả đó một cách đúng đắn. Phải biết tôn trọng tài năng, đồng thời mở lòng mình để đón nhận những điều tinh tế mà phong cách đó đem lại.

Phong cách đem đến chỗ đứng cho các nhà văn, nhà thơ. Thiếu phong cách thì đó quả thật không phải một người thơ văn chương thực thụ càng không phải là nhà văn ưu tú. Nguyễn Tuân, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng… là những cây bút có phong cách độc đáo có tài năng thực thụ và Thạch Lam cũng như vậy. Đọc truyện của Thạch Lam như một làn gió nhẹ man mác thổi qua tâm hồn con người, đem đến cho nó cái dư vị của yêu thương, của xúc cảm dạt dào qua “Hai đứa trẻ”, “Nhà mẹ Lê” và nhiều tác phẩm khác của ông ta càng phục càng kính nể cho một nhà văn có phong cách đặc biệt, thấm đẫm tư tưởng nhân đạo đưa con người tới bến bờ của tương lai tình yêu và hạnh phúc.

-/-

Các em vừa tham khảo mẫu dàn ý chi tiết và bài văn mẫu hay nghị luận về ý kiến:Phong cách là chỗ độc đáo về tư tưởng cũng như nghệ thuật có phẩm chất thẩm mĩcủa những nhà văn ưu tú. Tham khảo thêm những bài văn mẫu hay khác tại mục tài liệu Văn mẫu 12 do Đọc Tài Liệu tổng hợp giúp nâng cao kĩ năng làm văn nói chung và văn nghị luận nói riêng. Chúc các em học tốt !

 

1. Thơ là tình cảm, cảm xúc

Âm điệu những vần thơ tự bao giờ đã ngân vang trong trái tim tôi. Là giọng ru ngọt ngào của mẹ, là câu thơ dậy lên màu xanh mướt của ruộng đồng, là tiếng ca lảnh lót của niềm yêu đời. Mỗi bài thơ mở ra một hình sắc riêng, một cảm xúc riêng về thế giới. “Từ đây bạn có thể liên hệ đến một câu nhận định về thơ là tình cảm nồng cháy mãnh liệt của ai đó.”

Hay :

Biển cả nghìn năm không ngừng dào dạt sóng. Sóng biển có lúc êm đềm nhưng cũng có khi thét gào dữ dội. Tâm hồn con người cũng như biển vậy. Thi nhân xúc cảm trước cuộc đời mà viết nên thơ. Con sóng lòng tràn bờ, tràn trên con chữ thành thơ.”Từ đây bạn có thể liên hệ đến một câu nhận định về thơ là cảm xúc, tình cảm”.

Hoặc :

Từ khi Ađam và Eva sinh ra trong khu vườn của chúa, con người đã có bao nỗi niềm cần gửi gắm. Kể từ khi con người cất lên tiếng gọi đầu tiên, đã có bao điều muốn tỏ bày. Sẻ chia cùng con người, thơ đến như một người bạn trải mình lắng nghe con người tâm sự. Tố Hữu từng nói : ” Thơ chỉ bật ra khi cuộc sống đã đủ đầy”.

2. Sức sống của một tác phẩm văn học

Cuộc sống trôi đi, bốn mùa luân chuyển, sinh vật cứ bị cuốn trôi vào vòng xoay của tạo hóa. Sinh ra, tồn tại, rồi lại tan biến vào hư vô. Có chăng còn lại với đời chỉ là cái đẹp, phải thế chăng mà vượt qua bao sự băng hoại của thời gian, những tác phẩm văn học vẫn cháy lên một sức sống mãnh liệt với đời như thể để chứng minh một sự thiên vị của tạo hóa.“Từ đây bạn có thể liên hệ đến một câu nhận định về văn chương, sức sống còn neo đậu trong lòng người đọc”.

Văn học là cuộc sống

Hay :

” Diệp phong một chiều lá cuốn

Địa đàng rơi lệ tiếc thương

Bình minh sau ngày khuất dấu

Nhân sinh rực rỡ nào lâu? “

Những câu thơ của Robert Frost vào những ngày chuyển thu như một lời thì thầm buộc con người phải suy ngẫm. Nó như một lời gợi nhắc về sự xoay chuyển, chênh vênh vô định của con người trong cuộc hành trình tìm kiếm hạnh phúc. Thế nhưng đôi khi chính chúng ta lại vô tình lãng quên rằng vẻ đẹp thật sự của giá trị tâm hồn ấy đang nằm trong tay ta.

 

Trả lời:

“Phong cách là chỗ độc đáo về tư tưởng cũng như nghệ thuật có phẩm chất thẩm mĩ thể hiện trong sáng tác của những nhà văn ưu tú.”

IX Tuocgiochu đã từng quan niệm, cái quan trọng trong tài năng văn học là tiếng nói không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kỳ người nào khác. Đúng như vậy, văn học là bộ môn nghệ thuật đề cao cái nhìn chủ quan, đề cao cá tính sáng tạo của tác giả, mỗi tác phẩm mà họ viết ra hàm chứa chính tư tưởng, cá tính và phong cách của họ. Thể hiện được điều đó trong một tác phẩm văn học. Nhưng không phải dễ dàng, nó thực sự chỉ nằm ở những nhà văn có tài năng và tâm huyết. Bàn về điều này, sách lý luận văn học của Phương Lựa chủ biên đã viết phong cách là chỗ độc đáo về tư tưởng cũng như nghệ thuật có phẩm chất thẩm mỹ, thể hiện trong sáng tác của những nhà văn ưu Tú. Thể hiện rõ nhất cho những ý kiến đó chính là những sáng tác của Thạch Lam một nhà văn hiện thực và lãng mạn


Xê khốp đã cho rằng: “Nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó không bao giờ là nhà văn cả, nếu anh không có giọng riêng, anh ta khó trở thành nhà văn hiện thực”. Quả thực phong cách nghệ thuật là một phạm vi quan trọng trong văn chương đó chính là chỗ độc đáo về tư tưởng hay nói cách khác phong cách nghệ thuật là một phạm trù thẩm mỹ, chỉ sự thống nhất tương đối của hệ thống hình tượng, biểu hiện nghệ thuật nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn. Trong tác phẩm riêng lẻ, trào lưu văn học hay trong văn học dân tộc, nhận định của Phương Lựu khái niệm phong cách được đề cập là phong cách nghệ thuật của nhà văn. Không phải bất cứ nhà văn nào cũng có phong cách chỉ có những nhà văn có tài năng, có bản lĩnh như nhà văn ưu tú mới có được phong cách riêng độc đáo. Những nhà văn phong cách chính là đem lại một tiếng nói mới trong văn học, đó là sự độc đáo mà đa dạng bền vững luôn đổi mới. Đặc biệt nó phải có tính chất thẩm mỹ dồi dào, phong cách không chỉ biểu hiện sự trưởng thành của nhà văn khi tài năng nở rộ mà còn là bằng chứng của một nền văn học đã trưởng thành.

Phong cách nghệ thuật, có cội nguồn từ cá tính sáng tạo của mỗi nhà văn. Cá tính sáng tạo là sự hợp thành của những yếu tố như thế giới quan, tâm lý, khí chất, cá tính sinh hoạt phong cách từ đó mà trưởng thành nên cũng mang dấu ấn của dân tộc và thời đại. Có thể dễ dàng nhận ra rằng phong cách của nhà văn trong tác phẩm có bao nhiêu yếu tố trong tác phẩm thì có bấy nhiêu chỗ cho phong cách nhà văn thể hiện.

Cụ thể là qua cách nhìn, cách cảm thụ giàu tính khám phá nghệ thuật đối với cuộc đời qua giọng điệu riêng gắn liền với cảm hứng sáng tác. Phong cách còn được biểu hiện qua nét riêng trong sự lựa chọn xử lý, đề tài xác định, chủ đề, đối tượng miêu tả, cuối cùng phong cách thể hiện ở tính thống nhất, ấn định trong cách sử dụng các phương thức và phương tiện nghệ thuật. Các biểu hiện của phong cách văn học không tồn tại, tách rời mà hàm chứa lẫn nhau, tất cả tạo thành một nguyên tắc xuyên suốt trong việc xây dựng hình tượng nghệ thuật, đem lại cho hiện tượng văn học một chỉnh thể vẹn toàn. Và những tác phẩm của Thạch Lam cụ thể là truyện ngắn của ông đã mang phong cách ấn tượng, sâu sắc khó quên trong người đọc.

Đến với phong cách Thạch Lam, người ta sẽ không quên được việc lựa chọn cốt truyện của ông. chuyện của ông thường không có cốt truyện, không giàu sự tình, hành động mà chỉ đi sâu vào tâm trạng, không khí. Biểu hiện rõ cho điều đó chính là truyện ngắn “Hai đứa trẻ” chuyện nhẹ nhàng chỉ như một bài thơ nhưng khó quên dưới ngòi bút của Thạch Lam. Con người nhịp điệu cuộc sống hiện ra đều phải hồi hộp chờ đợi tất cả thoang thoảng, man mác và vẩn vơ theo tâm trạng nhân vật Liên.

Từ buổi chiều hết báo hiệu bằng tiếng trống cầm canh với những hoạt động hết sức quen thuộc và bình dị của con người. Gọi là truyện mà không có tình huống, không có sự kiện, đó chỉ là vài hành động của chị Tí, của bác Siêu, của Liên và An. Chủ yếu Thạch Lam khai thác truyện nhẹ nhàng, bay bổng, Chính điều đó làm nên nét riêng của tác phẩm.
Nếu như “Hai đứa trẻ” diễn ra trong một khoảng thời gian ngắn chỉ từ chiều cho đến đêm thì chuyện “Nhà mẹ Lê” lại diễn ra lâu hơn, dài hơn nhưng cũng như “Hai đứa trẻ”, “Nhà mẹ Lê” cũng là một truyện ngắn, ít tình tiết, ít mâu thuẫn. chuyện chỉ kể quang cảnh sinh hoạt của một xóm trọ tồi tàn, rách nát mà chú ý nhiều đến mẹ Lê. Đó là những mảnh đời nhỏ nhoi, hạnh phúc khi có được một bữa cơm no nê sum vầy. Nhưng niềm hạnh phúc đó có kéo dài được bao lâu bởi cái nghèo đã bám lấy họ từ khi sinh ra đến năm đói rét không có người mua kẻ bán, mùa màng kém đi. Nhà mẹ Lê vừa đói vừa rét khiến bà phải đi xin gạo, nhưng thật đau đớn khi gạo thì không xin được mà bà phải chết do chó cắn, bỏ lại bầy con nheo nhóc, nhỏ bé nơi căn lều rách nát, tồi tàn ấy. Không gay cấn, không hồi hộp nhưng khi đọc xong ta cứ ám ảnh, ta cảm thấy đau đớn quằn quại da diết khuôn nguôi. Nó cứ ám ảnh người ta bằng những dòng máu chảy trên đùi của mẹ Lê, những cái gào khi cơn sốt hoành hành và hình ảnh bầy con nheo nhóc. Càng đọc tác phẩm càng nghĩ Thạch Lam thật tài bởi phong cách viết truyện tưởng chừng như nghịch lý lại làm rung động biết bao con tim.

Đọc văn Thạch Lam phong cách của ông còn được thể hiện rõ ở tài phân tích tâm lí nhân vật, đến với “Hai đứa trẻ” nó được thể hiện ở những nét tinh tế nhẹ nhàng và cảm xúc tâm trạng tình cảm của Liên trước cảnh chiều về, đêm xuống và cảnh khuya khi tiếng trống thu không vang xa báo hiệu một ngày đã về. Liên cảm nhận được mọi cảnh vật xung quanh “phương tây” đỏ rực như lửa cháy những áng mây ánh hồng như hòn than sắp tàn, dãy tre làng đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời, một buổi chiều như một bức tranh lụa thật êm và thật đẹp, nhưng không hiểu sao trong Liên lại có cái buồn man mác, thấm dần vào tâm hồn. Đêm đến khi bóng tối bắt đầu len lỏi vào từng góc phố con đường ngõ xóm, Liên vẫn ngồi ngắm nhìn Phố huyện cảm nhận mùi ẩm ẩm của đất bốc lên đó là mùi riêng của quê hương, liên nhìn xung quanh thấy những đứa trẻ nhà nghèo lom khom nhặt nhạnh những gì còn có thể dùng được khi chợ tàn mà người bán hàng bỏ lại. Liên động lòng thương nhưng chính Liên cũng không có gì để cho bọn chúng, quả thực Liên thật nhân hậu và thương người. Càng về đêm Liên vẫn mơ màng ngồi trên chiếc chõng quan sát mọi thứ xung quanh bằng tình cảm yêu thương, đó là hình ảnh ánh sáng và bóng tối quen thuộc. Ánh sáng thì thật nhỏ bé, chỉ là tia sáng, hạt sáng, quầng sáng. Ánh sáng của vì sao làm cho Liên nhìn ra dãy ngân hà với ông Thần Nông và bầy vịt trời còn bóng tối thì bao la của vây khắp mọi nơi.

Thạch Lam Thật tài tình khi không chỉ miêu tả sự tinh tế trong tâm hồn nhân vật, mà còn bộc lộ được sự yêu thương qua nhân vật của mình. Đối với Liên, cô đã bộc lộ tình cảm của mình khi thấy mọi sự cố gắng của tất cả mọi người, vì cuộc sống mưu sinh hình ảnh mẹ con chị Tí với gánh hàng nước vẫn mở, hình ảnh bác Sẩm với gia đình bên manh chiếu rách, hình ảnh gánh phở ế khách của bác Siêu, tất cả đều làm cho Liên động lòng thương cảm thêm một chút gia vị cho tâm hồn Liên.

Hình ảnh con tàu đêm đến sẽ khiến cho những con người nơi đây kiếm thêm chút gì đó và Liên cũng thế, Liên đợi đoàn tàu cũng vì nghe lời mẹ dặn chờ xem còn khách không để bán hàng thế nhưng mấy năm nay mùa màng kém, có bán thì cũng chẳng được là bao. Liên đợi tàu vì lý do khác, đó là vì muốn nhìn thấy một hoạt động sôi nổi nhất trong ngày để xua đi cái yên tĩnh đến đáng sợ nơi phố huyện này. Đoàn tàu từ quá khứ tươi đẹp sung sướng của Liên mang theo ánh sáng sặc sỡ và âm thanh nhộn nhịp đánh thức tâm hồn nhạy cảm trong đêm. Liên mơ tưởng xa xăm Hà Nội vui vẻ sáng rực rỡ và huyên náo, mơ tưởng tới những thứ quả đắt tiền, những cốc nước xanh đỏ những buổi đi chơi dạo hồ hóng mát thật đẹp đẽ và ý nghĩa biết bao. Giờ đây Liên sống trong một thế giới khác – một ao đời phẳng lặng đoàn tàu chỉ đến và qua mau, trả lại cho phố huyện cái yên tĩnh vốn có và trả lại cho Liên một tâm hồn, một trái tim được buồn như bao ngày.

Đến với “Nhà mẹ Lê” cảm xúc của nhân vật được bộc lộ rõ khi thời khắc rời xa cuộc đời đến gần bị chó tây cắn. Mẹ lên cơn sốt mê sảng cứ giật lên từng đợt, cùng với trận sốt kinh hoàng. Trong cơn mê sảng đó bà nhớ lại những ngày hạnh phúc trong cuộc đời, những ngày đủ ăn, đủ mặc được đi làm thuê, lấy tiền lấy gạo về nuôi con. Bà cảm thấy sung sướng khi con được ăn no được sum vầy. Đọc truyện ta như mỉm cười cùng với bà, hạnh phúc cùng với người phụ nữ bất hạnh nhưng thật thà và nhân hậu này rồi sau cái sung sướng, sau cái hạnh phúc kia trong đầu bà lại nghĩ đến cái cảnh sang trọng trong nhà ông Bá, nhớ đến cái trò nghịch ngợm của cậu Phúc, nhớ đến con chó tây nhe răng ra cắn bà, cái đó đã đáng sợ rồi nhưng nó không đáng sợ bằng cái rét hoành hành con bà. Nghĩ là xé lòng, ta cảm được tấm lòng bao dung của một người mẹ, kể cả lúc rời xa cõi đời, rời xa cuộc sống, càng nghĩ càng đau thi thoảng bà lại kêu lên “Trời ơi sao tôi khổ thế này”. Tiếng kêu thất thanh đó vừa làm giật mình lũ con, vừa làm chảy nước mắt trong tim bao nhiêu người. Càng đọc, càng ngẫm ta lại càng thương vì cảm xúc của mẹ Lê thật sâu đậm và mãnh liệt.
Đọc truyện Thạch Lam, một nhà văn lãng mạn nên thư pháp đối lập tương phản được ông sử dụng khá phổ biến và thành công trong các truyện ngắn của mình. Đến với “Hai đứa trẻ” điều đó được thể hiện rõ qua sự tương phản, giữa ánh sáng và bóng tối nơi phố huyện. Ánh sáng thì leo lét, tù mù chỉ là những tia sáng của vì sao trên trời, ánh sáng của đèn dầu qua phiên nứa, vệt sáng của những con đom đóm. Nhưng ngược lại, với ánh sáng là bóng tối nó bủa vây bao trùm khắp toàn bộ Phố huyện, tối hết cả con đường vào làng, ra sông hay là sự tương phản của quá khứ tươi đẹp với hiện thực tối tăm của Liên. Khi thầy chưa mất việc Liên còn sống trong no đủ, được hưởng thụ không thiếu thứ gì. Nhưng giờ đây tuổi thơ của cô đã bị buộc chặt với căn hàng nhỏ xíu nơi phố huyện nghèo này, rồi đó là sự đối lập của ánh sáng đoàn tàu với ánh sáng, phố huyện giữa sự huyên náo vui vẻ với sự tĩnh lặng bằng phẳng giữa cái cao cả và bần hàn, giữa thành thị và nông thôn, giữa thiên nhiên và con người, tất cả làm cho truyện trở nên sinh động hơn, ấn tượng hơn và ý nghĩa hơn đối với người đọc.

“Nhà mẹ Lê”thì khác dường như truyện ít hơn so với “hai đứa trẻ” đọc “nhà mẹ Lê” ta chỉ bắt gặp cảnh sống nghèo nàn rách rưới, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc với cảnh giàu sang quyền quý trong nhà ông Bá nào là cây cảnh, câu đối, thiếp vàng, sáng loáng. Sự đối lập đó, cho ta thấy cái bất bình về xã hội, cái tàn nhẫn về số phận mà mỗi người phải chịu. Ai cũng có thể dễ dàng nhận ra đó là sự đối lập giữa những con người lao động hiền lành như mẹ Lê với những kẻ độc ác tham lam như ông Bá, cậu Phúc…có thể thấy rằng ở mỗi truyện ngắn, nghệ thuật tương phản đối lập được sử dụng với tần số và cách thức khác nhau nhưng đều chung một điểm là với cú pháp này ý nghĩa của những nội dung ở mỗi câu truyện ngắn được tăng rất cao.

Cuối cùng phong cách của Nhà văn Thạch Lam còn được thể hiện ở những câu văn và miêu tả giàu chất thơ với giọng điệu tâm tình sâu sắc ở truyện ngắn “Hai đứa trẻ” bức tranh thiên nhiên hiện lên là một mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát với vòm trời huyền bí lấp lánh những vì sao, những con đom đóm lập lòe, những chi tiết nhỏ thơ mộng đã làm giảm bớt màu sắc ảm đạm, u tối của bức tranh đời nơi phố huyện yên tĩnh này. Chất thơ trong “Hai đứa trẻ” đã tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt của truyện ngắn này. Thạch Lam đã phát hiện ra được cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới – đó là cái đẹp kín đáo bị khuất lấp bởi đời sống nhọc nhằn mà chỉ tâm hồn tinh tế, hồn hậu mới có thể cảm nhận được hết chất thơ trong “Hai đứa trẻ” đem đến cho người đọc cái gì nhẹ nhàng, man mát mà rất mực yêu thương và đồng cảm.

Với “Nhà mẹ Lê” cũng vậy, những câu văn tâm tình sâu sắc, nhưng chất thơ đó lại được bộc lộ, lại đem đến cho người đọc cái vui sướng, hạnh phúc trong cái khổ đau cực vật chất, đời thường. Đó là “những đêm sáng trăng mùa hạ cả phố bắc chõng ngồi ngoài đường, dưới bóng trăng những đá giải đường đen và lấp lánh sáng. Mọi người gặp nhau nói chuyện, trẻ con nghịch chạy quanh các bà mẹ” một cái gì đó ấm cúng khác thường, cái chất thơ cái tâm tình trong truyện ngắn của Thạch Lam phản ánh đúng bản chất con người ông, điềm đạm và tinh tế và hơn thế chất thơ trong truyện ngắn của Thạch Lam còn thể hiện một trong những tôn chỉ của ông trong việc sáng tạo nghệ thuật. Đó là làm cho tâm hồn con người trở nên trong sáng và phong phú hơn.

Xuất hiện trên tao đàn văn học vào thời kỳ có nhiều biến động. Chỉ với 6 năm cầm bút, thế nhưng phong cách của Thạch Lam đã in đậm vào nền văn học dân tộc. Ý kiến của Phương Lựu không chỉ đúng với Thạch Lam, đúng với mọi tác giả mà còn đặt ra yêu cầu trong quá trình lao động nghệ thuật và phương thức nghệ thuật đối với nhà văn phải luôn có một phong cách riêng của mình. Cố gắng giữ vững phong cách đó bằng những tư tưởng cũng như nghệ thuật độc đáo, đưa tác phẩm của mình để khẳng định trước độc giả đối với người đọc trong quá trình tiếp thu các tác phẩm của một tác giả phải nhìn nhận phong cách của tác giả đó một cách đúng đắn. Phải biết tôn trọng tài năng, đồng thời mở lòng mình để đón nhận những điều tinh tế mà phong cách đó đem lại.

Phong cách đem đến chỗ đứng cho các nhà văn, nhà thơ. Thiếu phong cách thì đó quả thật không phải một người thơ văn chương thực thụ càng không phải là nhà văn ưu tú. Nguyễn Tuân, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng… là những cây bút có phong cách độc đáo có tài năng thực thụ và Thạch Lam cũng như vậy. Đọc truyện của Thạch Lam như một làn gió nhẹ man mác thổi qua tâm hồn con người, đem đến cho nó cái dư vị của yêu thương, của xúc cảm dạt dào qua “Hai đứa trẻ”, “Nhà mẹ Lê” và nhiều tác phẩm khác của ông ta càng phục càng kính nể cho một nhà văn có phong cách đặc biệt, thấm đẫm tư tưởng nhân đạo đưa con người tới bến bờ của tương lai tình yêu và hạnh phúc.

Ngoài ra các em có thể cùng Toploigiai tìm hiểu thêm vềPhong cách văn học và những biểu hiện của phong cách văn học dưới đây nhé!

 

Phong cách văn học phong cách nghệ thuật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [67.25 KB, 4 trang ]

 

Phong cách văn học
Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, sáng tạo. Nó đòi hỏi người nghệ sĩ phải có cho riêng
mình một phong cách nghệ thuật nổi bật, khiến người thưởng thức cảm nhận được những nét
riêng biệ, rất mới lạ, đầy bất ngờ,...khơi gợi sự thú vị, lòng hăng say...trong những món ăn tinh
thần được sáng tạo dưới bàn tay tài hoa của người nghệ sĩ đó. Không nằm ngoài lĩnh vực nghệ
thuật nên văn học luôn đòi hỏi người sáng tác phải có một phong cách riêng độc đáo. Nói như
Nam Cao, thì “ văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu
mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những
nguồn chưa ai khơi, sáng tạo những gì chưa có [Đời thừa]”.
Lao động của nhà văn là lao động sáng tạo, nên dù muốn hay không, mỗi nhà văn phải tạo cho
mình một nét riêng, một phong cách nghệ thuật không trộn lẫn. Do đó, có thể coi phong cách là
dấu ấn riêng của người nghệ sĩ in đậm trong các sáng tác nghệ thuật của họ.
Phong cách văn học là một phạm trù thẩm mĩ thể hiện sự tương đối ổn định của hệ thống

 


hình tượng, các phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo, sáng tạo trong quá
trình sáng tác của nhà văn giữa trào lưu văn học - văn hóa dân tộc hayxuyeen suốt dòng chảy
thơ văn của cả một thời đại. Phong cách văn học đem đến cái nhìn mới mẻ, khác lạ của nhà văn
trong việc cảm nhận và phản ánh cuộc sống. Buy-phông đã từng nói: “phong cách chính là
người”. Nó là điều còn lại, là hạt nhân cốt lõi sau khi từ nhà văn, chúng ta bóc đi những cái
không phải là của bản thân anh ta với tất cả những thứ anh ta giống với người khác.
Phong cách nghệ thuật dánh dấu sự trưởng thành và bản lĩnh cá nhân của nhà văn trong sáng
tác. Song không phải nhà văn nào cũng có thể tạo cho mình một dấu ấn cá nhân; không phải
phong cách nào cũng độc đáo và có giá trị. Bởi mỗi tác giả có một cách nhận thức và phản ánh
nhận thức của mình, tuy nhiên chỉ riêng sự khác biệt chưa thể làm nên phong cách. Chỉ những
nhà văn có bản lĩnh và tài năng mới đủ sức tạo ra những nét riêng độc đáo, lặp đi lặp lawij mang
tính thống nhất trong cả nội dung hoặc hình thức tác phẩm, như một loài hoa mang màu sắc và

 


hương thơm riêng. Hay nói cách khác, nhà văn phải có gia tài văn học vừa đa dạng, phong phú
từ thể loại đến số lượng..., vừa có giá trị mà các tác phẩm của họ hợp thành một thể thống
nhất, độc đáo. Đó là những dấu ấn quen thuộc giúp độc giả nhận ra gương mặt của nhà văn, là
cái đích mà mỗi nhà văn chân chính đặt ra trong quá trình sáng tạo.
Phong cách văn học có những biểu hiện đa dạng, phong phú:
1. Thứ nhất là qua cách nhìn, cách cảm mang tính khám phá. Mỗi nhà văn luôn muốn tạo

cho mình một hướng quan sát và khám phá riêng về hiện thực cuộc sống. Hay nói như


Macxen Pruxt: “Đối với nhà văn cũng như người [nghệ sĩ] họa sĩ, phong cách không phải
là vấn đề kĩ thuật mà là vấn đề cái nhìn.”

 


Trong những tác phẩm văn xuôi thời kì 1930 – 1945, Ngô Tất Tố quan tâm tới số phận
cơ cực của những người người nông dân trong cảnh bần cùng hóa [Tắt đèn]; Nam Cao
Đặc biệt quan tâm tới sự tha hóa của con người trước những tác động nghiệt ngã của
hoàn cảnh sống [Đời thừa, Chí Phèo]; Thạch Lam lại lo âu trước tình trạng sống nhàm
chán, vô nghĩa, buồn tẻ của những số phận trong xã hội [Hai đứa trẻ]...
Cách nhìn con người cũng làm nên phong cách riêng của mỗi nhà văn. Nhân vật của
Nguyễn Tuân luôn là những biểu tượng của cái Đẹp toàn thiện toàn mĩ. Nhân vật của
Nam Cao trong những sáng tác trước 1945 như những mảnh vỡ của bi kịch khi mọi ước
mơ, khát vọng cao đẹp lần lượt bị hủy hoại trước thực tế. Với Nguyễn Công Hoan,
những con người xuất hiện trong sáng tác của ông thường ngô nghê, khờ khạo trước
những cạm bẫy cuộc đời. Rất nhiều đứa con tinh thần của Vũ Trọng Phụng xuất hiện như
những nhân cách méo mó trong một thế giới “vô nghĩa lí”.

 


2. Phong cách còn là giọng điệu riêng của mỗi tác giả. Trong “Một thời đại trong thi ca”.

Hoài Thanh và Hoài Chân đã giúp ta nhận mặt thi nhân Việt: “một hồn thơ rộng mở như
Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn
Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên...
và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu”. Đó chính là những nét khắc họa tinh tế
của Hoài Thanh và Hoài Chân về phong cách của mỗi nhà thơ trong phong trào thơ mới
1932 – 1945
3. Phong cách còn thể hiện qua quan niệm của nhà văn về cuộc sống con người thông qua
việc lựa chọn đề tài, xây dựng chủ đề, cách lí giải vấn đề về cuộc sống con người, cách
chọn nhân vật. [ví dụ: giống mục 1].
4. Phong cách cũng được tạo bởi những yếu tố hình thức như tư duy nghệ thuật, ngôn

 


ngữ, kết cấu tác phẩm, thể loại,...
M.Gorki đã từng nhận xét: “Nghệ sĩ là người biết khai thác những ấn tượng riêng chủ
quan của mình, tìm thấy những ấn tượng có giá trị khái quát và làm cho những ấn tượng
ấy có được hình thức riêng”.
Thơ Nguyễn Đình Thi đậm chất tạo hình: Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Thơ Tố Hữu lại nghiêng về biểu cảm, thơ Chế Lan Viên giàu chất suy tưởng, triết lí mang
vẻ đẹp trí tuệ sâu sắc,... Ngôn ngữ văn Kim Lân dung dị đời thường,... Truyện không có
cốt truyện, mỗi truyện ngắn tựa như một bài thơ trữ tình đượm buồn, đó là phong cách
độc đáo của văn Thạch Lam. Những thiên tùy bút tài hoa phóng túng mang đậm dấu ấn
của cái “tôi” cá nhân được coi là thể loại đắc địa cho nhà văn Nguyễn Tuân. Thể thơ lục

 



bát quê kiểng, ngọt ngào như dành riêng để Nguyễn Bính gửi gắm những tâm tình mộc
mạc chân quê trong tác phẩm của mình.
Tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá một nghệ sĩ là ở chỗ anh ta có đem lại một cái gì mới
mẻ riêng biệt hay nói chính xác là một phong cách độc đáo cho nền văn học dân tộc hay
không. Không phải ngẫu nhiên, Tagore lại nói: “Có thể vượt qua thế giới lớn lao của loài
người không phải bằng cách tự xóa mình đi mà bằng cách mở rộng bản sắc của chính
mình”. Hiểu nôm na ra, nghệ thuật phải thống nhất trong bản chất cốt lõi nhưng cách
triển khai lại đa dạng, đổi mới. Phong cách nghệ thuật không phải là sự bất biến cố định,
mà khi triển khai phải phong phú, đa dạng và đổi mới.
Phong cách là thước đo của nghệ thuật. Phong cách độc đáo được biểu hiện ở tính thẩm
mĩ cao, đem đến cho người đọc sự hưởng thụ dồi dào qua những tác phẩm giàu tính

 


nghệ thuật sinh động và hấp dẫn.
Mỗi công dân có một dạng vân tay
Mỗi nhà thơ thứ thiệt có một dạng vân chữ không trộn lẫn.
Vậy phong cách bắt nguồn từ đâu?
1. Phong cách văn học nảy sinh do chính nhu cầu của cuộc sống, xã hội: luôn đòi hỏi sự

xuất hiện của nhân tố mới chưa lặp lại bao giờ.
Ở mỗi thời đại nhất định, do sự chi phối của những điều kiện văn hóa lịch sử, xã hội cụ
thể, các sáng tác văn học có thể có những nét chung về tư duy nghệ thuật và kĩ thuật
biểu hiện. Thời cổ đại, con người bị chi phối nghiệt ngã bởi điều kiện khách quan của
hoạt động sinh tồn, hoàn toàn phụ thuộc vào cộng đồng, trở thành một bộ phận không
thể tách rời của cộng đồng, các nhân vật văn học không được khắc họa cá tính riêng m,à

 


được xây dựng như những đại diện ưu tú cho sức mạnh, vẻ đẹp và phẩm chất của cộng
đồng – đó là trường hợp của Đăm Săn trong trường ca Đăm Săn. Chế độ phong kiến với
những ràng buộc nghiêm ngặt của tam cương, ngũ thường cũng là nguyên nhân tạo nên
tính quy phạm của văn học Trung đại. Cụ thể, đó là quan điểm “văn dĩ tải đạo”, “thi dĩ
ngôn chí”, là sự tư duy nghệ thuật theo những khôn mẫu ở một số thể loại văn học với
những quy định chặt chẽ về kết cấu, niêm luật, hệ thống điển tích, điển cố và những thi
liệu văn học quen thuộc... Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc vô cùng ác liệt kéo dài
suốt 30 Năm đòi hỏi sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân xung quanh Đảng, Bác Hồ...
đó là hoàn cảnh đặc biệt của xã hội Việt Nam từ thời kì 1945 – 1975 chi phối tính chất
chung của một nền văn học mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Công
cuộc đổi mới đất nước từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI [1986] đã đem đến cho đời sống
văn học một luồng gió mới, văn học dần vận động theo hướng dân chủ hóa, mang tính

 


nhân bản, nhân văn sâu sắc. Đề tài được mở rộng từ hiện thực đời sống chính trị - xã hội
đén những mảng hiện thực bề bộn, phức tạp của cuộc sống. Sự vận đọng xuôi chiều lạc
quan, tươi sáng trong những mô típ chủ đề hữu hạn và đơn nhất trước 1975 đã được bổ
sung và đi sâu vào diễn biến đầy bất ngờ, bí ẩn trong tính đa nghĩa của các tầng bậc chủ


đề. Từ thuần túy là những nhân vật loại hình với chức năng cơ bản của cộng đồng, biểu
dương chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng Cách mạng Việt Nam, nhân vật văn
học sau năm 1975 luôn được khám phá và thể hiện ở chiều sâu cảm thức, giúp nhà văn
phản ánh những hiện thực phong phú, phức tạp của cuộc sống đời thường...
Mỗi đất nước, mỗi dân tộc với đặc điểm riêng về văn hóa, lịch sử, phong tục, tập quán,...
sáng tác văn học cũng sẽ mang những đặc điểm phong cách đặc thù. Tinh thần thiền

 


tông và đặc điểm văn hóa phương Đông là nét riêng độc đáo trong những bài thơ Hai-cư
tinh tế, hàm súc của các nhà thơ Nhật Bản. Quan niệm “quý hồ tinh bất quý hồ đa” cũng
là một trong những nhân tố tạo nên nét đặc sắc của những bài thơ tứ tuyệt Việt Nam
thời Trung đại.
2. Phong cách văn học còn bắt nguồn do nhu cầu sáng tạo nghệ thuật, nhu cầu khẳng định
bản lĩnh, tìm tòi cái mới của nhà văn để tạo nên tính hấp dẫn, sức sống cho tác phẩm
của mình.
M.Gorki nhận xét: “Cái bình thường là cái chết của nghệ thuật” cũng là vì lẽ đó.
Ý nghĩa của phong cách văn học
Phong cách văn học chính là dấu ấn thẩm mĩ, là gương mặt riêng độc đáo trong thế giới nghệ
thuật của mỗi nhà văn, mỗi thời đại văn học, giai đoạn văn học hoặc một nền văn học. Qua đó,
nó giúp nghệ sĩ khẳng định cái tôi cá nhân tài hoa độc đáo, vừa tài năng, bản lĩnh khác ngườ,

 


thậm chí là hơn ngườ của nhà văn; giúp tác phẩm hấp dẫn người đọc, tạo nên sức mạnh của
trường phái hoặc trào lưu văn học; đánh dấu bước phát triển của quá trình văn học và lịch sử.
Tiếp nhận văn học từ góc độ phong cách văn học không chỉ đem đến cho người đọc những
cảm xúc thẩm mĩ dồi dào, mà còn giúp nhận thức sâu sắc hơn những yếu tố quan trọng trong
quá trình văn học như: quan niệm nghệ thuật về con người, giá trị văn học, quy luật phát triển
của văn học...
Hoa Huyền Hương – Sưu tầm và chỉnh sửa

 

1. Mối quan hệ giữa văn học và hiện thực cuộc sống

Mở bài 1

Có ai yêu một loài hoa không sắc không hương? Có ai quyến luyến những vần thơ khô khan không cảm xúc? Văn chương phản ánh hiện thực nhưng nó không phải là một tấm hình khô cứng và vô hồn, mà đó là tiếng lòng thổn thức từ những câu chuyện của cuộc đời – câu chuyện được ngân vang trên ngọn đồi tuyết phủ trắng trời, thấp thoáng những đóa sơn trà e ấp trong làn sương giăng mờ ảo. Chính hiện thực cuộc sống luôn là cảm hứng cho sáng tác văn học, là cội nguồn gọi thức con chữ, là cầu nối tâm hồn đồng điệu của người nghệ sĩ với độc giả. Chính vì vậy, … đã khẳng định: …

Mở bài 2

“Anh đi qua trái đất để lại chừng thơ ấy
Hãy thương anh! Anh nào có chi nhiều
Một chút nắng tàn, một dòng nước chảy
Trái tim nghèo, nhưng cũng đã tin yêu”.

Nếu hội họa dùng đường nét và màu sắc để phác họa nên bức tranh cuộc sống, âm nhạc dùng ca từ và giai điệu để tạo nên những tiếng ca thì văn học dùng ngôn ngữ và hình ảnh để làm chất liệu cho sáng tác. Hiện thực đời sống luôn là nguồn cảm hứng vô tận sáng tạo nên văn chương, người nghệ sĩ phải đứng vững trên mảnh đất đời sống, lấy đó làm điểm tựa, điểm xuất phát thì mới mong tạo ra được thứ gì đó để đời. Nói như …:

 

Chủ Đề